Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.51 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một vùng đất vô cùng phong phú và đa dạng, là đất nước
rộng lớn và đông dân nằm ở miền Nam Á. Phía Bắc có dãy núi Himalaya
hùng vĩ được ví là “lâu đài tuyết trắng” hay “bông sen trắng vĩ đại”.
Chính vì vậy mà nó đã tạo ra cho Ấn Độ một bản sắc rất riêng, rất Ấn
Độ.
Ấn Độ không chỉ là “xứ sở của tôn giáo, xứ sở của tâm linh” mà
nó còn là nơi hội tụ của một nền văn hóa đa dạng, và hơn thế nữa là một
nền văn học đồ sộ, ý nghĩa đáng để cho các dân tộc khác nhìn vào và
nghiêng mình khen ngợi. Văn học Ấn Độ nói chung được công nhận là
một trong những nền văn học cổ nhất thế giới. Ấn Độ đã có 22 ngôn ngữ
được công nhận chính thức, và nhiều nền văn học khác nhau đã được viết
bằng nhiều thứ tiếng trong quá khứ. Trong văn học Ấn Độ, các hình thức
truyền khẩu và viết đều quan trọng. Nổi bật lên ở Ấn Độ là thời cổ đại
văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi.
Trong đó sử thi - một nền tảng vĩ đại của nền văn học Ấn Độ cổ
đại hình thành hơn 1.000 năm trước công nguyên. Cùng với nền văn
minh sông Hằng và những cuộc chiến tranh giữa các vương quốc trên đất
nước Ấn Độ cổ đại là điều kiện cho các bộ sử thi ra đời. Sử thi là bức
tranh sinh động phản ánh đời sống tinh thần của nhân dân Ấn Độ qua
những cuộc xung đột những cuộc chiến tranh giữa các vương quốc, giữa
các chủng tộc sống trên đất Ấn độ. Sử thi còn là những bài ca vĩ đại ca
ngợi những chiến công hiển hách khí phách hào hùng của các anh hùng
lí tưởng mà nhân dân Ấn Độ đề cao và ngưỡng mộ. Ấn Độ có hai bộ sử
thi rất đồ sộ là Mahabharata và Ramayana. Hai bộ sử thi này được truyền
miệng từ nửa đầu thiên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến
các thế kỷ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Xanxcrit . Ramayana,
Mahabharata, Krixna-Rađa... là những bộ sử thi của Ấn Độ đã làm thế
giới kinh ngạc. Tìm hiểu về sử thi Mahabharata chúng ta tim hiểu về nội
dung và nghệ thuật trong sử thi này, thông qua những nội dung và giá trị
của nó ta tìm hiểu hơn hơn về một tác phẩm văn học lớn trên thế giới,


mang màu sắc riêng của nhân dân Ân Độ.


Chương I.

Nội dung của sử thi Mahabharata.

Lịch sử văn học dân tộc nào cũng gắn chặt với sự phát triển lịch
sử của dân tộc đó. Lịch sử của mỗi dân tộc đều có những đặc điểm riêng
của nó. Ăngghen nói:“ Sự phát triển của mỗi dân tộc đều có những đặc
trưng mang tính chất dân tộc, những đặc điểm và tâm lý mang tính dân
tộc được xác định và chúng làm phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Nó được phản ánh trong văn học nghệ thuật của dân tộc ấy, nó không
phải là cái định sẵn có tính huyền bí mà nó dần dần hình thành trong quá
trình phát triển lịch sử, xã hội, dưới ảnh hưởng của thiên nhiên chung
quanh và điều kiện sống xã hội, những đặc trưng ấy khẳng định sự phát
triển và sự thay đổi.”
Tác phẩm Mahabharata được coi là “ Đại Bách khoa toàn thư ”về
văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã
hội của Ấn Độ cổ
xưa. Nó là tấm gương
phản chiếu toàn bộ
đời sống con người
Ấn Độ truyền thống
như lời một câu ngạn
ngữ cổ:“ Cái gì
không thấy được ở
trong Mahabharata
thì cũng không thể
nào thấy được ở Ấn

Độ. ”
Cuốn sử thi
này cũng chiếm vị trí
quan trọng trong triết
học và tôn giáo tại
Ấn Độ, do nó còn
chứa Bhagavad Gita,
một kinh văn quan
trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu) dài chừng 700 câu thơ.


1.

Nguồn gốc.

Mahabharata là một
trong hai cuốn Sử thi tiếng
Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ,
cuốn thứ hai là Ramayana.
Cái tên Mahabharata có thể
được dịch thành: Bharath (vĩ
đại), mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ
Đại hay còn được hiểu là
"Câu chuyện vĩ đại về triều
vua Bharath".
Theo truyền thuyết,
cuốn Mahabharata được coi là
tác phẩm của Vyasa cũng là
một trong những ông tổ của
các nhân vật trong sử thi

(Vyasa có nghĩa là sưu tập).
Vyasa đã thức dậy lúc bình
minh suốt ba năm ròng để hoàn thành tác phẩm tuyệt diệu này. Cũng theo
một truyền thuyết khác, sử thi Mahabharata ra đời khi đạo sĩ Vyasa theo
lệnh của thần Sáng tạo Brahma suốt ba năm ròng đọc cho thần Chữ viết
dùng ngà chép lại tác phẩm vĩ đại được hình thành trong tâm trí ông. Với
độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một
lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ
nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, có thể kết luận câu chuyện được lưu
truyền từ thế kỉ thứ V trước công nguyên về sau được bổ sung liên tiếp,
nhiều người ghi chép, chỉnh biên cho mãi đến thế kỉ thứ V sau CN vào
triều đại Gupta (320-530).
Nguyên bản lúc đầu có khi lên đến
hàng ngàn vạn câu thơ nhưng đến nay chỉ
sưu tầm được 110.000 slooka (câu thơ đôi)
gồm 22 vạn dòng, dài bằng 7 lần hai tác
phẩm Ôđixê và Iliat của Hi Lạp cộng lại
Bản viết bẳng tiếng Xăngcơrit
đầu tiên được in ra ở Cancuta vào năm
1834. Bản dịch ra tiếng Anh đầu tiên là
bản của Protapchandra Roy, in năm
1883.


