Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Kỹ thuật lập pháp trong quốc triều hình luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN QUANG THÀNH

KỸ THUẬT LẬP PHÁP TRONG QUỐC TRIỀU
HÌNH LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN QUANG THÀNH

KỸ THUẬT LẬP PHÁP TRONG QUỐC TRIỀU
HÌNH LUẬT
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số
: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MINH TUẤN

Hà nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn này chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn này đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội xem xét để tôi bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Quang Thành


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ...............................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................5
3.1. Mục đích nghiên cứu ......................................................................... 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu . .........................................................6
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................................6
6. Ý nghĩa và giá trị thực tiễn của luận văn ...............................................7
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ TƢ TƢỞNG, HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC
TRƢNG CƠ BẢN VỀ PHƢƠNG DIỆN LẬP PHÁP CỦA QUỐC TRIỀU
HÌNH LUẬT. .................................................................................................................... 8
1.1. Thời điểm ban hành bộ luật..................................................................8
1.2. Cơ sở tƣ tƣởng, bối cảnh chính trị - xã hội ra đời Quốc triều hình
luật ................................................................................................................11
1.2.1. Cơ sở tư tưởng của Quốc triều hình luật. .................................... 11
1.2.2. Bối cảnh chính trị - xã hội ra đời Quốc triều hình luật .............. 17
1.3. Đặc trƣng của Quốc triều hình luật trên phƣơng diện lập pháp ....23


1.3.1. Quốc triều hình luật là thành quả của quá trình tập hợp hoá các
quy định pháp luật của nhiều triều vua hậu Lê .................................... 23
1.3.2. Quốc triều hình luật kế thừa thành tựu lập pháp của các triều
đại Lý – Trần ........................................................................................... 26
1.3.3. Quốc triều hình luật tiếp thu có chọn lọc pháp luật phong kiến
Trung Quốc .............................................................................................. 28
1.3.4. Quốc triều hình luật là bộ luật có tác động mạnh mẽ, toàn diện,
sâu sắc đến hoạt động của bộ máy đương thời và của xã hội............... 32
1.3.5. Quốc triều hình luật có tính ổn định lâu dài trong quá trình điều
chỉnh trên thực tế ................................................................................... 34
1.3.6. Quốc triều hình luật có những quy định mang tính nhân văn sâu
sắc ............................................................................................................. 34
CHƢƠNG 2: KỸ THUẬT LẬP PHÁP CỦA QUỐC TRIỀU HÌNH
LUẬT VÀ GIÁ TRỊ KẾ THỪA .............................................................................. 38
2.1. Kỹ thuật lập pháp của Quốc triều hình luật .....................................38
2.1.1. Quốc triều hình luật bảo đảm tính nguyên tắc trong xây dựng

luật............................................................................................................ 38
2.1.2. Cách thức thể hiện nội dung bộ luật ............................................ 49
2.1.3. Kỹ thuật pháp lý trong xây dựng quy phạm pháp luật ................ 52
2.1.4. Kỹ thuật lập pháp trong một số lĩnh vực cụ thể ........................... 57
2.2. Một số bài học kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng pháp luật ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................88
2.2.1. Về tính nguyên tắc trong xây dựng luật ....................................... 89
2.2.2. Về cách thức thể hiện nội dung bộ luật ....................................... 90
2.2.3. Về kỹ thuật pháp lý trong xây dựng quy phạm pháp luật ........... 91
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 98


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vị trí của pháp luật ngày càng quan trọng trong đời sống xã
hội ta; ý thức pháp luật của ngƣời dân cũng ngày một cao hơn và do đó,
những yêu cầu, đòi hỏi về một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, duy trì ổn định chính trị và bảo đảm công
bằng xã hội đặt ra ngày càng cấp thiết. Để bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện hành, bên cạnh việc nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp thu kinh
nghiệm lập pháp nƣớc ngoài, một xu hƣớng đang đƣợc giới luật học Việt Nam
quan tâm: đó là tìm về với cuội nguồn truyền thống luật Việt để nhìn thấy
những kinh nghiệm thành công, thất bại của tiền nhân thông qua các chế định
chính trị - nhà nƣớc và pháp quyền trong từng thời kỳ lịch sử của đất nƣớc.
Có thể coi thế kỷ XV là thời điểm có ý nghĩa bƣớc ngoặt, đánh dấu
một chuyển biến lớn trong đời sống pháp luật Việt Nam. Hệ thống pháp luật
tƣơng đối hoàn chỉnh và đƣợc áp dụng một cách nghiêm minh đã tạo nên sức
mạnh kỷ cƣơng cho nƣớc Đại Việt thời Lê sơ - một quốc gia mà nhiều nhà
nghiên cứu nƣớc ngoài cho là hùng mạnh nhất Đông Nam Á thế kỷ XV. Tiêu

biểu trong các văn bản pháp luật thời Lê Sơ là Quốc triều hình luật. Trải qua
thời gian dài nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng pháp luật vẫn còn mang
giá trị thời sự sâu sắc.
Quốc triều hình luật là di sản văn hoá, pháp lý đồ sộ, đặc sắc, độc nhất
vô nhị của Việt Nam và có vị trí xứng đáng trong lịch sử lập pháp của thế
giới. Đây là bộ luật bao trùm nhiều nội dung khác nhau, có sức sống lâu bền
và tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc tới hầu hết các lĩnh vực của xã hội
đƣơng thời, đặt nền tảng xây dựng nƣớc Đại Việt phát triển đến đỉnh cao nhất,
rực rỡ nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam với nền pháp trị nghiêm

