Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận môn văn hóa kinh doanh đạo đức kinh doanh vinamilk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.51 KB, 30 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế, môi trường kinh
doanh càng ngày càng cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp đang phải giải một
bài toán vô cùng khó khăn đó là làm sao tăng doanh thu và lợi nhuận, giảm chi phí,
tăng thị phần khi mà có quá nhiều đối thủ. Do Việt Nam một thời gian dài chịu ảnh
hưởng của nền kinh tế tập trung, bao cấp nên khái niệm Đạo đức kinh doanh gần
như không được xem trọng do các doanh nghiệp không chịu áp lực cạnh tranh với
thị trường. Tuy nhiên, cùng với việc hội nhập kinh tế thế giới, các doanh nghiệp đã
bắt đầu nhận thức đạo dức kinh doanh là nền tảng cho sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp, do đó, khái niệm này được nhắc đến thường xuyên hơn trên các
phương tiện truyền thông đại chúng và đã dần được các doanh nghiệp áp dụng.
Kinh tế mở cửa làm cho tự bản thân doanh nghiệp phải tìm kiếm hướng đi cho
riêng mình, phải có sự khác biệt, nhưng vẫn in dấu trong suy nghĩ khách hàng, trở
thành 1 thương hiệu gắn liền sản phẩm ví dụ như trước kia nói đến xe máy nghĩ
đến Honda, bây giờ nói đến smartphone người ta nghĩ đến Iphone… Không phải
bởi vì họ độc quyền, mà bởi vì họ có một chiến lược tuyệt vời, quan tâm đến giá trị
lợi ích của khách hàng, và họ chọn cho mình một con đường riêng được xây dựng
dựa trên triết lý kinh doanh và đạo đức kinh doanh của bản thân nhà quản lý.
Và cũng từng có một khoảng thời gian, nói đến sản phẩm sữa tươi, sữa
chua…người ta nghĩ đến Vinamilk. Vậy con đường nào đưa họ đến thành công như
ngày hôm nay? Triết lý kinh doanh của họ là gì và đạo đức kinh doanh được áp
dụng như thế nào? Sau đây nhóm em xin được trình bày về đề tài “Đạo đức kinh
doanh Vinamilk”.


2

Trong phần trình bày của nhóm em còn rất nhiều thiếu sót do hạn chế về
kiến thức nên chúng em rất mong nhận được sự hướng dẫn góp ý của thầy để bài


tập nhóm em được hoàn thiện.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 phần: Phần 1: Vai trò và đặc điểm của đạo đức
kinh doanh. Phần 2: Giới thiệu về Vinamilk và “đạo đức kinh doanh” của Công ty.
Phần 3: Các phương án đề xuất để Công ty Vinamilk nâng cao đạo đức kinh doanh.
1.

Vai trò và đặc điểm của đạo đức kinh doanh

Đạo đức kinh doanh là một trong những yếu tố vừa đảm bảo cho sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được vận hành thông suốt theo yêu cầu của quy luật khách
quan; lại vừa phát huy được mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường cũng như quá trình toàn cầu hóa.
1.1 Vai trò của đạo đức kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp.
Lợi nhuận là một trong những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của một doanh
nghiệp và là cơ sở đánh giá khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, nếu người quản lý doanh nghiệp hiểu sai bản chất của lợi
nhuận và coi đấy là mục tiêu chính và duy nhất của hoạt động kinh doanh thì sự
tồn tại của doanh nghiệp có thể bị đe doạ. Tầm quan trọng của đạo đức kinh
doanh đối với một tổ chức là một vấn đề gây tranh cãi với rất nhiều quan điểm
khác nhau. Nhiều giám đốc doanh nghiệp coi các chương trình đạo đức là một
hoạt động xa xỉ. chỉ mang lại lợi ích cho xã hội chứ không phải doanh nghiệp. Vai
trò của sự quan tâm đến đạo đức trong các mối quan hệ kinh doanh tiếp tục bị
hiểu lầm. Chúng ta sẽ xem xét ở các nội dung dưới đây về vai trò của đạo đức


3

kinh doanh trong hoạt động quản trị doanh nghiệp.


+ Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh
Đạo đức kinh doanh bổ sung và kết hợp với pháp luật điều chỉnh các
hành vi kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và quỹ đạo của các chuẩn mực
đạo đức xã hội. Không một pháp luật nào. dù hoàn thiện đến đâu chăng nữa
cũng có thể là chuẩn mực cho mọi hành vi của đạo đức kinh doanh. Nó
không thể thay thế vai trò của đạo đức kinh doanh trong việc khuyến khích
mọi người làm việc thiện, tác động vào lương tâm của doanh nhân. Bởi vì
phạm vi ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật, nó bao quát mọi lĩnh
vực của thế giới tinh thần, trong khi pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi
liên quan đến chế độ nhà nước, chế độ xã hội... Mặt khác. pháp luật càng
đầy đủ chặt chẽ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề
cao. càng hạn chế được sự kiếm lợi phi pháp. Tham nhũng. buôn lậu, trốn
thuế, gian lận thương mại... khi bị phát hiện sẽ bị pháp luật điều chỉnh, lúc
này "hiện tượng kiện tụng buộc người ta phải cư xử có đạo đức".

+ Đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp
Phần thưởng cho một công ty có quan tâm đến đạo đức là được các nhân viên,
khách hàng và công luận công nhận là có đạo đức. Phần thưởng cho trách nhiệm
đạo đức và trách nhiệm xã hội trong các quyết tình kinh doanh bao gồm hiệu quả
trong các hoạt động hàng ngày tăng cao, sự tận tâm của các nhân viên, chất lượng
sản phẩm được cải thiện, đưa ra quyết ánh đúng đắn hơn. sự trung thành của
khách hàng và lợi ích về kinh tế lớn hơn. Các tổ chức phát triển được một môi
trường


4

trung thực và công bằng sẽ gây dựng được nguồn lực đáng quý có thể mở rộng
cánh cửa dẫn đến thành công.
+ Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên

sự tận tâm của nhân viên xuất phát từ việc các nhân viên tin rằng tương lai
của họ gắn liền với tương lai của doanh nghiệp và chính vì thế họ sẵn sàng hy
sinh cá nhân vì tổ chức của mình. Doanh nghiệp càng quan tâm đến nhân viên
bao nhiêu thì các nhân viên càng tận tâm với doanh nghiệp bấy nhiêu. Các vấn
đề có ảnh hưởng đến sự phát triển của một môi trường đạo đức cho nhân viên
bao gồm một môi trường lao động an toàn. thù lao thích đáng, và thực hiện đầy
đủ các trách nhiệm được ghi trong hợp đồng với tất cả các nhân viên. Các chương
trình cải thiện môi trường đạo đức có thể là chương trình "gia tỉnh và công việc"
hoặc chia/bán cổ phần cho nhân viên. Các hoạt động từ thiện hoặc trợ giúp cộng
đồng không chỉ tạo ra suy nghĩ tích cực của chính nhân viên về bản thân họ và
doanh nghiệp mà còn tạo ra sự trung thành của nhân viên đối với doanh nghiệp.

+ Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng
Các nghiên cứu và kinh nghiệm hiện thời của nhiều quốc gia cho thấy mối
quan hệ chặt chẽ giữa hành vi có đạo đức và sự hài lòng của khách hàng. Các
hành vi vô đạo đức có thể làm giảm lòng trung thành của khách hàng và khách
hàng sẽ chuyển sang mua hàng của các thương hiệu khác. ngược lại hành vi đạo
đức có thể lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của công ty. Các khách hàng
thích mua sản phẩm của các công ty có danh tiếng tốt, quan tâm đến khách hàng
và xã hội. Khách hàng nói rằng họ ưu tiên những thương hiệu nào làm điều thiện
nếu giá cả và chết lượng các thương hiệu như nhau. Các công ty có đạo đức luôn


5

đối xử với khách hàng công bằng và liên tục cải tiến chất lượng sản phẩm. cũng
như cung cấp cho khách hàng các thông tin dễ tiếp cận và dễ hiểu, sẽ có lợi thế
cạnh tranh tốt hơn và dành được nhiều lợi nhuận hơn. Điểm mấu chốt ở đây là chi
phí để phát triển một môi trường đạo đức có thể có một phần thưởng là sự trung
thành của khách hàng ngày càng tăng.


+ Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tề quốc gia
Một câu hỏi quan trọng và thường được nêu ra là liệu hành động đạo đức trong
kinh doanh có tác động đến kinh tế của một quốc gia hay không. Các nhà kinh tế
học thường đặt câu hỏi tại sao một số nền kinh tế thị trường mang lại năng suất
cao.
công dân có mức sống cao, trong khi đó các nền kinh tế khác lại không như thế.
Các thể chế xã hội, đặc biệt là các thể chế thúc đẩy tính trung thực, là yếu
tố vô cùng quan trọng để phát triển sự phồn vinh về kinh tế của một xã hội. Các
nước phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế,
bao gồm đạo đức kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó. tại các
nước đang phát triển, cơ hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền,
tham nhũng. hạn chế tiến bộ cá nhân cũng như phúc lợi xã hội.
1.2 Đặc điểm Văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh
doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt
Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan
cầu hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn
đề này chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh
doanh đều do Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là


6

những hành vi tuân thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để
mua được đã là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì
cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp
nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt
Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước,
nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao

động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống
nhất và đơn giản. Tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên
không có chuyện đình công hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội
đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần
thiết
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được
xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường
chứng khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong
xã hội. Qua kết quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách
báo, chúng ta có thể rút ra được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh
doanh ở Việt Nam.
2.