Bản dịch ra tiếng Việt đầu tiên hiện nay là dựa vào bản tóm tắt
cốt truyện bằng Anh văn của C. Rajagopalachari
2.

Nội dung.


Nội dung cơ bản của
bộ sử thi Mahabharata nói
về cuộc chiến tranh khốc liệt
giữa hai dòng họ Kaurava và
Pandava, cả hai đều là dòng
dõi vua Bharata vào khoảng
thế kỷ 11 trước công nguyên
đến thế kỷ 10 trước công
nguyên.
Do
đó
tên
Mahabharata có nghĩa là
"các truyện vĩ đại của triều
đại nhà Bharata".
Bên cạnh nội dung
chính, chỉ chiếm chừng một
phần tư độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh,
những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những
câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn li kì (như chuyện nàng Savitri cãi lại
Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm
Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học
tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát
(moksha), những ẩn dụ triết học, châm ngôn xử thế...
Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva: Adi,
Sabha,Vana,Vitara,Udyoga Brishma, Drona, Karna, Shalya, Sauptika,
Stri, Shanti, Anushasana, Ashvamedhika Ashramavasika, Mausala,
Mahaprasthanika, Svargarohana.
* Tóm tắt truyện
Bharata là ông vua của triều đại mặt trăng, sinh hai người con trai

chia thành hai chi nhánh Curu và Pandu. Pandu sinh 5 người con trai gọi
là anh em Pandava (Yudhitira, Bhima, Arjuna, Nakula, Sahadeva). Còn
người anh là Dritaratra bị mù loà, sinh 100 con trai gọi là anh em Korava,
anh trai trưởng là Duriodana. Sau khi Pandu qua đời, Dritaratra đem năm
người con của em trai về nuôi chung với đàn con của mình. 5 anh em


Pandava trưởng thành rất nhanh chóng nổi tiếng là những người có tài
năng và đức độ. Điều đó làm cho anh em Korava ghen tị, lập mưu hãm
hại từng người trong nhóm 5 anh em. Dritaratra đưa 5 anh em Pandava
đến lâu đài bằng sáp và những thứ dễ cháy. Anh em Korava định đốt
cháy lâu đài và giết hết 5 anh em. Nhưng nhờ có người báo tin, anh em
Pandava đã dẫn mẹ là bà Kunti trốn vào rừng, cải trang thành những đạo
sĩ Bà la môn sống lang thang ẩn dật.
Một năm sau, vua Đropada xứ Panchallah mở hội kén phò mã cho
công chúa Đropadi. Anh em Pandava kéo đến đua tài. Trong cuộc thi đấu
với hoàng tử các nơi, Acgiuna người em thứ ba đã giành chiến thắng.
Nhà vua làm lễ cưới cho hai người. Năm anh em đưa nàng Đropadi về
chào mẹ thì nghe lời nguyền của mẹ, nên Đropadi trở thành vợ chung của
5 anh em, điều đó cũng phù hợp lời thề cùng chia ngọt xẻ bùi. Trong một
buổi lễ, người ta chứng nhận 5 anh em chính là một cơ thể của một vị
thần linh. Vì vậy cuộc hôn nhân là hợp lệ.

Anh em Korava biết tin 5 anh em Pandava còn sống và trở thành
đồng minh của một nước láng giềng hùng mạnh. Theo lời khuyên của
trưởng lão Bhisma, Dritaratra cho đi mời anh em Pandava trở về vương
quốc và chia cho họ một nửa đất đai. Yudhi là anh cả được làm vua xứ
Indaprasa bên cạnh vương quốc Hastinapura của anh em Korava .Mặc
đầu lãnh thổ của anh em Pandava xấu hơn nhưng nhờ tài năng cai trị mà
vương quốc của họ trở thành thịnh vượng giàu có. Bọn anh em Korava

lại sinh lòng đố kị và tìm cách chiếm đoạt.
Yuhi vốn là người coi trọng danh dự và say mê cờ bạc cho nên bị
Đurioda (Đurio- anh cả của trăm anh em Korava) rủ rê vào trò cờ bạc.
Đurio nhờ một tay cờ bạc có ma thuật đánh cho Yuhi thua bạc liên tục
phải đem gán cả vương quốc cho Đurio như giao kèo. Anh em Pandava