1


minh. Bộ luật đƣợc xây dựng cách đây hơn 500 năm nhƣng chứa đựng nhiều
nội dung tiến bộ nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các
bộ luật cùng thời. Nó đƣợc đánh giá là “một thành tựu có giá trị đặc biệt”,
“không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại
trước đó, mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn và đầu thế kỷ XIX: Hoàng
Việt luật lệ…”. [54, tr. 16] Vào thời kỳ này, trí thức, khoa học pháp lý, kỹ
thuật làm luật chƣa phong phú nhƣ hiện nay nhƣng cách làm luật của các nhà
soạn thảo Quốc triều hình luật đã tránh cho ngƣời vận dụng pháp luật khỏi vấp
phải vô vàn khó khăn, rối rắm của nền pháp luật rƣờm rà ngày nay. Văn
phong pháp lý của bộ luật có sức tổng hợp khái quát rộng nhƣng rất cô đúc,
lời văn trong sáng, dung dị, dễ hiểu đối với dân thƣờng. Ngƣời ít chữ nghe
cũng có thể hiểu và nhớ đƣợc.
Quốc triều hình luật đã đƣợc nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, lĩnh vực
khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chỉ chủ yếu phân tích về mặt
nội dung, chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt
kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật. Để góp phần tìm hiểu pháp luật
truyền thống Việt Nam nói chung và Quốc triều hình luật nói riêng phục vụ

cho việc nghiên cứu và kế thừa những giá trị quý báu trong kho tàng lập pháp
luật cổ Việt Nam, đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề về kỹ thuật lập
pháp trong Quốc triều hình luật, để từ đó rút ra những bài học có giá trị đối
với hoạt động xây dựng pháp luật ở nƣớc ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về Quốc triều hình luật đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu và hội thảo khoa học Các công trình này nghiên cứu về Quốc triều hình
luật ở nhiều khía cạnh khác nhau nhƣ: Cổ luật Việt Nam Và tƣ pháp sử (xuất
bản tại Sài Gòn năm 1975) của thạc sĩ Vũ Văn Mẫu; Nghiên cứu về hệ thống

2


pháp luật Việt Nam thế kỷ XV – XVIII (xuất bản năm 1994) của Viện Nhà
nƣớc và pháp luật thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia;
Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII (xuất bản năm 1994) của nhà sử
học ngƣời Hàn Quốc Insun Yu; Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 500 năm
ngày mất Lê Thánh Tông (năm 1997) do Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức; Pháp luật các triều đại Việt Nam
và các nƣớc (xuất bản năm 2004) của tiến sĩ Cao Văn Liên; Quốc triều hình
luật - lịch sử hình thành, nội dung và giá trị (xuất bản năm 2004) do tiến sĩ Lê
Thị Sơn chủ biên; Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Quốc triều hình luật-những giá
trị lịch sử và đƣơng đại góp phần xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam
(tổ chức tại Thanh Hoá năm 2007); Lê Thánh Tông - vị vua anh minh, nhà
cách tân vĩ đại (xuất bản năm 2007) và Bộ luật Hồng Đức – di sản văn hoá
pháp lý đặc sắc của Việt Nam (xuất bản năm 2010) của Luật sƣ Lê Đức Tiết;
Kỷ yếu hội thảo khoa học 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (xuất bản năm
2010) của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp…Và còn rất nhiều các bài viết
trên các tạp chí đề cập đến một số khía cạnh khác nhau của Quốc triều hình
luật. Song, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và tổng hợp về kỹ thuật lập

pháp trong Quốc triều hình luật thì chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên
khảo nào. Hiện nay, chỉ rải rác đây đó có những bài viết hay công trình nghiên
cứu đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề nhƣ:
Lê Thị Sơn (chủ biên) - Quốc triều hình luật - lịch sử hình thành, nội
dung và giá trị, nhà xuất bản Khoa học xã hội 2004. Đây là công trình đƣợc
coi là tiêu biểu nhất và nghiên cứu về Quốc triều hình luật ở phạm vi rộng
nhất.Tác phẩm này do tập thể tác giả gồm các nhà sử học, luật học thực hiện.
Tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề nhƣ: Quá trình hình thành Quốc triều hình
luật, tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong Quốc triều hình luật, vấn đề quan chế,
vấn đề tội phạm, hình phạt, tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình trong
3


Quốc triều hình luật…Các bài viết trong tác phẩm chủ yếu đề cập đến vấn đề
nội dung của Quốc triều hình luật chứ không xem xét Quốc triều hình luật
dƣới phƣơng diện kỹ thuật lập pháp. Bài viết “Quốc triều hình luật và những
giá trị lập pháp” của TS Nguyễn Quốc Hoàn có đề cập đến khía cạnh kỹ thuật
lập pháp, nhƣng cũng chỉ mang tính khái quát, chƣa chi tiết, cụ thể. Bài viết
“Nội dung và giá trị của những quy định về các tội phạm cụ thể trong Quốc
triều hình luật” của Thạc sỹ Đỗ Đức Hồng Hà song song với việc đề cập đến
những giá trị về nội dung của Quốc triều hình luật, tác giả cũng có đề cập đến
vấn đề kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực hình sự.
Một số bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Quốc triều hình luật những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam” nhƣ: Lê Hồng Sơn - Quốc triều hình luật – công trình pháp điển
hoá tiêu biểu trong lịch sử lập pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến. Bài viết đã
khái quát một số vấn đề về cách thức thể hiện nội dung của bộ luật và cách
trình bày các quy phạm pháp luật cụ thể; Hoàng Thị Kim Quế - Mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong Quốc triều hình luật và những giá trị đương
đại. Bài viết đã phân tích sự thể chế các chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức trong
Quốc triều hình luật và nguyên tắc “chỉ đƣợc làm những gì mà pháp luật cho

phép” là những nguyên tắc chủ đạo trong xây dựng và thực hiện Quốc triều
hình luật; Lê Minh Tâm - Bộ Quốc triều hình luật – công trình mang đậm bản
sắc văn hoá pháp lý và tính nhân văn của dân tộc Việt Nam. Bài viết cũng có
một phần nhỏ đề cập đến cấu trúc của Quốc triều hình luật.
Nguyễn Đức Lộc - Truyền thống pháp điển hoá qua các triều đại phong
kiến Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14, năm 2008. Bài viết đã đề
cập đến kỹ thuật pháp điển hoá của Quốc triều hình luật.

