Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***********

LÊ THỊ THU ÁNH

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN
VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***********

LÊ THỊ THU ÁNH

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN
VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Thu Ánh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
1

MỞ ĐẦU


Chƣơng 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÁP DỤNG

5

PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN
THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI

1.1.

Khái quát chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp

5

của bên thứ ba
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế
chấp của bên thứ ba
Áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
1.2.
của bên thứ ba
1.3.

Những yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật về bảo đảm

5
11

20
24

tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba
1.4.

Khái quát pháp luật Việt Nam về bảo đảm tiền vay bằng tài

26

sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại
Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

30

TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

2.1.

Về chủ thể tham gia hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản

30

thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại
2.2.

Về hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba


44


2.3.

Về xử lý tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay của bên thứ ba

2.4.

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng
mại ở Việt Nam
2.4.1. Đánh giá chung
2.4.2. Những bất cập và tồn tại
Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

67
83

83
84
86

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN
THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM

3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và phƣơng hƣớng hoàn


86

thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của
bên thứ ba
3.2.

Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo

88

đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba
3.3.

Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm

93

tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng
thƣơng mại ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99
102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo đảm tiền vay là vấn đề trọng tâm và có vai trò to lớn trong hoạt động

cho vay của các ngân hàng thƣơng mại (NHTM) hiện nay, nhằm hạn chế rủi
ro khi NHTM cho khách hàng vay vốn đồng thời đảm bảo sự an toàn cho hệ
thống ngân hàng.
Hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều biện pháp bảo
đảm nghĩa vụ dân sự nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng. Thực tiễn hoạt
động tín dụng ngân hàng cho thấy, trong số các biện pháp bảo đảm tiền vay
thì thế chấp là biện pháp bảo đảm đƣợc sử dụng phổ biến nhất. Thế chấp tài
sản để bảo đảm tiền vay có hai trƣờng hợp: thế chấp tài sản của chính bên vay
(bên có nghĩa vụ) và thế chấp tài sản của bên thứ ba. Bảo đảm tiền vay bằng
tài sản thế chấp của bên thứ ba có một số đặc thù khác biệt so với thế chấp
thông thƣờng. Việc khách hàng vay sử dụng tài sản của bên thứ ba để bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay của mình bằng hình thức thế chấp trong thời
gian vừa qua đƣợc sử dụng rộng rãi. Nhiều tranh chấp hợp đồng tín dụng xuất
phát từ bảo đảm tiền vay bằng hình thức thế chấp tài sản của bên thứ ba cũng
gây nhiều tranh cãi bởi còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Có thể nói, dù đƣợc quy định tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau,
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng thế chấp nói chung và bảo đảm tiền vay
bằng thế chấp tài sản của bên thứ ba nói riêng vẫn chƣa hoàn thiện. Thực tiễn
áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba
thời gian gần đây còn nhiều vƣớng mắc, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau.
Từ cán bộ Tòa án, cán bộ cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về bảo đảm tiền
vay, ngân hàng và cả khách hàng đều gặp những khó khăn nhất định trong

1


quá trình áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba.
Xuất phát từ tính chất đặc thù của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
của bên thứ ba, xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay

bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, việc nghiên cứu để phát hiện những bất
cập, tồn tại, vƣớng mắc để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của
bên thứ ba là rất cần thiết. Đó là lý do tác giả lựa chọn vấn đề “Thực tiễn áp
dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại
ngân hàng thương mại ở Việt Nam” làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền
vay nói chung và bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba nói
riêng đã đƣợc đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu nhƣ:
- Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
của các tổ chức tín dụng, NXB Tƣ pháp, Hà Nội.
- Hoàng Thị Quỳnh Trang (2013), Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng bất
động sản tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Đại học quốc gia Hà Nội.
- Đỗ Thanh Huyền (2011), Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là
bất động sản của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật
học, Đại học quốc gia Hà Nội.
- Đoàn Thái Sơn (2012), Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất của bên thứ ba, Tạp chí ngân hàng số 12/2012.
Các công trình nghiên cứu nói trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác
giả triển khai đề tài của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nói trên
chỉ đề cập đến bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba với tƣ
2