lại kéo nhau đi ẩn trong rừng sâu suốt 13 năm trời theo qui định sau khi
thua bạc. Hết hạn họ trở về vương quốc nhưng anh em Đurio trở mặt
không trả lãnh thổ cho 5 anh em. Thậm chí Yuhi chỉ xin một làng nhỏ để
cư trú và sinh sống cũng vẫn bị Đurio cự tuyệt.
Năm anh em Pandava không thể nhẫn nhục hơn nữa, buộc phải cầu
viện các tiểu vương quốc khác kéo quân tiến đánh anh em Korava. Cuộc
chiến tranh giữa hai phe trong dòng họ Bharata lôi cuốn nhiều nước tham
chiến với hàng triệu người với hàng vạn xe ngựa cung kiếm. Chiến
trường Kurusetra mịt mù khói lửa trong vòng 18 ngày, hàng triệu xác
chết chất thành núi, máu chảy thành sông. Trận chiến kết thúc chỉ còn 11
người sống sót.
Anh em Pandava tuy chiến thắng vẻ vang nhưng vô cùng đau xót
vì đã phải chém giết tất cả những người ruột thịt. Sau khi làm lễ giết ngựa
tế thần để tỏ lòng xám hối, Yuhi lên ngôi vua trị vì 36 năm liền.
Câu chuyện kết thúc bằng cuộc hành hương của năm anh em
Pandava và nàng Đropadi lên đỉnh núi Meru cao chót vót của Himallaya nơi đó là cõi trời. Dọc đường đi xa xôi hiểm trở, nàng Đropadi và bốn
người anh em Yuhi lần lượt bỏ xác ở trần gian, chỉ còn Yuhi và con chó
mà chàng bắt gặp dọc đường lên tới được đỉnh núi Meru. Bấy giờ, thần
Indra ra tiếp đón nhưng không chịu cho con chó vào cõi trời. Yuhi quyết
định xin ở ngoài cõi trời với con chó trung thành của mình. Lúc ấy con
chó hoá trở thành thần Darma và cho biết đây là hành động thử thách đạo
đức Yudhi. Thế là Yudhi bước vào cõi trời. Đầu tiên chàng gặp toàn
những kẻ thù cũ, sau đó được đưa đến hoả ngục gặp các em và bạn bè

của chàng. Yudhi xin các thần :" Tôi xin ở lại chốn này vì những người
thân của tôi ở đâu thì nơi đó là thiên đường của tôi ". Nhưng đó vẫn là
thử thách cuối cùng –thử thách lòng trung thành. Kết quả cả năm anh em
Pandava và vợ con điều được vào chốn vĩnh hằng bất diệt.


Chương II. Nghệ thuật trong sử thi Mahabharata.
1. Giá trị về nội dung.
Chủ đề của tác phẩm vĩ đại này là cuộc chiến tranh lớn giữa dòng
họ Bharata để dành giật đất đai bờ cõi. Nhưng bao quanh chủ đề còn có
nhiều nội dung và tư tưởng rộng lớn và sâu sắc. Bộ sử thi đã đề cao lí
tưởng và đạo đức của thời đại. Lí tưởng và đạo đức đã đúc kết trong tập
giáo lí Bhaganat Gita gần 19 chương, 700 câu là một bộ phận sử thi
MahaBaharata. Nhiều người cho rằng Bhagavat Gita là hạt nhân tư tưởng
của tác phẩm Mahabharata.
Sử thi mahabharata chứa đựng những ý nghĩa thuần tuý, mang
những giá trị về chủ nghĩa nhân sinh và lí tưởng sống của con người. Với
các hình tượng nhân vật anh hùng nữa trần tục - nữa thần linh cùng với
việc xây dựng cốt truyện, tình huống truyện thông qua chiến tranh để đề
cao lí tưởng và đạo đức của thời đại.Qua đó nó đề cao sự chính nghĩa và
chính nghĩa bao giờ cũng chiến thắng cái phi nghĩa. Con người luôn đấu
tranh để chống lại sự đố kị, lòng tham lam và ích kỉ để giành lấy cái
chính nghĩa và cái tự tôn của chính mình. Bộ sử thi đã dẫn dắt con người
đến với các giá trị nhân - quả, giá trị đích thực của lí tưởng sống đề cao
sự chính nghĩa và phong cách sống hào hùng. Không những vậy bộ sử thi
cũng định hướng con người sống một cách từ thiện, bao dung, và luôn
giải quyết mọi xung đột và cảm hoá con người bằng biện pháp hoà bình
và lòng vị tha của mình, phải vượt qua lòng tham lam và sự đó kị ghen
ghét để trở thành người tốt. Qua đó cũng thể hiện ước mơ nhân văn chủ
nghĩa, ước mơ hoà bình và ước mơ về những mối quan hệ tốt đẹp giữa

người với người. Nhằm xây dựng một xã hội bình yên, con người được
hạnh phúc xoá bỏ đi mọi thù hận, lòng tham lam và cái tôi ích kỉ của
mình.
Chiến thắng của anh em Pandava được coi như là chiến thắng của
đạo đức và công lý. Hành động của họ đã hoàn thiện được bổn phận và
danh dự là nội dung của Darma. Chiến tranh xảy ra trong vòng 18 ngày
làm cho hàng triệu người chết là biểu hiện của sự suy tàn của chế độ
huyết thống trong công xã đồng thời là dấu hiệu sự phát triển và hưng
thịnh của quốc gia nô lệ. Lúc đầu anh em Korava và Pandava sống
chung bình đẳng trong vương quốc Hastinapura của mình nhưng về sau
do xung đột về quyền lợi đất đai và nô lệ mà anh em Pandava tách ra
thành lập vương quốc mới Indraprasa riêng. Đó là biểu hiện sự phân hoá
ra nhiều vương quốc nhỏ. Chế độ dân chủ bộ lạc đã mất hiệu lực, nhường