4


Nguyễn Minh Tuấn – Nét độc đáo của quy phạm pháp luật trong Bộ
luật Hồng Đức, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 33, năm 2008. Bài viết đã
phân tích những nét độc đáo trong cách thức tổ chức và thể hiện các quy phạm
pháp luật trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức).
Lê Đức Tiết - Bộ luật Hồng đức – di sản văn hoá pháp lý đặc sắc của
Việt Nam, Nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội, 2010. Trong chƣơng III của tác
phẩm (Kế thừa và phát huy kinh nghiệm soạn thảo, thực thi Bộ luật Hồng Đức
vào sự nghiệp hoàn thiện pháp luật của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam) đã đề cập đến kỹ thuật soạn thảo Bộ luật và những giá trị đối với
việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Trần Văn Luyện - Chế độ canh giữ, bảo vệ trong Luật Hồng Đức và
những bài học kinh nghiệm lập pháp, bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học
1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội, 2010. Thông
qua những quy định cụ thể về chế độ canh giữ, bảo vệ, bài viết đã đƣa ra nhận
xét về cách thức điều chỉnh pháp luật trong Quốc triều hình luật và những bài
học kinh nghiệm lập pháp của những ngƣời soạn thảo Quốc triều hình luật.
Nhƣ vậy, mặc dù có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề kỹ
thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, nhƣng chỉ ở một số khía cạnh nhất
định. Hiện nay chƣa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có

hệ thống về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích đƣợc đặt ra cho đề tài là nghiên cứu về kỹ thuật lập pháp
trong Quốc triều hình luật thông qua một số vấn đề nhƣ: nguyên tắc xây dựng
luật, cách thức thể hiện nội dung bộ luật, kỹ thuật xây dựng quy phạm pháp

5


luật từ đó kế thừa những giá trị quý báu để nâng cao chất lƣợng hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khái quát về cơ sở tƣ tƣởng, hoàn cảnh ra đời và đặc trƣng
cơ bản về phƣơng diện lập pháp của Quốc triều hình luật;
- Tìm hiểu những giá trị về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật;
- Rút ra một số kết luận, kiến nghị về kỹ thuật lập pháp ở nƣớc ta hiện
nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về cách thức soạn
thảo, ban hành bộ luật, cách thức thể hiện nội dung bộ luật cũng nhƣ cấu trúc
các quy phạm pháp luật cụ thể thông qua các quy định trong Quốc triều hình
luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu Quốc triều hình luật dƣới góc độ kỹ thuật lập
pháp nhƣ: nguyên tắc xây dựng luật, cách thức thể hiện nội dung bộ luật,
kỹ thuật xây dựng quy phạm pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã vận dụng phƣơng pháp luận cơ bản

là duy vật biện chứng. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng pháp khảo sát thống
kê, phƣơng pháp tổng hợp, so sánh, phân tích và chứng minh. Từ đó, rút ra
nhận xét, đánh giá bƣớc đầu.

6


6. Ý nghĩa và giá trị thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở phân tích những quy định trong Quốc triều hình luật, luận
văn đã nêu ra đƣợc những giá trị về kỹ thuật lập pháp nói chung và kỹ thuật
lập pháp trong những lĩnh vực cụ thể. Từ đó rút ra những kinh nghiệm quý
báu trong kỹ thuật lập pháp hiện nay.
Nghiên cứu về kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật sẽ góp phần
vào tổng kết, đánh giá những đóng góp và thành tựu của triều Lê sơ về
phƣơng diện pháp luật. Trên cơ sở đó tìm hiểu thêm về những giá trị lịch sử
truyền thống của dân tộc, tìm ra bài học bổ ích trong công cuộc hoàn thiện hệ
thống pháp luật hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở tƣ tƣởng, hoàn cảnh ra đời và đặc trƣng cơ bản về
phƣơng diện lập pháp của Quốc triều hình luật
Chƣơng 2: Kỹ thuật lập pháp của Quốc triều hình luật và giá trị kế thừa

7


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ TƢ TƢỞNG, HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC
TRƢNG CƠ BẢN VỀ PHƢƠNG DIỆN LẬP PHÁP CỦA QUỐC TRIỀU
HÌNH LUẬT.

1.1. Thời điểm ban hành bộ luật
Trong 360 năm tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại những thành tựu to lớn
và nhiều mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật và điển chế. Nhà Lê đã xây
dựng đƣợc hàng chục bộ luật và những văn bản pháp luật lớn, trong đó Quốc
triều hình luật đƣợc coi là bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của
triều Lê. Văn bản của bộ luật này là một trong những thƣ tịch cổ nhất hiện còn
đƣợc lƣu trữ tại Viện nghiên cứu Hán – Nôm. Tại đây có hai bản in ván khắc
đều có tên là Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tuy
có tên gọi là Lê triều hình luật nhƣng nội dung của nó lại là bản sao lại của
Quốc triều hình luật và chép vào thời gian sau này. Trong đó bản Quốc triều
hình luật mang ký hiệu A.341 là bản in ván khắc hoàn chỉnh hơn cả và đƣợc
coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ luật trong sách này gồm 6 quyển, in ván khắc
trên giấy bản, tổng cộng gồm 129 tờ đóng chung thành một cuốn. Sách không
ghi tên tác giả, không có dấu hiệu niên đại soạn thảo hay niên đại in ấn và
cũng không có lời tựa hoặc các chú dẫn khác. Bìa nguyên bản cuốn sách đã
mất, đƣợc thay thế bằng một tờ bìa viết bốn chữ Hán là Quốc triều hình luật
bằng bút lông. Chính vì vậy cho đến nay, việc xác định niên đại của Quốc
triều hình luật vẫn đang còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi và chƣa đƣợc
khẳng định.
Ở Việt Nam hiện có những ý kiến và luận chứng rất khác nhau về vấn
đề này. Giáo sƣ Vũ Văn Mẫu trong một số sách chuyên khảo về cổ luật Việt
Nam cho rằng “Bộ Quốc triều hình luật được ban bố lần đầu tiên trong
khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) và phần chắc là vào những năm