cách là một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu của mình. Hiện nay, cùng
với sự thay đổi của chính sách, pháp luật; thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn
đề này còn nhiều quan điểm khác nhau gây nên sự tranh cãi, chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu của xã hội. Do đó, việc nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật và

thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba, từ đó đƣa ra những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu cơ bản của đề tài là tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba, phân tích thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thƣơng mại, chỉ ra những tồn
tại, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật vấn đề này, từ đó, đề xuất
một số giải pháp có cơ sở lý luận và phù hợp thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
thế chấp của bên thứ ba tại các ngân hàng thƣơng mại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại
các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất
định, luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm quốc tế có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy định về chủ thể, hợp
đồng và xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba, thực tiễn hoạt động bảo đảm
tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại NHTM và xử lý tài sản thế
chấp của bên thứ ba.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

3


Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh; đƣờng lối của Đảng về Nhà nƣớc và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên
cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên

ngành nhƣ: phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn
logic… Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào các vụ việc trong thực tiễn
xét xử, cũng nhƣ thông tin trên mạng Internet để tổng hợp và làm sáng tỏ các nội
dung cần nghiên cứu của đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng pháp luật bảo đảm
tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng
thƣơng mại ở Việt Nam

4


CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THẾ CHẤP CỦA BÊN THỨ
BA TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay của các ngân hàng
thƣơng mại (NHTM) nói riêng là một loại hình kinh doanh tiền tệ phức tạp.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, vay mƣợn tiền tệ có hoàn trả cả gốc và
lãi giữa NHTM và khách hàng vay. Rủi ro trong hoạt động cho vay của
NHTM cũng rất phức tạp và đa dạng. Pháp luật của hầu hết các nƣớc đều có

quy định cụ thể về an toàn trong hoạt động tín dụng, trong đó bảo đảm tiền
vay đƣợc xem là quan trọng nhất.
Bảo đảm tiền vay là vấn đề trọng tâm và có vai trò to lớn trong hoạt
động cho vay của các NHTM hiện nay. Trong hoạt động cho vay của NHTM,
bảo đảm tiền vay đƣợc hiểu là những biện pháp bảo đảm việc trả nợ vốn vay.
Nói cách khác, bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận của ngƣời đi vay và NHTM
trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm thiết lập các biện pháp tác động mang
tính chất dự phòng để đảm bảo việc trả nợ vốn vay, ngăn ngừa vi phạm và tạo
khả năng khắc phục hậu quả do vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay gây ra.
Khoản 1 Điều 2 Nghị định 178/1999/NĐ-CP định nghĩa “ Bảo đảm tiền vay là
việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế
và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”.
Có thể chia bảo đảm tiền vay thành hai loại: bảo đảm tiền vay bằng tài
sản và bảo đảm tiền vay không bằng tài sản; trong đó bảo đảm tiền vay bằng

5


tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay hoặc của bên
thứ ba, có thể bằng tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành từ vốn vay. Bảo
đảm tiền vay bằng tài sản là loại bảo đảm tiền vay mà theo đó nghĩa vụ trả nợ
của khách hàng vay đƣợc cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế
chấp của khách hàng vay hoặc của bên thứ ba. Trong trƣờng hợp khách hàng
vi phạm nghĩa vụ trả nợ hoặc bên thứ ba không thực hiện nghĩa vụ thì tài sản
bảo đảm tiền vay sẽ đƣợc xử lý để thu hồi nợ cho NHTM. Bộ luật dân sự
(BLDS) Việt Nam 2005 quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ,
bảo lãnh và tín chấp. Biện pháp cầm giữ tài sản, hàng hóa đƣợc quy định
trong Bộ luật hàng hải. Khoản 1 Điều 94 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổ
chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương

án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn
hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng”.
Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD quy định về
các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp tài
sản của khách hàng vay hoặc của bên thứ ba, bảo đảm tiền vay bằng tài sản
hình thành từ vốn vay. Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy
định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhƣ trong Bộ luật dân sự 2005.
Trên thực tế, số lƣợng các biện pháp bảo đảm đƣợc sử dụng trong hoạt động
cho vay của các NHTM ít hơn so với các biện pháp bảo đảm đƣợc quy định
trong BLDS và Nghị định 163. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự và bảo đảm tiền vay có chung đặc điểm là sử dụng tài sản cụ thể để
bảo đảm thi hành nghĩa vụ.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc bên có nghĩa vụ (khách hàng vay
vốn) hoặc bên thứ ba dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm
cho nghĩa vụ xác lập đƣợc thực hiện. Thực chất, ở loại biện pháp này, bên bảo

6


đảm xác nhận cho bên nhận bảo đảm có quyền năng chi phối đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Để quyền đó đƣợc vẹn toàn, pháp luật phải tính
đến việc dựa vào đâu để xác định quyền sở hữu của ngƣời bảo đảm (giấy tờ
gốc, bản gốc, bản sao có công chứng, trƣờng hợp không có giấy chứng nhận
quyền sở hữu thì nhƣ thế nào?), hay là việc công khai hóa quyền của ngƣời
nhận bảo đảm đối với tài sản của ngƣời bảo đảm (đăng ký giao dịch bảo
đảm).
Tài sản bảo đảm có thể là bất động sản, động sản, quyền tài sản. Khi
nghĩa vụ bị vi phạm - khách hàng không trả nợ theo thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng ngân hàng hoặc bên thứ ba thực hiện không đúng nghĩa vụ trả
nợ thì tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại NHTM đƣợc xử lý để thu

hồi nợ, bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền.
Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của khách
hàng vay có đối tƣợng trực tiếp là tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của ngƣời
bảo đảm đƣợc đem ra bảo đảm cho chính nghĩa vụ của ngƣời đó. Trong biện
pháp bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba thì đối
tƣợng trực tiếp đƣợc đƣa ra bảo đảm là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của bên thứ ba để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên có nghĩa vụ.
Vậy trong bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay chỉ có
hai bên chủ thể mang quyền và nghĩa vụ quan hệ với nhau; nghĩa vụ có đƣợc
thực hiện, thực hiện đúng hay không chỉ phụ thuộc vào bên có nghĩa vụ. Nếu
có ngƣời thứ ba xuất hiện làm nhiệm vụ quản lý tài sản thì ngƣời này không
đóng vai trò quyết định trong thực hiện nghĩa vụ chính. Ngƣợc lại, trong biện
pháp bảo đảm có tài sản của bên thứ ba, có ba bên chủ thể và xét cho cùng
bên thứ ba đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện nghĩa vụ khi nó phát
sinh. [19, tr 51.]
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản có những đặc điểm cơ bản sau:

7


Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản tồn tại bên cạnh
nghĩa vụ trả nợ của hợp đồng tín dụng mà nó bảo đảm.
Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định:
“1. Hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chƣa
thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một
phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm thì giao dịch bảo đảm
không chấm dứt, trừ trƣờng hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa
vụ đƣợc bảo đảm, trừ trƣờng hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phƣơng

chấm dứt thực hiện mà các bên chƣa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo
đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ
đƣợc bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trƣờng hợp có thoả
thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phƣơng chấm dứt thực hiện
không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, trừ trƣờng hợp có
thoả thuận khác.
5. Trong trƣờng hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định
tại khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản
bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
Theo quy định tại Điều 15 nói trên, nếu áp dụng cho hợp đồng tín dụng
có bảo đảm bằng thế chấp tài sản thì có thể hình dung mối tƣơng quan về hiệu
lực giữa hai hợp đồng này (hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp) nhƣ sau:
8