chổ cho chế độ dân chủ quân sự. Vương quốc nào cũng muốn hùng mạnh
và phồn vinh, từ đó đẻ ra xung đột và thường giải quyết xung đột bằng
chiến tranh để thống nhất và mở rộng quốc gia. Anh em Pandava chiến
thắng trở lại thống trị cả hai vương quốc là biểu hiện xu thế ấy.
Sự thắng lợi của anh em Pandava thuộc đẳng cấp võ sĩ Ksatrya
cũng nói lên một điều là sự thống trị xã hội đương thời đã không còn phụ
thuộc vào đẳng cấp Brahman nữa. Anh em korava và pandava xâu xé
nhau về quyền lợi thông qua chiến tranh chứng tỏ sự tan rã của các
phương thức sản xuất dựa trên cơ sở huyết thống. Qui mô của chiến tranh
trong sử thi Mahabharata phá vỡ dần nền văn minh nô lệ, kéo xã hội Ấn
Độ chậm lại. Chiến tranh tàn khốc trút lên đầu nhân dân nô lệ, tiếng khóc
của phụ nữ hoà vào tiếng kêu la inh ỏi của côn trùng trên cánh đồng
Kurusetra ở cuối tác phẩm đã nói lên điều đó.
Trong bối cảnh xã hội đầy rẫy những mâu thuẩn, tội ác xuất hiện
ngày càng nhiều. Qua những cuộc chiến tranh giành quyền lợi, thân phận

con người lao động ngày bị giày xéo , một " tinh thần Ấn Độ " nổi lên, đó
là tinh thần nhân văn chủ nghĩa, vốn đã nảy nở từ trong những sáng tác
dân gian có trước đó ở khắp miền đất nước được thu hút và tập trung vào
thiên anh hùng ca này. Duy trì và thể hiện tinh thần nhân văn chính là nội
dung lẽ sống Darma của tôn giáo. Có nghĩa là sống thiện, hoà hợp, bình
đẳng và bác ái chính là lí tưởng của bộ sử thi.
Khi quốc gia nô lệ hình thành thì tư tưởng tư hữu (Danda) của
phong kiến cũng xuất hiện. Tư tưởng Danda tôn trọng quyền tư hữu, chế
độ phụ quyền và dùng sức mạnh quân sự, chính trị của giai cấp Ksatrya
và Brahman làm công cụ đàn áp xã hội. Trước đó, mỗi khi giải quyết
những mối bất hoà, xung đột về quyền lợi, quần chúng làm trọng tài phán
xử còn bây giờ kẻ thống trị nắm quyền quyết định. Mahabharata đã phản
ánh mâu thuẫn đó một bên giai cấp thống trị muốn xây dựng hệ thống tư
tưởng Danda để bảo vệ quyền lợi của họ. Một bên quần chúng nhân dân
lại muốn duy trì truyền thống Darma. Cuối cùng, những người thống trị
buộc phải tuyên bố "Thiên hạ và cuộc đời tiếp tục theo tinh thần Darma".
Hình ảnh anh em Yudhi từ bỏ ngôi báu sau ba mươi sáu năm trời để cùng
nhau hành hương lên cõi trời tìm chốn vĩnh hằng, để sám hối đã nói lên
sự thắng thế của tinh thần Darma-khát vọng của nhân dân đương thời.
Trong Mahabharata có câu: “Không một người đức hạnh nào lại đủ
kiên cường để suốt đời giữ vững phẩm hạnh, cũng như không một kẻ tội
lỗi nào lại quá xấu xa để sống trọn vẹn cuộc đời trong vũng bùn tội lỗi.
Đời là một cuộn chỉ rối tung và trên thế gian này, không có ai không làm
cả việc thiện lẫn điều ác. Mỗi người và mọi người đều phải gánh chịu lấy
hậu quả những hành động của mình”.


2. Giá trị nghệ thuật
Lý tưởng và đạo đức Mahabharata được thể hiện qua hành động và
tính cách của năm anh em Pandava và một số nhân vật khác như:

Dropadi, Kunti, Krisna, Bhima, .. Mỗi nhân vật có một tính cách, một đời
sống tinh thần riêng chứ không mang tính ước lệ theo khuôn mẫu truyện
dân gian - đó là đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật của sử thi.
2.1

Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Yudhi đức độ, sáng suốt bình tĩnh. Acgiuna dũng cảm kiên hùng,
Bhima xông xáo sôi nổi quyết giữ trọn lời thề cho đến chết; Kacna hùng
dũng và kiêu căng; Krisna tài trí siêu việt; Drita tuy mù loà nhưng vẫn oai
nghiêm trong cốt cách ông vua gian hùng, xảo quyệt ... mỗi nhân vật đều
để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
Romesh Dutt - nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ nhận xét “ Trừ tác
phẩm Iliad ra, không có tác phẩm nào mà nghệ thuật miêu tả nhân vật lại
phong phú và chân thực như Mahabharata. Nhân vật không đau khổ dằn
vặt như nhân vật của Dante, không say mê cực độ như nhân vật của
Shakespeare, trái lại các nhân vật đều phản ánh tính cách uy nghiêm,
trầm lặng của sức mạnh tinh thần, giống như những hình tượng bất hủ
bằng cẩm thạch từ thời xưa để lại mà các nghệ sĩ điêu khắc ngày nay
không tài nào mô phỏng được ”. Mahabharata không chỉ không thể hiện
xung đột giữa Dharma – Adharama thành cuộc giao tranh giữa hai phe
Pandava – Kaurava trên chiến trường mà còn chủ quan hóa xung đột đó
trong sự đấu tranh và khắc phục giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, ánh
sáng và bóng tối trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Sử thi này không phân
tuyến nhân vật một cách đơn giản theo cực thiện – cực ác.
Sử thi Mahabharata cho thấy cái anh hùng trong quan niệm Ấn Độ
không bao giờ tách rời các tiêu chuẩn đạo đức, nó bao hàm cái cao
thượng, vị tha, yêu chuộng hòa bình. Sức mạnh của người anh hùng
không chỉ thể hiện trong khả năng hành động mà nhiều khi ở chính sự
kiên nhẫn, sức chịu đựng, quyết định lùi bước trước những hành động