8


cuối cùng của niên hiệu Hồng Đức, dưới đời Lê Thánh Tông” [25, tr. 193] và
vì vậy mà đời sau thƣờng gọi là Bộ Luật Hồng Đức. Đinh Gia Trinh trong tác
phẩm “Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam” cũng cho rằng bộ

luật đƣợc ban hành dƣới thời vua Lê Thánh Tông nhƣng cụ thể là năm 1483
và đặt tên cho bộ luật là Bộ luật 1483. [44, tr. 155-156]
Viện Sử học Việt Nam trong lời nói đầu Quốc triều hình luật đã đƣa ra
giả thuyết rằng: “Quốc triều hình luật đã được khởi thảo từ sớm hơn, thậm trí
từ ngay năm đầu của triều Lê…bộ luật của triều Lê đã được chính người anh
hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cuộc kháng chiến chống Minh ban hành
ngay từ ngày đầu của triều đại mình và bộ luật này không ngừng được các
triều vua kế tiếp bổ sung, hoàn chỉnh dần, trong đó chắc chắn là có những
đóng góp to lớn của ông vua nổi tiếng văn hiến Lê Thánh Tông và niên hiệu
Hồng Đức rực rỡ của ông. Và chắc chắn là khi soạn bộ luật đầu tiên của triều
đại mình, Lê Thái Tổ cũng đã kế thừa các bộ luật tiền bối”. [54; tr. 14-15]
Một số học giả ngƣời Pháp là Raymond Deloustal và giáo sƣ Lingat khi
khảo dịch và nghiên cứu về Quốc triều hình luật đã căn cứ vào thiên Hình luật
chí và Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chƣơng loại chí của Phan Huy Chú,
đều cho rằng Quốc triều hình luật đƣợc ban hành vào năm Cảnh Hƣng thứ 38
(1777). Một học giả khác là Emile Gaspardone thì lại nhấn mạnh rằng bộ luật
đã đƣợc công bố 10 năm trƣớc đó, tức là vào năm 28 niên hiệu Cảnh Hƣng
(1767). Theo Insun Yu, một giáo sƣ Hàn Quốc thì “những nghiên cứu của các
học giả Việt Nam và Nhật Bản cho thấy cả Deloustal và Gaspardone đều sai
lầm khi đặt năm tháng soạn thảo bộ luật nhà Lê vào nửa sau thế kỷ XVIII”.
[14, tr. 69] Tuy nhiên, ông cũng không cung cấp thêm đƣợc dữ liệu mới để
khẳng định thời điểm ban hành của Quốc triều hình luật.

9


Theo Vũ Thị Nga, ngƣời có công đối chiếu và phát hiện sự tƣơng đồng
về lời văn của Quốc triều hình luật với lời văn của nhiều luật, lệnh, chỉ do
chính Lê Thái Tổ ban bố, đã khẳng định: “Quốc triều hình luật được khởi
thảo sớm hơn từ năm 1428 dưới triều vua Lê Thái Tổ dựa vào ba căn cứ: Ghi

chép của chính sử về các sự kiện lập pháp của nhà Lê sơ, một số điều khoản
trong Quốc triều hình luật có quy định về cấp hành chính lộ và các chức quan
có trước Lê Thánh Tông, so sánh nội dung một số điều khoản trong Bộ luật
với thực tiễn áp dụng pháp luật được ghi lại trong chính sử”. [34, tr.44-45]
Trong số các khẳng định trên, nếu lấy năm 1483 để khẳng định và đặt
tên cho Quốc triều hình luật nhƣ Đinh Gia Trinh thì có phần hơi kiên cƣỡng,
vì theo ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thƣ thì năm 1483, Lê Thánh Tông
đã ra Sắc dụ cho nhóm văn thần “biên soạn các sách Thiên nam dƣ hạ tập và
Thân chinh ký sự” [21, tr.496] mà không thấy đề cập đến việc soạn Bộ luật
Hồng Đức. Điều này tƣơng đối vô lý vì việc ban hành một văn bản pháp luật
đồ sộ nhƣ Quốc triều hình luật không thể không đƣợc ghi chép lại trong biên
niên sử khi mà hai tập Hội điển nói trên đƣợc đề cập khá chi tiết trong cùng
một thời điểm. Vì vậy, năm 1483 không thể nào là thời điểm ban hành của
BLHĐ. Nếu dứt khoát cho rằng Quốc triều hình luật đƣợc ban hành năm 1767
nhƣ các tác giả ngƣời Pháp thì rõ ràng không đủ thuyết phục, vì, phải đồng ý
với Vũ Văn Mẫu, khi ông viết: “đến năm 1767, vào quãng Lê Mạt, vận nhà Lê
đã suy vi, giặc cướp nổi lên như ong, trong triều thì chúa Trịnh cướp quyền
đâu phải lúc nhà Lê san định và ban hành bộ luật mới” [25, tr.193].
Theo chúng tôi, giả thiết mà Viện Sử học Việt Nam và những luận
chứng mà Vũ Thị Nga nêu ra là có cơ sở và có ý nghĩa gợi mở cho việc tiếp
tục nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn để tìm ra câu trả lời chính xác về thời
điểm ban hành và quá trình hoàn thiện của Quốc triều hình luật.

10


1.2. Cơ sở tƣ tƣởng, bối cảnh chính trị - xã hội ra đời Quốc triều hình luật
1.2.1. Cơ sở tư tưởng của Quốc triều hình luật.
Chúng ta đều biết, việc xây dựng một nền pháp luật phát triển và có
hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm và nhận thức của nhà nƣớc, mà cụ