Trường hợp thứ nhất, có hai khả năng xảy ra:
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp bị vô hiệu hoặc đã
có hiệu lực nhƣng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn
phƣơng của một bên nhƣng chƣa đƣợc thực hiện thì hợp đồng thế chấp bị
chấm dứt. Cần lƣu ý rằng theo quy định của điều luật nêu trên thì trong
trƣờng hợp này, hợp đồng thế chấp bị chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi
sau đó mới chấm dứt hiệu lực do không cần thiết duy trì hiệu lực của hợp
đồng thế chấp nữa, chứ không phải là hợp đồng thế chấp bị vô hiệu ngay từ
khi ký kết.
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp bị vô hiệu hoặc đã
có hiệu lực nhƣng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn
phƣơng của một bên và đã đƣợc thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp
đồng thế chấp không bị đƣơng nhiên chấm dứt, trừ trƣờng hợp các bên có
thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thế chấp này vì thấy không cần thiết phải tiếp

tục thực hiện hợp đồng nữa. Trong trƣờng hợp này, nếu hợp đồng thế chấp
không bị chấm dứt trong khi tổ chức tín dụng đã giải ngân cho khách hàng thì
bên nhận thế chấp (tổ chức tín dụng) có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu
hồi số tiền đã giải ngân cho khách hàng. Ngoài việc bảo đảm cho nghĩa vụ trả
nợ tiền vay phát sinh từ hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản còn có
thể đƣợc sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền cho tổ chức tín dụng
trong trƣờng hợp hợp đồng tín dụng bị vô hiệu nhƣng tổ chức tín dụng đã
thực hiện giải ngân cho khách hàng.
Trường hợp thứ hai, hợp đồng thế chấp bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ,
chấm dứt đơn phƣơng sẽ không ảnh hƣởng đến hiệu lực của hợp đồng tín

9


dụng, trừ trƣờng hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng thỏa thuận hủy bỏ
hay chấm dứt hợp đồng này.
Về khía cạnh pháp luật thực định, tại Điều 410 Bộ luật Dân sự 2005,
tuy nhà làm luật vẫn mô tả rõ bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa hợp
đồng chính và hợp đồng phụ nhƣng đồng thời cũng khẳng định rằng, các quy
định về mối quan hệ này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
dân sự, trong đó có biện pháp thế chấp tài sản. Theo ý kiến chúng tôi, nhà làm
luật lựa chọn giải pháp này cho mối quan hệ giữa hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc
bảo đảm với hợp đồng bảo đảm là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ tránh
đƣợc những rủi ro về kinh tế trong trƣờng hợp hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc
bảo đảm bị vô hiệu mà bên chủ nợ (bên nhận bảo đảm) đã thực hiện hợp đồng
này với ngƣời đối ƣớc.[26]
Bộ luật dân sự Nga năm 1995 khoản 2, 3 Điều 329 cũng quy định về sự
vô hiệu của thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không làm ảnh hƣởng
đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và cũng đƣợc áp dụng trong lĩnh vực bảo
đảm tiền vay tại các NHTM. [19, tr 48.]

Thứ hai, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản nhằm mục đích nâng
cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ tín dụng giữa NHTM và khách
hàng vay vốn
Thứ ba, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các biện pháp
mang tính dự phòng
Thứ tƣ, phạm vi bảo đảm không vƣợt quá phạm vi nghĩa vụ đã đƣợc
xác định trong nội dung quan hệ chính
Thứ năm, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản đƣợc áp dụng
trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên, đƣợc thiết lập trong phạm vi các biện
pháp bảo đảm
10