không xứng đáng.
Sử thi này xây dựng hệ thống nhân vật của nó mà ngay cả những
anh hùng mẫu mực nhất cũng không phải luôn luôn chiến thắng trong
cuộc chiến tâm hồn giữa Dharma và Adharma của bản thân. Ở đây hiện
tượng hàng loạt anh hùng suy thoái, tha hoá qua tiến trình chiến tranh.
Khiến cho cuộc chiến lúc đầu tuân theo những luật lệ cao nhưng càng về


cuối các luật lệ đó càng bị vi phạm. Yudhisthira, người anh cả trong năm
anh em Pandava, người anh hùng nổi tiếng đạo cao đức trọng đến ngày
thứ 14 của cuộc chiến tranh cũng bị dục vọng lôi cuốn để sa xuống con
đường người trần tục.
Trong sử thi, các nhân vật được xây dựng theo kiểu nửa trần tục –
nửa thần linh, ở đây chúng ta nói đến những anh hùng được xây dựng
theo kiểu nửa trần tục – nửa thần linh, không chỉ vì họ là con của một
người cha thần thánh và một bà mẹ trần tục. Mà chủ yếu vì Mahabharata
đã thể hiện họ vừa cao thượng vừa thấp hèn, luôn luôn trong cuộc đấu
tranh bản thân giữa Dharma và Adharma – Đạo lý và phi lý, vừa chịu lực
hút mãnh liệt của trái đất trần tục này vừa hướng tới thiên giới tâm linh
vời vợi cao trên kia. Dù rằng, việc các anh hùng đôi khi đắm chìm trong
suy tư, chiêm nghiệm hơn là thể hiện nhiệt tình hành động cũng bộc lộ
bản tính “yếu đuối” không dễ dàng biện hộ của họ. Mahabharata đã cống
hiến cho gia tài chung các anh hùng ca cổ điển của thế giới kiểu mẫu
“anh hùng suy tư” “anh hùng – đạo sĩ” rất Ấn Độ, rất phương Đông.
2.2

Nghệ thuật xây dựng tình huống.

Đọc Mahabharata, người đọc bị lôi cuốn vào quang cảnh chiến
tranh tràn ngập hào khí và sôi động. Người đọc say mê, hồi hộp theo dõi

những trận giao tranh ác liệt hoặc những âm mưu gián điệp, tâm lý chiến,
địch vận xảy ra suốt mười tám ngày liền. Cảm xúc càng tăng lên khi cuộc
chiến tiến dần đến ngày kết thúc,khi các tướng lĩnh dũng mãnh nhất lần
lượt ngã gục ở chiến trường. Một nhà Ấn Độ học phương Tây nhận xét:
“Trong văn học thế giới có lẽ khó tìm thấy những đoạn văn mô tả cảnh
chiến tranh đặc sắc như vậy”. Cuộc đua tài đọ sức khá sôi nổi giữa các
dũng sĩ khắp bốn phương đến cầu hôn Đropadi, cuộc đụng độ nảy lửa
giữa hai dũng sĩ Acgiuna và Kacna được ví như cuộc giao chiến Achin va
Herto trong thần thoại và sử thi Hi-lạp, tình cảm và thái độ phản kháng
mãnh liệt của nàng Đropadi khi nàng bị anh em Korava định chiếm đoạt
sau ván cờ bất hạnh của Yuhi khiến cho cả thần linh cũng phải xúc động
và ra tay can thiệp. Đó là những đoạn văn có sức truyền cảm mạnh đối
với người đọc.
Một mặt, tuân thủ theo các qui tắc chung của sử thi, mặt khác
Mahabharata mang những nét độc đáo của Ấn Độ, của phương Đông, cả
ở tâm hồn, tư tưởng, cả ở bút pháp văn chương, tạo nên sức hấp dẫn rất
riêng và góp phần làm phong phú kho tàng sử thi của nhân loại.


Nền tảng lịch sử của Mahabharata là một thời đại đầy nhiễu
nhương xung đột.
- Xung đột giữa chế độ thị tộc dựa trên cơ sở huyết thống với chế
độ chiếm hữu nô lệ mới manh nha trên cơ sở tư hữu và thể chế nhà nước.
- Xung đột giữa hai đẳng cấp BRAHMANA (tăng lữ) và
KSHATRIYA (Võ sĩ quí tộc) trong cuộc chiến đấu giành quyền lực tối
thượng giữa thần quyền và vương quyền.
- Xung đột giữa nội bộ đẳng cấp KSHATRIYA trong những cuộc
chiến tranh giành đất đai, mở rộng bờ cõi giữa các vương quốc, các tiểu
vương quốc, các bộ lạc cổ đại.
Các xung đột này thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau và thể hiện ra