thể là sự nhận thức về vị trí và vai trò của pháp luật với tƣ cách là một trong
những công cụ quan trọng để quản lý và điều hành đất nƣớc. Các nhà nƣớc
phong kiến Việt Nam trƣớc đây (mà cụ thể là những ngƣời đứng đầu) đều coi
trọng và đánh giá cao vai trò của pháp luật đối với việc quản lý và điều hành
đất nƣớc. Cũng nhƣ các nhà nƣớc trƣớc đó, những ngƣời đứng đầu nhà nƣớc
Lê sơ, đặc biệt là Lê Thánh Tông đã luôn có ý thức xây dựng một nền pháp
luật nghiêm minh nhƣng cũng rất nhân đạo. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ
trong tƣ tƣởng pháp luật của các đời vua.
a. Trị nước phải có pháp luật
Năm 1428, khi hạ lệnh cho các quan sai định luật lệnh để ban hành, Lê
Thái Tổ đã chỉ rõ: “Từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp luật, không có
pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các
tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác,
điều luật thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp”. [21,
tr 361] Tiếp thu quan điểm của Lê Thái Tổ, đến thời kỳ vua Thái Tông chấp
chính, tuy tuổi còn rất trẻ nhƣng ông đã anh minh sáng suốt lựa chọn ra bậc
đại thần uyên thâm Nho học nhƣ Nguyễn Trãi và sai “sửa định” Luật thƣ làm
công cụ quản lí đất nƣớc. Kế thừa truyền thống trị nƣớc phải có pháp luật của
các triều đại trƣớc, dƣới thời trị vì của mình, Lê Thánh Tông đã thực thi quan
điểm này bằng nhiều chủ trƣơng, biện pháp mang tính sáng tạo và có tính thực
thi cao. Muốn thực thi đƣợc quan điểm trị nƣớc phải có pháp luật thì trƣớc hết
phải có pháp luật tốt làm khuôn mẫu để mọi ngƣời biết mà tuân theo. Không

11


thể thiết lập đƣợc kỷ cƣơng xã hội nghiêm minh khi phép nƣớc chƣa rõ ràng,
đầy đủ. Với vua Lê Thánh Tông khái niệm “có pháp luật” không bó hẹp trong
phạm vi là có, mà nó bao gồm cả tính đầy đủ và hoàn thiện của pháp luật nữa.
Để hoàn thiện pháp luật, ông ra lệnh cho các quan giúp việc dƣới quyền

sƣu tầm đầy đủ các pháp luật Việt cổ, pháp luật do các vị vua tiềm nhiệm ban
hành. Ông cho nghiên cứu, bàn bạc tiếp thu lấy những cái hay trong pháp luật
cổ, sửa đổi những điều không còn thích hợp, bổ sung thêm những điều cho
hợp với thời thế để đón lấy khí hòa của trời đất, nhƣ lời ông nói với trăm
quan. Ông cho biên soạn lại thành những tập sách mà khoa học ngày nay gọi
là những tập hệ thống hóa pháp luật nhƣ: Hồng Đức thiện chính thƣ, Hồng
Đức niên gián chƣ cung thể thức, Lê triều quan chế, Thiên Nam dƣ hạ tập và
Sĩ họa châm quy. Và thành quả cao nhất, nổi trội nhất trong sự nghiệp hoàn
thiện nền pháp luật của vƣơng triều là Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình
luật). Nhờ đó mà qua 38 năm trị vì, ông đã đƣa vƣơng quốc thoát khỏi tình
trạng rối loạn về kỷ cƣơng phép nƣớc, sa sút, khủng hoảng về kinh tế, xã hội,
thành một vƣơng quốc hùng mạnh nhất trong vùng. Nền pháp luật của vƣơng
quốc Đại Việt dƣới thời trị vì của ông có đủ cả hai yếu tố: “đầy đủ và hoàn
thiện”, một ƣớc mơ mà các nhà lập pháp hiện nay đang rất mong muốn mà
chƣa xây dựng đƣợc. Quả đúng vậy, nền pháp luật của vƣơng quốc Đại Việt
dƣới thời Lê Thánh Tông là nền pháp luật hoàn thiện và đầy đủ nhất so với
các triều đại trƣớc ông và sau ông. Nền pháp luật đó đáp ứng đầy đủ các nhu
cầu điều chỉnh trên mọi lĩnh vực hoạt động của nhà nƣớc, của xã hội.
b. Kết hợp pháp trị với đức trị
Trong lịch sử của Việt Nam, quan điểm kết hợp đức trị với pháp trị
đƣợc Trần Hƣng Đạo nêu ra đầu tiên. Ông viết: “Dùng trí để phục thiên hạ,
mà thiên hạ phải phục trí, nhưng trí vẫn không thắng. Dùng pháp để chế thiên

12


hạ, mà thiên hạ phải theo pháp, nhưng pháp vẫn không thần…Cho nên lễ và
pháp là trong với ngoài, văn với võ là tả với hữu”. [4, tr.39]
Lời răn dạy tƣớng sĩ của Trần Hƣng Đạo chính là nghệ thuật cầm quân,
là đạo trị nƣớc. Nội dung của nó hiểu theo cách hiểu của ngày nay là kết hợp

đức trị với pháp trị.
Vua Lê Thánh Tông rất đề cao đức trị nhƣng ông không dừng lại ở chỗ
thuyết giáo. Ông là ngƣời rất kiên quyết trong việc dùng pháp luật để trừng trị
các hành vi vi phạm đạo đức. Tổng quát lại trong Quốc triều hình luật không
phải chỉ có một vài điều mà đã có 17 điều luật có nội dung trực tiếp khuyến
khích việc nuôi dƣỡng thuần phong mỹ tục và 61 điều quy định việc xử phạt
các hành vi trái với luân thƣờng đạo lý, trái với nếp sống thuần hậu theo quan
điểm Nho học. Có thể khẳng định rằng trong trị nƣớc an dân, vua Lê Thánh
Tông rất khéo kết hợp pháp trị với đức trị. Ông dùng pháp trị để khuyến
khích, cổ vũ đức trị làm cho đức trị thấm sâu, lan rộng đến mọi tầng lớp nhân
dân. Ông dùng đức trị để làm cơ sở, nền tảng cho pháp trị đƣợc duy trì tồn tại
một cách vững bền trong xã hội. Đối với quan lại, ông thiên về pháp trị. Đối
với dân chúng, ông thiên về đức trị. Một trong những dẫn chứng cho nhận
định này là chính sách hình sự khoan dung, độ lƣợng của Quốc triều hình luật
chủ yếu là dành cho dân chúng, còn quan lại phạm tội thì bị xử phạt rất
nghiêm.
c. Chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại trông coi pháp luật
Để có một thể chế pháp luật thực sự có hiệu lực, Lê Thánh Tông coi
việc xây dựng đội ngũ quan lại của ngành pháp luật có tầm quan trọng hàng
đầu. Theo quan điểm của ông, quan lại mới là đối tƣợng chính cần tác động để
thiết lập đƣợc một nền pháp trị nghiêm minh chứ không phải là dân thƣờng,
bá tính, mặc dù dân là số đông, là những ngƣời kém hiểu biết pháp luật hơn