Thứ sáu, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ chỉ bị xử lý khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung và các biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng tài sản nói riêng dù đƣợc ghi nhận dƣới bất kỳ hình
thức nào đều nhằm mục đích bảo đảm sự ổn định và phát triển bình thƣờng
của các quan hệ tài sản, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các chủ thể giao lƣu
dân sự, kinh tế. Sự tồn tại của cả hệ thống bảo đảm tiền vay bằng tài sản
thông qua quy chế bảo đảm tiền vay là điều kiện quan trọng cho thị trƣờng tín
dụng phát triển. Do đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản đóng vai
trò to lớn trong hoạt động cấp tín dụng, làm giảm nguy cơ thiệt hại cho ngân
hàng, bảo đảm an toàn đối với các khoản vay, là cơ sở để ngân hàng bảo toàn
và phát triển hoạt động cấp tín dụng của mình đối với các chủ thể trong nền
kinh tế. [19]
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
của bên thứ ba
Áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ
trả nợ vay của khách hàng tại ngân hàng là việc làm phổ biến trong hoạt động

cấp tín dụng tại các ngân hàng. Nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba là việc
ngân hàng nhận tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo
đảm (chủ sở hữu tài sản bảo đảm hay còn gọi là “bên thứ ba”) để bảo đảm cho
việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay của bên vay vốn (bên có nghĩa vụ đƣợc bảo
đảm) với ngân hàng. Hợp đồng bảo đảm đƣợc ký kết trong trƣờng hợp này là
hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Mối quan hệ hợp đồng này
thƣờng có sự tham gia của ba bên: ngân hàng với vai trò là bên nhận bảo đảm,
đồng thời là bên cho vay trong quan hệ cấp tín dụng; chủ sở hữu tài sản là bên

11


bảo đảm hay còn gọi là bên thứ ba mang tài sản của mình để bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay với ngân hàng; và khách hàng vay là bên
đƣợc bảo đảm. Trƣờng hợp thế chấp tài sản bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm
đƣợc gọi là hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua, khi khách hàng vay không trả đƣợc nợ
vay ngân hàng theo thỏa thuận, ngân hàng lại tiến hành xử lý tài sản bảo đảm
là quyền sử dụng đất của bên bảo đảm (bên thứ ba) để thu hồi nợ vay theo quy
định của Luật đất đai 2003, và bên thứ ba khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên hợp
đồng bảo đảm vô hiệu. Trên thực tế, khi giải quyết loại tranh chấp này, một số
tòa án nhân dân các cấp (cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm) đã tuyên hợp đồng
bảo đảm của bên thứ ba là vô hiệu với lý do chủ yếu cho rằng, đây là mối
quan hệ ba bên nên đáng lẽ các bên liên quan phải ký kết hợp đồng bảo lãnh
(giữa ba bên), chứ không phải là hợp đồng thế chấp. Ðiều đáng lƣu ý ở đây là
các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba này đã đƣợc các bên
liên quan hoàn tất thủ tục công chứng tại văn phòng công chứng và đăng ký
thế chấp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Vấn đề đặt ra ở đây là việc
bên thứ ba thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình đề bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ của bên vay (bên đƣợc bảo đảm) trong hoạt động cho vay của

các NHTM về mặt bản chất pháp lý phải đƣợc hiểu nhƣ thế nào? [23]
Ðiều 346 Bộ luật Dân sự 1995 quy định: “Thế chấp tài sản là việc bên
có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền…”. Nhƣ vậy, theo quy định của Bộ
luật Dân sự 1995, thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc
sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình đối với bên
có quyền.

12


Tuy nhiên, Ðiều 342 Bộ luật Dân sự 2005 đã thay đổi quy định về thế
chấp nhƣ sau: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp)
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự
đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)” và không chuyển giao tài
sản đó cho bên nhận thế chấp.
Nhƣ vậy, có thể thấy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ quy
định bên thế chấp bắt buộc phải đồng thời là bên có nghĩa vụ trong quy định
về thế chấp của Bộ luật Dân sự 1995. Hay nói cách khác, theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005, nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bằng thế chấp tài sản có thể là
nghĩa vụ của chính bên thế chấp (chủ sở hữu tài sản) hoặc có thể là nghĩa vụ
của ngƣời khác không phải là bên thế chấp. Do vậy, hiểu một cách chính xác,
quan hệ "thế chấp" đƣợc quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 sẽ xảy ra trong hai
trƣờng hợp:
+ Trƣờng hợp thứ nhất: Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm
bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bên có quyền.
+ Trƣờng hợp thứ hai: Thế chấp là việc dùng tài sản của mình đảm bảo
cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của ngƣời khác đối với bên có quyền.