thành những cuộc chiến tranh có qui mô to lớn, sức huỷ diệt khủng khiếp
của thời kì cổ đại.
Mahabharata là kí ức lịch sử về những cuộc chiến tranh như vậy.
Tác phẩm kể về cuộc chiến tranh cốt nhục giữa hai chi thuộc cùng dòng
họ Bharata. Pandava tấn công Kaurava để giành lại vương quốc của họ đã
bị chiếm đoạt một cách bất công.
Song qua sự phản ánh của Mahabharata, tính chất của chiến tranh
đã được khúc xạ đi nhiều. Bằng cớ là trong giải pháp tìm kiếm hoà bình
của Pandava, họ chỉ cần 5 làng nhỏ, thay vì cả một vương quốc, miễn là
tránh được xung đột đổ máu với các anh con bác của mình. Chỉ khi
Duryodhana nhất định cự tuyệt: “Không một tấc đất cắm dùi !”chiến
tranh mới trở nên không sao tránh khỏi. Xung đột chủ yếu giữa Pandava
và Kaurava là xung đột giữa tinh thần bình đẳng và bác ái, yêu thương,
hoà hợp (vốn là truyền thống đạo đức của thời kì Công xã nguyên thuỷ,
đồng thời là khát vọng của người Ấn) với cái phi đạo lí, bất công, hiềm tị
và thù hằn (là bản chất gắn với cơ sở tu hữu và thể chế Nhà nước của các
quốc gia chiếm hữu nô lệ mới hình thành). Ở đây, ta thấy cuộc chiến
tranh giữa DHARMA (một trong những nghĩa của từ DHARMA là Đạo
lí, Lẽ phải) và ADHARMA (Phi đạo lí). Người Ấn gọi chiến tranh trong
Mahabharata là DHARMAKSHETRE (chiến tranh bảo vệ DHARMA).
Nhưng mặt khác, kết thúc chiến tranh của Mahabharata lại là một
kết thúc khá xa lạ với các sử thi anh hùng khác trên thế giới. Trong bức
tranh về chết chóc, buồn đau, thất vọng sau chiến thắng của Pandava hầu
như không có cảm hứng ca ngợi mà chỉ hiện ra tính chất rác rưởi, vô
nghĩa, đẫm máu của chiến tranh. Thay cho khúc khải hoàn ca chỉ có tiếng
khóc của mẹ già, vợ góa, con côi trên khắp thành Hastinapura tang tóc.
Yudshithira cúi đầu mà lên ngôi: “Quả là đất nước đã về tay chúng con.
Nhưng anh em thân thiết của con đã đi cả rồi. Chúng con đã mất các con
cái thân yêu. Chiến thắng này con xem như một thất bại lớn” (6-tr.454).



Từ giọng điệu bi thống này định hình nên khái niệm quan trọng của
Hindu giáo là AHIMSA (bất tổn sinh – không làm tổn hại một sinh vật
sống nào) nghĩa là phủ nhận hoàn toàn đối với chiến tranh.
Để lí giải vấn đề, chúng ta cần chú ý rằng trong quá trình sáng tác
– diễn xướng - lưu truyền - sửa chữa, bổ sung để hình thành nên văn bản
tác phẩm cuối cùng đến với chúng ta hiện nay, bên cạnh những điểm
tương đồng, Mahabharata có khác biệt so với Iliad. Điểm tương đồng
nằm ở chỗ dưới cái tên một tác giả cá nhân mang đầy màu sắc huyền
thoại: Vyasa hoặc Homer, cả Mahabharata lẫn Iliad, thực ra, đều là công
trình của một tập thể đông đảo các tác giả vô danh qua nhiều thế hệ. Còn
khác biệt quan trọng là câu chuyện chiến tranh của các anh hùng bộ lạc,
các anh hùng dân tộc làm cốt lõi đầu tiên cho sử thi Mahabharata cũng
như Iliad đã được các thế hệ thi sĩ, văn sĩ, nói tóm lại là nghệ sĩ, bồi đắp,
trau chuốt, thì trong trường hợp của Mahabharata lại được các thế hệ tu sĩ
Brahmana (là đẳng cấp có độc quyền trong xã hội Ấn độ về lĩnh vực tư
tưởng, tri thức, sách vở) nắm lấy, tái tạo và bổ sung. Các tu sĩ Brahmana
đã dựa vào câu chuyện anh hùng, sắp xếp lại, sửa chữa lại, đem nó gắn
liền với cảm quan tôn giáo, đạo đức. Cái hùng theo quan điểm Võ sĩ quí
tộc Kshatriya đã được uốn nắn trong tương tác với cái hùng theo quan
điểm Tăng lữ Brahmana. Mahabharata trở nên một sự hoà trộn giữa hai
truyền thống lớn trong văn học Ấn: (1) truyền thống Sruti (tạm dịch là
truyền thống Thần khải, bao gồm các tác phẩm văn chương –tôn giáo,
sản phẩm tinh thần của giới tu sĩ, văn chương hướng tới con người trong
quan hệ thần thánh, con người cùng khát vọng tâm linh của mình) (2)
truyền thống SMRITI (tạm dịch là truyền thống Nhân văn hay truyền
thống Thế tục, bao gồm các tác phẩm văn chương – sản phẩm tinh thần
của Kshatriya và các đẳng cấp khác thuộc quần chúng nhân dân, văn
chương hướng tới con người trong quan hệ với cuộc sống trần gian, con
người mang những bổn phận xã hội).