13


quan lại. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong ba chủ trƣơng và một loạt biện pháp
mà ông đã áp dụng và đã đƣợc quy định thành những điều luật trong Quốc
triều hình luật. Đó là:
- Đặt việc thực thi pháp luật thành môn thi bắt buộc để tuyển chọn quan

lại. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong một Chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông năm
1462 về việc đặt lệ ba năm thi Hội một lần với các đề môn thi: “Kỳ thứ nhất
thi Tứ thư, kinh nghĩa; Kỳ thứ hai thi Chiếu, Chế, Biểu (thi pháp luật); Kỳ thứ
ba thi thơ; Kỳ thứ tư thi một bài văn sách…” [22, tr.396]
- Thiết lập cơ chế buộc các quan lại phải tuân thủ nghiêm và gƣơng
mẫu trong thực thi pháp luật. Quan điểm này đã đƣợc thể hiện và thực thi
bằng những điều luật tƣơng ứng trong Quốc triều hình luật với các tội nhƣ:
quan lại chậm chế trong thi hành pháp luật (Điều 119; 121, 150…), quan lại
thi hành pháp luật không nghiêm (Điều 151, 158, 194…), quan lại cố ý làm
trái quy định của pháp luật (Điều 122, 201…)
- Thiết lập hệ thống cơ quan và các cơ chế giám sát, kiểm tra một cách
rộng khắp, nhạy bén đối với mọi quan lại. Đó là hệ thống các Khoa và các
Ngự sử đài. Các Khoa là các cơ quan chuyên trách giám sát hoạt động của các
Bộ. Đối tƣợng giám sát của các khoa là công việc của các Bộ. Ở mỗi Bộ đều
có một khoa ở bên cạnh. Các Ngự sử đài là các cơ quan chuyên trách giám sát
năng lực, trình độ thực thi nhiệm vụ và đạo đức, phẩm chất của các quan lại.
Đối tƣợng giám sát của Ngự sử đài là các quan chức. Hệ thống các cơ quan
Ngự sử đài có hai cấp: Ngự sử đài ở trung ƣơng và Ngự sử đài ở các xứ. Về
mặt tổ chức, các Khoa và Ngự sử đài đều độc lập với các bộ, các xứ nơi nó
thực hiện công tác giám sát, kiểm tra. Nếu các bộ làm sai chức năng, nhiệm
vụ mà các Khoa không phát hịên, không hặc tâu thì lỗi thuộc về các khoa.
Nếu có những quan tham ô, nhận hối lộ, sách nhiễu dân chúng, biếng nhác,

14


bất lực trong công việc không bị phát hiện thì lỗi thuộc về các quan Ngự sử.
Với cơ chế trách nhiệm nhƣ vậy, các Khoa, Đài rất chủ động trong công việc
giám sát, kiểm tra của mình. Mặt khác các Khoa, Đài không thể vin vào bất cứ
lý do, nguyên cớ nào để chối bỏ trách nhiệm trong việc để những sai trái trong

bộ máy nhà nƣớc diễn ra.
Ba chủ trƣơng trên có ảnh hƣởng qua lại với nhau rất chặt chẽ. Buộc
quan lại thi pháp luật chính là cách tạo nền móng, cơ sở cho việc vun trồng
năng lực, trình độ trị nƣớc an dân của quan lại. Đặt ra cơ chế giám sát quan lại
để buộc quan lại luôn làm đúng trách nhiệm đã giao. Xử lý nghiêm các hành
vi vi phạm pháp luật của quan lại chính là để ngăn ngừa nạn lộng quyền, sách
nhiễu dân của quan lại. Các chủ trƣơng đều đƣợc thi hành đồng thời, rất
nghiêm túc, chặt chẽ, không buông lỏng bất cứ khâu nào.
d. Nước lấy dân làm gốc
Quan điểm “nước lấy dân làm gốc” là quan điểm đƣợc các vua nhà Lê,
đặc biệt là Lê Thánh Tông rất coi trọng. Tháng 11, năm 1471, Hồng Đức năm
thứ 2, Vua Lê Thánh Tông ra Sắc dụ cho các quan rằng: “Bọn các ngươi giữ
trọng trách ở một phương, thân yêu dân là trách nhiệm. Thế mà không biết
thể theo lòng nhân của triều đình yêu nuôi dân chúng, chỉ chăm làm những
việc nhỏ mọn như roi vọt, sổ sách. Nay sứ ty và phủ huyện các ngươi phải
mau mau đi xem xét những nơi núi chằm bờ biển trong hạt, chỗ nào hình thế
có thể khơi đắp ngòi cừ đê đập để làm ruộng, chỗ nào có hùm sói làm hại,
cường hào thao túng, phong tục kiêu bạc, sinh dân đau khổ…Tóm lại, mọi
việc lợi nên làm, mọi mối hại nên bỏ, trong hạn một trăm ngày, phải lần lượt
trình tâu cẩn thận…” [22, tr. 457]
Quan điểm này của nhà Lê đƣợc thể hiện cụ thể trong các điều luật của
Quốc triều hình luật. Đó là các chính sách khuyến nông, khuyến thƣơng và

15


khuyến học là ba chính sách cơ bản đem lại đời sống no đủ, đem lại an cƣ lạc
nghiệp cho dân. Ngoài ra, Quốc triều hình luật còn có rất nhiều điều luật quy
định về chính sách nhân đạo đối với phụ nữ, ngƣời gia, ngƣời tàn tật, trẻ mồ
côi và những ngƣời yếu thế khác trong xã hội.