Ở trƣờng hợp thứ hai sẽ xuất hiện bên thứ ba tham gia vào quan hệ thế

chấp, và xét về mặt bản chất đó chính là trƣờng hợp "thế chấp tài sản của bên
thứ ba".
Điều 3.1 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012) quy định: “Bên bảo đảm là
bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình, dùng quyền sử dụng đất của mình,
dùng uy tín hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên nhận bảo đảm để
13


bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chính mình hoặc của ngƣời khác,
bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cƣợc, bên ký quỹ, bên
bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trƣờng hợp tín chấp”.
Tùy biện pháp bảo đảm là bảo lãnh hay thế chấp mà chủ thể của nó đƣợc gọi
là bên bảo lãnh hay bên thế chấp. Trong quan hệ tín dụng, hợp đồng tín dụng
là hợp đồng chính, hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ, bên bảo đảm nếu độc
lập với bên vay vốn thì còn đƣợc gọi là bên thứ ba (là bên không tham gia xác
lập hợp đồng tín dụng) và với quy định nêu trên thì bên thứ ba có thể lựa
chọn: dùng tài sản hay dùng uy tín, cam kết (hoặc cả hai) để xác lập giao dịch
bảo đảm.
Về vấn đề bảo lãnh, Ðiều 366 Bộ luật Dân sự 1995 quy định:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên có nghĩa
vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;
2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình
hoặc bằng việc thực hiện công việc”.
Nhƣ vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995, bảo lãnh là quan hệ
ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh (bên có quyền) và bên đƣợc bảo lãnh
(bên có nghĩa vụ). Trong đó, ngƣời bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực
hiện thay nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ bằng tài sản (đối vật) hoặc bằng việc

thực hiện công việc (đối nhân).
Tuy nhiên, Ðiều 362 Bộ luật Dân sự 2005 đã thay đổi quy định về bảo
lãnh nhƣ sau: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh)

14


cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu
khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ của mình”.
Nhƣ vậy, có thể thấy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ quy
định cho phép bên bảo lãnh thực hiện cam kết bảo lãnh bằng tài sản. Hay nói
cách khác, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, bảo lãnh là việc bên bảo
lãnh cam kết thực hiện thay nghĩa vụ cho bên đƣợc bảo lãnh (bên có nghĩa vụ)
mà không đƣa ra bất kỳ tài sản nào để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh. Bảo lãnh chỉ áp dụng trong trƣờng hợp bên bảo lãnh không chỉ định
một tài sản cụ thể nào của mình để đảm bảo cho cam kết thực hiện nghĩa vụ.
Nếu bên bảo lãnh chỉ định một tài sản cụ thể nào đó làm tài sản đảm bảo, lúc
này giao dịch sẽ trở thành cầm cố hay thế chấp.
Từ phân tích trên thấy rằng, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005,
quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp không phải đƣợc phân biệt bằng việc
xem xét quan hệ đó có hai hay ba bên tham gia, mà điểm cơ bản để phân biệt
quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp là: quan hệ bảo lãnh là quan hệ bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ không có chỉ định tài sản cụ thể đảm bảo, mà biện pháp
đảm bảo chính là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đƣợc đảm bảo, còn quan hệ
thế chấp là quan hệ đảm bảo thực hiện nghĩa vụ có chỉ định tài sản cụ thể để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Hiện nay trong rất nhiều vụ tranh chấp tín dụng,

tòa thƣờng “nhầm lẫn” giữa thế chấp tài sản với bảo lãnh bởi chƣa nắm bắt
kịp sự thay đổi trong các quy định pháp luật về vấn đề này. [28]