Ấn độ là một đất nước luôn tôn vinh tình yêu với niềm hoan lạc vô
biên. Điều kỳ diệu của xứ sở cái nôi của tôn giáo này là sự rực rỡ của hoa
trái và hương sắc tình ái lại là sự biểu hiện sâu sắc sự hợp thể giữa cảm
quan tôn giáo thiêng liêng và khát vọng yêu thương mãnh liệt. Văn học
Ấn Độ chính vì vậy là một sự tổng hợp của triết lý tự biện xen lẫn với
cảm xúc trữ tình thế giới thiên nhiên kỳ vĩ và dữ dội như một cách giải
quyết với chủ nghĩa khắc kỳ, tình yêu vì thế được thể hiện vô cùng đam
mê cuồng nhiệt và trở thành chủ đề trong nhiều tác phẩm. Mahabharata
cũng không ngoại lệ. Trong Mahabharata tình yêu được thể hiện trong
mối quan hệ của nàng Đropadi với năm anh em nhà panda và trên những
gắn bó khác nhau. Đúng nghĩa tình vợ chồng phải nói đến quan hệ của


nàng với Arjura. Trong quan hệ với Yuhisthira nàng giống như một thứ
nữ tận tụy ngưỡng mộ kẻ trên. Đặc biệt nàng gắn bó với Bhisma về
phương diện ý thức trả thù. Cặp nhân vật Bhisma và Đropadi là biểu
tượng hồn nhiên, vô tư về khát vọng cấp thiết của cộng đồng đòi hỏi công
lý phải được thực hiện.
2.3 Ngôn ngữ triết lý.
Tập sử thi mang đậm màu sắc tôn giáo và triết học. Một mặt ràng
buộc chặc chẽ với tất cả những khổ luỵ, biến ảo vô thường bất tuyệt
của thế giới trần gian , mặt khác tư duy người Ấn Độ luôn vươn tới
cái chân lý, cái vĩnh hằng, cái duy nhất. Sử thi Mahabharata là một
truyện lớn và kì diệu theo ý nghĩa đó “những đau buồn trong cuộc
sống nhân gian được mô tả với một vẽ đẹp cao cả và nó diễn ra trên
một toàn cảnh lớn. Thông qua bối cảnh, câu chuyện ấy để nói lên
được tư tưởng, khát vọng và phong cách sống của người dân Ấn Độ”.
Mahabaharata là một tác phẩm văn học nhưng ngôn ngữ trong
Mahabharata mang đầy tính triết lý. Chẳng hạn một đoạn trong câu
chuyện giữa Krishna và Arjuna mang đầy tính triết lý.


Nhưng Krishna, phát ngôn viên của Thượng đế, đã nói với Arjuna :
“Ngươi nói chuyện về chân lý, vậy mà ngươi lại lo lắng cho số phận của
người khác. Bậc hiền trí không cảm thương đối với người chết cũng như
người sống. Chưa có bao giờ ta không hiện hữu, cả người và các vị anh
hùng kia cũng thế; từ nay về sau cũng không có khi nào mà tất cả chúng
ta ngừng hiện hữu. Linh hồn vốn bất diệt. Kẻ nào nghĩ rằng tự ngã giết
hay bị giết đều sai lầm. Tự ngã không giết mà cũng không bị giết. Cũng
như người ta lột bỏ quần áo cũ để mang quần áo mới, linh hồn nhập thể


từ bỏ thân xác này để nhập vào thân xác khác. Có sống tất có chết, chết
rồi lại sinh. Linh hồn trú ngụ trong thân xác mỗi người thì bất diệt. Vậy
đừng phải lo nghĩ về số phận của bất cứ ai”.
Krishna nói: “Ngươi chỉ nên nghĩ đến hành động, chứ đừng bao
giờ nghĩ đến kết quả của hành động; đừng để cho những kết quả của hành
động lôi cuốn ngươi, mà cũng đừng quyến luyến với thái độ bất động.
Hãy kiên trì làm công việc của ngươi, thản nhiên trước mọi sự thành
công hay thất bại, như thế là giải thoát.”
Những lời nói triết lý ấy dã góp phần tạo nên thành công của bộ sử
thi này khiến nó phát triển sâu rộng trong dân gian truyền tụng và ảnh
hưởng lớn trên thế giới. Một nhà văn người Ả Rập đã viết trong cuốn
“Ấn Độ” xuất bản năm 1930 như sau:“ Người Ấn Độ có cuốn sách mà
mình tôn kính đến mức khẳng định dứt khoát, rằng tất cả những gì có
trong sách khác thì chắc chắn không có trong sách này. Tất cả những gì
có trong sách này thì không có trong sách khác. Người ta gọi đó là
Mahabharata”.
3. Ảnh hưởng của sử thi Mahabharata.
Mahabharata là tác phẩm lớn nhất cả về dung lượng lẫn giá trị
nhân bản của văn học Ấn Độ cổ đại. Trong phạm vi văn học thế giới,