e. Chú trọng đến tính thực thi, có hiệu quả của pháp luật
Theo quan điểm của Lê Thánh Tông “trị nƣớc phải có pháp luật, nhƣng
trong hành động, ông khác xa với các nhà pháp trị thời cổ ở chỗ khi ban hành
pháp luật, ông “rất quan tâm đến tính thực thi và hiệu quả của các văn bản
pháp luật đã đƣợc ban bố” [9, tr.115] và buộc trăm quan phải chăm lo việc
giáo dục pháp luật cho dân hiểu để dân tuân theo. Ông trừng trị rất nghiêm
quan lại làm sai pháp luật. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ trong Quốc triều hình
luật, nhiều điều luật cụ thể với những tội danh cụ thể nhƣ: “Chậm trễ, làm
trái, thi hành pháp luật không nghiêm” đƣợc đƣa vào bộ luật. Theo Quốc
triều hình luật, đối với quan lại chậm trễ trong thi hành pháp luật, thi hành
pháp luật không nghiêm hoặc làm trái pháp luật đã là một tội và sẽ bị xử phạt
mà không đòi hỏi có gây ra hậu quả hay không. Vua Lê Thánh Tông đã đặt
nhiệm vụ thực thi pháp luật thành nhiệm vụ chủ yếu của quan lại chứ không
phải của ai khác. Dân không hiểu pháp luật, chấp hành pháp luật không
nghiêm, trƣớc hết là lỗi của quan lại. Quan điểm này đã đƣợc thể hiện và thực
thi bằng những điều luật tƣơng ứng trong Quốc triều hình luật. Cụ thể, trong
bộ luật có đến 8 điều quy định việc xử phạt các hành vi chậm trễ trong truyền
đạt và thi hành chức trách, nhiệm vụ của quan lại và quy định của pháp luật
(đó là các điều: Điều 119, Điều 121, Điều 150, Điều 156, Điều 161, Điều 195,
Điều 211, Điều 225); 10 điều quy định việc xử phạt quan lại có hành vi thi
hành pháp luật không nghiêm (các điều: Điều 151, Điều 158, Điều 194, Điều
199, Điều 220, Điều 223, Điều 225, Điều 233, Điều 235, Điều 236); 2 điều

16


quy định xử phạt quan lại cố ý làm trái quy định của pháp luật mà cụ thể là
làm trái các Chiếu, Chỉ, Chế sắc do nhà vua ban ra (Điều 122, Điều 201)…
Không chỉ nghiêm minh trong xét xử, Lê Thánh Tông còn đề cao sự
bình đẳng, công bằng trƣớc pháp luật. Trong hầu hết các trƣờng hợp phạm tội,

dù là thƣờng dân hay quan lại cao cấp, vua đều xử lý theo luật. Vào năm
1468, Lê Bô - một trong những ngƣời có công diệt “loạn Nghi Dân” để đƣa
Lê Thánh Tông lên ngôi vua đã phạm tội tham nhũng phải chịu tội kình (thích
chữ vào trán). Lê Bô đã xin đƣợc chuộc tội bằng tiền nhƣng Lê Thánh Tông
không đồng ý: “nếu cho Lê Bô đƣợc chuộc tội có nghĩa là ngƣời có quyền thế,
ngƣời giàu có dùng của hối lộ thì đƣợc miễn tội, còn ngƣời nghèo hèn thì vô
cớ bị chịu tội, là cả gan vi phạm phép tắc của tổ tông lập ra để trừng trị kẻ
ngoan cố không biết răn chừa. Đại lý tự phải chiếu luật trị tội” [9, tr.116]
Có thể thấy rằng, trong suốt 38 năm trị vì, vua Lê Thánh Tông luôn thể
hiện rõ quan điểm trị nƣớc, an dân. Các chính sách, biện pháp thực thi quan
điểm này đƣợc ông chỉ đạo tiến hành mang tính tổng hợp, đa dạng, giàu sáng
tạo và với thái độ kiên trì và kiên định hiếm thấy. Quốc triều hình luật chính là
công trình thể hiện một cách cô đúc nhất, sáng tạo nhất quan điểm và nghệ
thuật sử dụng vũ khí pháp luật trong trị nƣớc an dân của vị vua anh minh này.
1.2.2. Bối cảnh chính trị - xã hội ra đời Quốc triều hình luật
Bối cảnh xã hội thời Lê sơ đã có tác động mạnh mẽ đến hoạt động lập
pháp nói chung và sự ra đời của Quốc triều hình luật nói riêng.
Về Chính trị - xã hội:
Triều Lê sơ trải qua 10 đời vua, mở đầu là vua Lê Thái Tổ (1428 –
1433) và kết thúc là đời vua Lê Cung Hoàng (1522-1527). Giai đoạn phát
triển cực thịnh của thời Lê sơ đồng thời cũng là đỉnh cao của thể chế chính trị

17


pháp lý và đời sống kinh tế - văn hoá của chế độ phong kiến Việt Nam là triều
vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497).
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua đánh dấu việc chấm dứt giai đoạn chiến
tranh và chuyển sang thời kì hoà bình lâu dài của dân tộc. Kinh nghiệm, tri
thức thời kì chiến tranh rất lớn nhƣng cũng chƣa thực sự đủ để đƣa đất nƣớc

vào con đƣờng thái bình, thịnh trị. Thực tế cho thấy các tƣớng lĩnh của thời kì
Lam Sơn tụ nghĩa là những võ tƣớng anh dũng trên chiến trƣờng và sau khi
chiến tranh kết thúc, hầu hết những ngƣời này đều tham gia vào bộ máy chính
quyền các cấp. Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đƣợc hình thành từ trong quá
trình tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, vừa kháng chiến vừa xây dựng
chính quyền, quản lí các vùng giải phóng, đã từng bƣớc vƣơn lên đảm nhiệm
chức năng của nhà nƣớc độc lập, tự chủ. Đó là đội ngũ dạn dày kinh nghiệm
chiến tranh, quen thử thách ác liệt của trận mạc, đã hiến dâng tuổi xuân, sức
lực và tiền của của bản thân họ cho kháng chiến cứu nƣớc. So với các nhà
nƣớc tự chủ trƣớc đó, khó có triều đình nào lại có đội ngũ công thần khai quốc
nhiều chiến công, chiến tích và đông đảo nhƣ triều Lê sơ.
Ngay từ thời vua Lê Thái Tổ, tình trạng quan lại cậy thế công thần để
kết bè kéo đảng để trục lợi riêng và lấn át nhà vua đã là hiện tƣợng phổ biến.
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu vua Lê Thái Tổ với uy tín của vị lãnh tụ kháng
chiến vẫn khống chế đƣợc đội ngũ công thần và điều hành tốt công việc triều
chính. Nhƣng ngay sau đó chính nhà vua cũng mắc phải nhiều sai lầm khiến
các mâu thuẫn cung đình ngày càng căng thẳng, đồng thời gây ra sự bất bình
lớn từ phía dân chúng. Hành vi giết hại một số công thần nhƣ Trần Nguyên
Hãn, Phạm Văn Xảo và hạ ngục cả Nguyễn Trãi đã đẩy nhà vua đến chỗ phải
đối diện với sự bất hợp tác của quần thần cũng nhƣ quần chúng. Những nhân
tố tiêu cực trên đây cứ âm ỉ cháy trong cung đình nhà Lê và đến khi Thái Tổ