Giới thiệu về Vinamilk và “đạo đức kinh doanh” của Công ty

2.1 Giới thiệu về công ty cổ phần sữa Việt Nam – Vinamilk
Nhãn hiệu Vinamilk là tên dường như không còn xa lạ gì với rất nhiều người trong
chúng ta. Nhắc đến Vinamilk là người ta nghĩ ngay đến các sản phẩm sữa. Đây là
một thương hiệu mạnh đã có từ lâu đời, chiếm được tình cảm cũng như niềm tin
của

rất

nhiều

người

Việt

Nam.



7

Tên gọi đầy đủ của công ty cổ phần sữa Việt Nam- Vinamilk, được thành lập từ
năm 1976, là một công ty quốc doanh. Sau đó cùng với sự chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, công ty này đã cổ phần hóa doanh nghiệp, nhưng trông đó vốn
nhà nước vẫn chiếm 50.01%, số còn lại được bán ra công chúng thông qua thị
trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và từ đó Vinamilk chính thức chuyển
sang

hoạt

động

kinh

doanh

dưới

hình

thức

công

ty

cổ


phần.

Sau hơn 30 năm thành lập, công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) đã lớn mạnh
và trở thành doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa, hiện
chiếm lĩnh 75% thị phần sữa ở Việt Nam. Phần lớn sản phẩm của Công ty cung cấp
cho thị trường dưới thương hiệu “Vinamilk”, thương hiệu này được bình chọn là
một “Thương hiệu Nổi tiếng” và là một trong nhóm 100 thương hiệu mạnh nhất
do Bộ Công Thương bình chọn năm 2006. Vinamilk cũng được bình chọn trong
nhóm “Top 10 Hàng Việt Nam chất lượng cao” từ năm 1995 đến năm 2007.Theo
Euromonitor, Vinamilk là nhà sản xuất sữa hàng đầu tại Việt Nam trong 3 năm kết
thúc ngày 31 tháng 12 năm 2007. VINAMILK luôn mang đến cho khách hàng
những sản phẩm chất lượng, bổ dưỡng và ngon miệng nhất cho sức khoẻ của mọi
người, sẽ không phải lo lắng khi dùng sản phẩm của Vinamilk. Mọi lứa tuổi, đối
tượng

đều

phù

hợp

với

Vinamilk.

Danh mục sản phẩm của Vinamilk chủ yếu là sữa và các sản phẩm được chế biến
từ sữa như: sản phẩm chủ lực là sữa nước và sữa bột; sản phẩm có giá trị cộng
thêm như sữa đặc, yoghurt ăn và yoghurt uống, kem và phó mát. Vinamilk cung
cấp cho thị trường một những danh mục các sản phẩm, hương vị và qui cách bao bì

có nhiều lựa chọn nhất. Bên cạnh đó, Công ty đã xây dựng hệ thống phân phối
rộng nhất tại Việt Nam và đã làm đòn bẩy để giới thiệu các sản phẩm mới như
nước ép, sữa đậu nành, nước uống đóng chai và café cho thị trường.


8

Ngoài mạng lưới phân phối rộng khắp 64/64 tỉnh và thành phố trên cả nước ,
Vinamilk còn có tham vọng đưa sản phẩm của mình xuất khẩu ra các nước trên thế
giới. Đó là các thị trường nước ngoài bao gồm Mĩ, Pháp, Canada, Ba Lan, Đức,
khu vực Trung Đông, Đông Nam Á...góp phần đưa tên tuổi Việt Nam trên trường
quốc tế để trở thành một trong những thương hiệu uy tín cho bạn bè thế giới.
Với những thành quả mà Vinamilk đã đạt được trong ngày hôm nay đã tạo ra bước
đột phá không chỉ cho ngành chế biến sữa của Việt Nam mà còn mở ra bước đi mới
cho sự hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường thế giới. Chúng ta
tin tưởng rằng Việt Nam có thể tự hào về những bước phát triển mới của đất nước
hướng ra năm châu để trở thực hiện ước mơ trở thành “ con rồng châu Á”.
Các sự kiện quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của Công ty
như

sau:

1976 : Tiền thân là Công ty Sữa, Café Miền Nam, trực thuộc Tổng Công ty Lương
Thực, với 6 đơn vị trực thuộc là Nhà máy sữa Thống Nhất, Nhà máy sữa Trường
Thọ, Nhà máy sữa Dielac, Nhà máy Café Biên Hòa, Nhà máy Bột Bích Chi và
Lubico.
1978 : Công ty được chuyển cho Bộ Công Nghiệp thực phẩm quản lý và Công ty
được đổi tên thành Xí Nghiệp Liên hợp Sữa Café và Bánh Kẹo I.
1988 : Lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng trẻ em tại Việt
Nam.



9

1991 : Lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm sữa UHT và sữa chua ăn tại thị trường Việt
Nam.
1992 : Xí Nghiệp Liên hợp Sữa Café và Bánh Kẹo I được chính thức đổi tên thành
Công ty Sữa Việt Nam và thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ Công Nhiệp Nhẹ.
Công ty bắt đầu tập trung vào sản xuất và gia công các sản phẩm sữa.
1994 : Nhà máy sữa Hà Nội được xây dựng tại Hà Nội. Việc xây dựng nhà máy là
nằm trong chiến lược mở rộng, phát triển và đáp ứng nhu cầu thị trường Miền Bắc
Việt

Nam.

1996 : Liên doanh với Công ty Cổ phần Đông lạnh Quy Nhơn để thành lập Xí
Nghiệp Liên Doanh Sữa Bình Định. Liên doanh này tạo điều kiện cho Công ty
thâm

nhập

thành

công

vào

thị

trường


Miền

Trung

Việt

Nam.

2000 : Nhà máy sữa Cần Thơ được xây dựng tại Khu Công Nghiệp Trà Nóc, Thành
phố Cần Thơ, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tốt hơn của người tiêu dùng tại
đồng bằng sông Cửu Long. Cũng trong thời gian này, Công ty cũng xây dựng Xí
Nghiệp Kho Vận có địa chỉ tọa lạc tại : 32 Đặng Văn Bi, Thành phố Hồ Chí Minh.
2003 : Chính thức chuyển đổi thành Công ty cổ phần vào tháng 12 năm 2003 và
đổi tên thành Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam cho phù hợp với hình thức hoạt động
của

Công

ty.

2004 : Mua thâu tóm Công ty Cổ phần sữa Sài Gòn. Tăng vốn điều lệ của Công ty
lên

1,590

tỷ

đồng.



10

2005 : Mua số cổ phần còn lại của đối tác liên doanh trong Công ty Liên doanh
Sữa Bình Định (sau đó được gọi là Nhà máy Sữa Bình Định) và khánh thành Nhà
máy Sữa Nghệ An vào ngày 30 tháng 06 năm 2005, có địa chỉ đặt tại Khu Công
Nghiệp

Cửa

Lò,

Tỉnh

Nghệ

An.

* Liên doanh với SABmiller Asia B.V để thành lập Công ty TNHH Liên Doanh
SABMiller Việt Nam vào tháng 8 năm 2005. Sản phẩm đầu tiên của liên doanh
mang thương hiệu Zorok được tung ra thị trường vào đầu giữa năm 2007.
2006 : Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
vào ngày 19 tháng 01 năm 2006, khi đó vốn của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh
doanh Vốn Nhà nước có tỷ lệ nắm giữ là 50.01% vốn điều lệ của Công ty.
2007 : Mua cổ phần chi phối 55% của Công ty sữa Lam Sơn vào tháng 9 năm
2007, có trụ sở tại Khu công nghiệp Lễ Môn, Tỉnh Thanh Hóa.

2.2 Con đường chiến lược và đạo đức kinh doanh.
A. Chiến lược phát triển.
Mục tiêu của Công ty là tối đa hóa giá trị của cổ đông và theo đuổi chiến lược phát

triển kinh doanh dựa trên những yếu tố chủ lực sau:


Mở rộng thị phần tại các thị trường hiện tại và thị trường mới;



Phát triển toàn diện danh mục sản phẩm sữa nhằm hướng tới một lực lượng
tiêu thụ rộng lớn đồng thời mở rộng sang các sản phẩm giá trị cộng thêm có
tỷ suất lợi nhuận lớn hơn;



Phát triển các dòng sản phẩm mới nhằm thỏa mãn nhiều thị hiếu tiêu dùng
khác nhau;


11


Xây dựng thương hiệu;



Tiếp tục nâng cao quản lý hệ thống cung cấp;



Phát triển nguồn nguyên liệu để đảm bảo nguồn cung sữa tươi ổn định và tin
cậy.