15


Thế chấp tài sản của ngƣời thứ ba - Theo quy định tại khoản 1, điều 4,
Nghị định 163, tài sản bảo đảm có thể thuộc sở hữu của bên thứ ba mà ngƣời
này dùng tài sản đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối
với bên có quyền. Trƣờng hợp này là bên thứ ba dùng tài sản của mình để bảo
đảm trực tiếp nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp (tức là
bên có quyền) và nó khác với việc bên thứ ba bảo đảm nghĩa vụ bằng bảo
lãnh (điều 44, Nghị định 163). Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hay thực
hiện không đúng nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, bên nhận thế chấp có quyền xử lý
tài sản thế chấp. Nếu giá trị tài sản thế chấp không đủ để thanh toán nghĩa vụ
đƣợc bảo đảm, bên thế chấp không phải thanh toán phần còn thiếu.
Tóm lại, về mặt bản chất, việc bên thứ ba chứ không phải là bên vay
thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ
tiền vay của bên vay tại các NHTM phải đƣợc hiểu là thế chấp chứ không
phải là bảo lãnh căn cứ vào quy định của luật gốc về bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự nói chung và bảo đảm tiền vay tại NHTM nói riêng. Hiện nay,
trong tất cả các văn bản luật chuyên ngành và văn bản hƣớng dẫn thi hành
luật liên quan đến bảo đảm tiền vay đều quy định theo hƣớng chuyển bảo lãnh
bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba thành thế chấp tài sản của bên thứ ba.
Khoản 1 Ðiều 31 Nghị định số 84/2007/NÐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ
sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDÐ), thu hồi đất,
thực hiện QSDÐ, trình tự, thủ tục bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi nhà nƣớc
thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai quy định: “Bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Ðất đai được
hiểu là thế chấp bằng quyền sử dụng đất cho người thứ ba vay vốn theo quy

định của Bộ luật Dân sự (sau đây gọi chung là thế chấp bằng quyền sử dụng
đất). Khoản 4 Ðiều 72 Nghị định 163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 của

16


Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định: “Việc bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo
quy định tại Nghị định số 181/2004/NÐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ
về thi hành Luật Ðất đai, quy định tại khoản 5 Ðiều 32, khoản 4 Ðiều 33,
khoản 4 Ðiều 34, khoản 4 Ðiều 35 và khoản 1 Ðiều 36 Nghị định số
23/2006/NÐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và
phát triển rừng và các văn bản hướng dẫn thi hành được chuyển thành việc
thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất
là rừng trồng của người thứ ba”. Nghị định số 11/2012/NÐ-CP của Chính
phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NÐ-CP đã tiếp tục
khẳng định: “Việc bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng,
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định tại Nghị định số
181/2004/NÐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Ðất đai,
quy định tại khoản 5 Ðiều 32, khoản 4
Ðiều 33, khoản 4 Ðiều 34, khoản 4 Ðiều 35 và khoản 1 Ðiều 36 Nghị định số
23/2006/NÐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và
phát triển rừng và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đƣợc chuyển thành việc thế
chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là
rừng trồng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác”. Ðiểm 2.1
khoản 2 Mục 2 Thông tƣ liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày
13/6/2006 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tƣ
05/2005/TTLT/BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 hƣớng dẫn việc đăng ký thế
chấp, bảo lãnh bằng QSDÐ, tài sản gắn liền với đất (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung
tại Thông tƣ số 06/2010/TTLT-BTP-BTNMT) quy định: “2. Các trường hợp

đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất: 2.1. Thế chấp
quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba mà trong
Luật Ðất đai gọi là bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất (gọi chung là thế chấp