Mahabharata là một trong những sử thi đồ sộ nhất. Tác phẩm chứa đựng
những sự kiện lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo, tập quán sinh hoạt của toàn
thể dân tộc Ấn Độ suốt từ chân núi Hymalaya tới vịnh Bengan.
Tập sử thi đã thu hút sự chú ý, say mê, thán phục của toàn thế giới,
từ các nhà Đông Phương cho đến các nhà văn, nhà tư tưởng. Bộ sử thi đã
trở thành nguồn cảm hứng cho những thi nhân, nghệ sĩ sáng tác ra những
tác phẩm văn, thơ, nhạc hoạ…bởi những mối tình đẹp, hay sự chính
nghĩa hào hùng để ca ngợi và tạo thành một trường phái thẩm mỹ. Và cả
những công trình kiến trúc, điêu khắc trong nền văn học nghệ thuật cũng
được lấy cảm hứng từ những nhân vật anh hùng nữa trần tục – nữa thần
linh với những bức tượng về các vị thần hay những ngôi chùa, đền, tháp
cổ kính có ý nghĩa rất to lớn và ý nghĩa thời đại cho đến ngày nay.
Bộ sử thi cũng đã tác động rất lớn đến đời sống tinh thần và những
tập tục sinh hoạt của người dân Ấn Độ. Nó đã hình thành nên những hệ
tư tưởng, những suy nghĩ, những tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống tâm
linh và quan niệm sống của người dân Ấn Độ. Từ đó hình thành nên
những quan niệm sống và trở thành một khuôn khổ, chuẩn mực để điều
hành trật tự và hành vi sống của con người.


Sử thi Mahabharata là một trong những bộ sử thi rất lớn và hay
trên thế giới, chính vì điều đó mà sử thi còn được biết đến ở nhiều quốc
gia và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới đặc biệt là ở
khu vực Đông Nam Á (Việt Nam, Inđônêxia, Thái Lan…). Không những
vậy nó còn được truyền tải thành những bộ phim rất hay và có giá trị về
mặt giáo dục và tư tưởng. Trường ca Mahabharat được dàn dựng thành 3
phim điện ảnh (vào các năm 1933, 1965, 1989), 3 phim truyền hình
(1988-1990, và 2008 tên Mahabharat và một phim tên Kahaani
Hamaaray Mahaabhaarat Ki năm 2008). Bản phim năm 1989 do Peter
Brook đạo diễn năm 1990 dành giải các nghệ sĩ biểu diễn của Giải Emmy

quốc tế và một giải tại Liên hoan phim quốc tế Sax Paulo.
Mahabharata có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới đặc biệt là ở
Đông Nam Á. Ở Inđônêxia, khoảng thế kỉ VII đến VIII xuất hiện nhiều
truyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata như truyện “Trận đánh
vĩ đại của con cháu Bharata” bằng tiếng giava cổ, “đám cưới của
Acgiuna” ở Campuchia, Mahabharata xuất hiện rất sớm, rõ rệt nhất là
vào thời kì văn học Ăngco, nhiều cảnh quan trong Mahabharata được thể
hiện bằng phù điêu trên mặt đền Ăngco và đền đài khác. Gần đây ở Pháp
công diễn vở kịch Mahabharat do hai nhà soạn kịch nổi tiếng Pitow Bruc
người Anh và Giăng Clôt Carie người Pháp soạn ra được công chúng
hoan nghênh nhiệt liệt.

KẾT LUẬN


Như vậy sử thi Mahabharata là một trong những bộ sử thi lớn nhất Ấn
Độ và cũng như văn học thế giới, nó được xem là bộ bách khoa toàn thư
khái quát toàn bộ đời sống, xã hội, văn hóa của Ấn Độ. Thông qua nội dung
chúng ta có thể thấy được lí tưởng sống của người dân Ấn Độ lúc bấy giờ đề
cao giá trị nhân sinh và sự chính nghĩa cũng như những giá trị trong cuộc
sống. Và cũng từ đây chúng ta thấy được khả năng sáng tạo và cũng như
nền văn học Ấn Độ rất phát triển với những nghệ thuật đặc sắc, lối kể
chuyện hấp dẫn. Mahabharata đã dẫn dắt người đọc đến với thể giới của cõi
thần linh, với những hình ảnh nhân vật anh hùng nữa trần tục để khái quát
nên xã hội và lí tưởng sống để từ đó hình thành nên những tôn giáo, tín
ngưỡng, những quan niệm, khuôn khổ chuẩn mực sống. Và nó định hướng
con người sống phải hướng thiện, phải có lí tưởng và phải biết vượt qua lòng
tham lam, sự ích kỉ và những dục vọng tầm thường để sống tốt hơn.
Sử thi Mahabharata chứa đựng một nội dung rất sâu sắc và mang tính
triết học giáo lí, cùng với nghệ thuất rất đặc sặc, kết hợp một cách nhuần

nhuyễn và sáng tạo giữa các biện pháp nghệ thuật để tạo nên một bộ sử thi
đồ sộ như vậy. Nó đã trở thành một điểm sáng cho nền văn học Ấn Độ, tô vẽ
cho nền văn học Ấn Độ thêm rực rỡ và đánh dấu bước phát triển của nền
văn học nghệ thuật. Tạo nguồn cảm hứng sáng tạo cho các lĩnh vức khác
như hội hoạ, điêu khắc, văn thơ và cả điện ảnh…Nó không chỉ là “báo vật”
của Ấn Độ mà còn là một tác phẩm có một tầm ảnh hưởng rất lớn đến các
nước trong khu vực và thế giới.


Một số hình ảnh trong sử thi Mahabharata



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.
4.
2000.
5.

Nguồn internet.
/>Lưu Đức Trung, Văn hóa Ấn Độ, NXB Giáo dục 1997.
Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Ấn Độ, NXB TP Hồ Chí Minh

Phan thu Hiền, Thi pháp sử thi Mahabharata, nhà xuất bản Giáo
Dục, năm 1997.
6. Nguyễn Thu Hương, Các di sản nổi tiếng trên thế giới, NXB Văn hóa
TT.





×