18


từ trần nó có dịp bộc phát gây nên nhiều sóng gió cho các triều vua kế tiếp
khiến cho triều đình Lê sơ nhiều phen chao đảo.
Triều vua Lê Thái Tông (1433-1442) bắt đầu khi ông mới lên 10 tuổi.
Các quan đại thần là Tƣ đồ Lê Sát, Tƣ khấu Lê Ngân, Đô đốc Phạm Văn Vấn
làm phụ chính. Đây là những tƣớng soái tài ba của quân đội Lam Sơn, đã từng

có công lớn trong sự nghiệp bình Ngô nhƣng họ chỉ là những võ quan có tài
trận mạc mà không phải là những ngƣời có tài văn trị nên tỏ ra lúng túng trong
cách điều hành đất nƣớc thời hòa bình. Hơn nữa, xuất phát từ quyền lợi vị kỷ
của cá nhân, họ thƣờng tỏ ra đa nghi, ghen ghét, kết vây cánh, thao túng triều
chính và cô lập những ngƣời có tài năng. Họ đã giết Nguyễn Trãi, Lƣu Nhân
Chú, truất quyền Trịnh Khả, ép vua Thái Tông bãi chức Bùi Ƣ Đài... là những
ngƣời không thuộc phe cánh và có quan điểm canh tân đất nƣớc gây nguy hại
đến đặc quyền, đặc lợi của họ. Khoảng 15 tuổi, Thái Tông bắt đầu nắm giữ
triều chính, trực tiếp điều hành công việc của đất nƣớc. Vua lập Hoàng tử
Nghi Dân làm thái tử, nhƣng lại phế (1441) để lập Hoàng tử Bang Cơ mới
sinh là con của Thần phi Nguyễn Thị Anh. Việc phế lập này đã tạo cơ hội cho
bọn quyền thần có mƣu đồ riêng ngấm ngầm gây dựng thế lực bất chính nhằm
gây hoạ cho triều đình nhà Lê sơ về sau.
Vua Lê Nhân Tông (1443-1459) nắm quyền điều hành chính sự khi lên
12 tuổi, đang cùng với các triều thần ra sức chấn chỉnh kỷ cƣơng và chăm lo
phát triển kinh tế, văn hoá thì cuối năm 1459 lại xảy ra vụ chính biến do Lạng
Sơn Vƣơng Lê Nghi Dân cầm đầu. Cuộc chính biến cung đình này đã gây ra
tâm lý hoang mang cho toàn thể quần thần cũng nhƣ dân chúng. Tuy nhiên,
triều đại của Nghi Dân chỉ tồn tại 8 tháng. Đến tháng 6 năm Canh Thân 1460,
nhóm đại thần khai quốc đã xƣớng nghĩa trừ khử nghịch đảng, phế Nghi Dân
làm Lệ Đức Hầu rồi đƣa hoàng tử Tƣ Thành lên ngôi Hoàng đế, trở thành vua
Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử dân tộc.
19


Lê Thánh Tông (1460-1497) lên ngôi vua giữa lúc triều chính hỗn loạn.
Sự phế lập Hoàng đế là một biểu hiện rõ nét cho những xung đột quyền lực
gay gắt chốn cung đình. Điều này đã gây cản trở lớn cho công cuộc tái thiết và
xây dựng đất nƣớc trên nhiều phƣơng diện, đe doạ đến cả sự tồn tại của triều
Lê. Trong suốt thời gian chấp chính, Lê Thánh Tông đã đề ra và thực hiện

thành công nhiều biện pháp, chính sách quan trọng nhằm mục tiêu củng cố
chế độ quân chủ tập quyền quan liêu, giữ vững độc lập dân tộc, tăng cƣờng
nền quốc phòng và thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nƣớc. Ông xây
dựng một thiết chế quân chủ tập quyền mạnh nhằm tập trung quyền lực vào
tay Hoàng đế, hạn chế sự tham chính của tầng lớp quý tộc hoàng gia, loại trừ
khả năng lộng quyền của các triều thần từ trung ƣơng và tệ nạn lạm dụng
quyền lực của các quan lại địa phƣơng.
Lê Thánh Tông tập trung xây dựng chế độ quân chủ tập quyền quan
liêu lấy Nho giáo làm hệ tƣ tƣởng nòng cốt cho các chủ trƣơng chính sách của
nhà nƣớc. Xã hội thời Lê sơ đã chính thức đƣợc quan liêu hoá với một bộ máy
nhà nƣớc đồ sộ chƣa từng thấy trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Về kết cấu xã hội:
Thời Lê sơ, xã hội đƣợc chia thành hai giai cấp cơ bản là địa chủ và
nông dân, ngoài ra còn có các tầng lớp thợ thủ công, thƣơng nhân và nô tì.
Giai cấp địa chủ phong kiến bao gồm những địa chủ - quan lại giữ những
trọng trách trong bộ máy thống trị, đứng đầu là vua và các địa chủ bình dân
vừa và nhỏ. Giai cấp địa chủ phong kiến thời Lê làm giàu nhờ một phần dựa
vào việc bóc lột địa tô nhƣng phần lớn dựa vào bóc lột thuế thông qua nhà
nƣớc. Chính vì vậy, quyền lợi của giai cấp địa chủ gắn liền với quyền lợi của
nhà nƣớc phong kiến.

20


×