17


quyền sử dụng đất)”. Ðiểm 1.1 khoản 1 Mục I Thông tƣ liên tịch số
04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 hƣớng dẫn việc công chứng,
chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của ngƣời sử dụng đất quy
định: “Thông tƣ này hƣớng dẫn việc công chứng của Phòng Công chứng và
chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với các hợp đồng,
văn bản sau đây: a) Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhƣợng, tặng, cho, thuê,
thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba mà Luật Ðất đai gọi là bảo lãnh
bằng quyền sử dụng đất (gọi là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất)”.
Thông tƣ liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày 18/11/2011 của Bộ
Tƣ pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng hƣớng dẫn việc đăng ký thế chấp
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chỉ quy định trình tự, thủ tục, hồ sơ
đối với việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất. [25]
Tất cả những thay đổi trong các văn bản pháp luật nói trên là bởi nó
căn cứ vào Bộ luật dân sự 1995 và Luật đất đai 2003. Đến khi BLDS 2005 ra
đời, khái niệm bảo lãnh bằng tài sản không còn nữa và được chuyển thành
thế chấp tài sản của bên thứ ba thì với tính cách là đạo luật gốc, tất cả các
văn bản pháp luật có liên quan đều phải thay đổi theo định hướng đó.
Xuất phát từ bản chất của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của
bên thứ ba trong hoạt động cho vay của NHTM nhƣ đã phân tích ở trên, có
thể suy ra một số đặc trƣng của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của
bên thứ ba. Đó là:
- Có sự tham gia của hai bên trong thế chấp tài sản của bên thứ ba để

bảo đảm tiền vay: bên bảo đảm (bên thứ ba) và bên nhận bảo đảm (ngân hàng
cho vay)

18


- Bên thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm nghĩa
vụ trả nợ tiền vay không phải là bên vay mà là một bên thứ ba khác.
- Bên thứ ba thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay chứ không phải nghĩa vụ của chính mình.
- Bên thứ ba chỉ định tài sản thế chấp cụ thể dùng để bảo đảm. Trong
trƣờng hợp vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay, NHTM có quyền ƣu tiên đối với
tài sản đã đƣợc thế chấp của bên thứ ba, có quyền xử lý chính tài sản đó để
thu hồi nợ vay theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
Cần phải nhìn nhận đúng bản chất pháp lý và những đặc trƣng của bảo
đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba trong hoạt động cho vay
của NHTM để hạn chế tối đa mọi tranh chấp liên quan có thể xảy ra.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba góp phần thúc
đẩy tăng trƣởng tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại trong thời gian vừa
qua. Điều này đƣợc thể hiện qua những phƣơng diện sau:
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba là cơ sở để
đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của các NHTM
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba kích thích hoạt
động cho vay của NHTM đối với khách hàng vay
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tạo và mở rộng
cơ hội cho khách hàng vay vốn tại NHTM
- Bảo đảm tiền vay có vai trò quan trọng trong việc hạn chế các tranh
chấp xảy ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ
tín dụng ngân hàng
Các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay nhằm đảm bảo quyền lợi

cho cả bên vay và NHTM. Các NHTM có vai trò to lớn trong nền kinh tế, do
đó, cần phải bảo đảm cho hệ thống này vận hành một cách hiệu quả, ổn định,

19


bền vững. Hơn nữa, còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho các bên vay vốn tiếp
cận nguồn vốn tín dụng, phát huy tối đa việc khai thác các nguồn lực kinh tế.
[19]
1.2 Áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại
1.2.1 Khái niệm
Áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba là hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế
chấp của bên thứ ba trong đó nhà nƣớc thông qua các cơ quan nhà nƣớc hoặc
chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật có liên quan đến bảo
đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba thực hiện các quy định
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
thế chấp của bên thứ ba ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt các quan hệ pháp luật của bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba.
Áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên
thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại là hoạt động của các chủ thể đƣợc pháp luật
qui định nhằm cá biệt hoá qui phạm pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản thế chấp của bên thứ ba thành quyền, nghĩa vụ hay trách nhiệm pháp lí cụ
thể cho các cá nhân, tổ chức cụ thể, xác định có liên quan đến bảo đảm tiền
vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣơng mại.
1.2.2 Đặc điểm
Thứ nhất, áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp

của bên thứ ba là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc.
Hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
của bên thứ ba chỉ do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo

20


×