B. Cam kết cho tương lai
Trang thiết bị hàng đầu, phòng thí nghiệm hiện đại bậc nhất, Vinamilk
tự hào cùng các chuyên gia danh tiếng trong và ngoài nước đồng tâm hợp lực làm
hết sức mình để mang lại những sản phẩm dinh dưỡng tốt nhất, hoàn hảo nhất. Biết
bao con người làm việc ngày đêm. Biết bao tâm huyết và trách nhiệm chắt chiu,
gửi gắm trong từng sản phẩm. Tất cả vì ước nguyện chăm sóc sức khỏe cộng đồng,
cho tương lai thế hệ mai sau, bằng tất cả tấm lòng.
Đó cũng là cam kết của Vinamilk
C. Triết lý kinh doanh
Vinamilk mong muốn trở thành sản phẩm được yêu thích nhất ở mọi khu
vực, lãnh thổ. Vì thế chúng tôi tâm niệm rằng chất lượng và sáng tạo là người bạn
đồng hành của Vinamilk. Vinamilk xem khách hàng là trung tâm và cam kết đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng.


Thứ nhất, ta đã biết, để có thể thực thi được đạo đức kinh doanh, trước hết
điều kiện cần là doanh nghiệp đó phải thực hiện đúng theo pháp luật. Bằng
những cam kết cho tương lai, Vinamilk đang nỗ lực tạo ra những sản phẩm
bảo đảm an toàn, đạt tiêu chuẩn vệ sinh trong điều kiện hiện nay đang có rất
nhiều những loại thực phẩm nhiễm độc, ko an toàn, ko đảm bảo vệ sinh đang
tràn lan trên thị trường. Có thể nói, chiến lược và triết lý kinh doanh của
VNM đề ra hoàn toàn tuân thủ pháp luật, lành mạnh và vì lợi ích của cộng
đồng.


12


Thứ hai, người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay còn thiếu thông tin, chất

lượng nhiều sản phẩm ko được minh bạch… Nếu VNM thực hiện đúng
chính sách mình đã đề ra thì người tiêu dùng hoàn toàn có thể đặt niềm tin
vào các sản phẩm của họ. Thực tế ko dựa vào những câu khẩu hiệu, quảng
cáo mà dựa vào đạo đức của nhà quản lý công ty. Đạo đức kinh doanh quyết
định sản phẩm, niềm tin của khách hàng, hay chính là kết quả kinh doanh
của công ty. Sự hài lòng của khách hàng luôn đem đến một doanh thu và lợi



nhuận ngoài mong đợi của công ty.
Thứ ba, sự tâm huyết của toàn thể nhân viên như trong lời cam kết của VNM
chính là kết quả của việc kinh doanh có đạo đức, có được sự đồng thuận nhất
trí từ phía công nhân viên. Doanh nghiệp càng quan tâm đến nhân viên bao
nhiêu thì sẽ càng nhận được sự tận tâm của họ với doanh nghiệp bấy nhiêu.



Chỉ có đoàn kết mới là sức mạnh của sự thành công.
Thứ tư, đạo đức kinh doanh làm cho một doanh nghiệp phát triển, điều này
góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Hiện nay VNM đã có mặt ở
nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, … nó đã mang
thương hiệu của Việt Nam đến với thế giới, doanh số ngày càng cao cũng
góp phần tăng trưởng GDP cho nền kinh tế nước nhà.

ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH QUA TRIẾT LÝ HOẠT
ĐỘNG CỦA CÔNG TY VINAMILK:

Qua các tài liệu đã được công bố rộng rãi gắn với quá trình vận động của công ty
Vinamilk, đồng thời áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh
doanh, chúng ta có thể nhận thấy Vinamilk là một trong những công ty đi đầu về

việc chú trọng thực hiện xây dựng tốt văn hóa doanh nghiệp mà cụ thể ở đây là đạo


13

đức trong kinh doanh. Những điều này được thể hiện rõ nhất qua việc xây dựng bộ
quy tắc ứng xử đã được công bố. Cụ thể như sau:
1.

Về mặt kinh tế xã hội:

_ Chủ nghĩa tập thể: Tất cả những tương tác giữa đồng nghiệp với nhau, cấp trên
và cấp dưới nên được thực hiện vơi stinh thần hợp tác, hỗ trợ nhau cùng phát
triểnm giao tiếp trên tinh thần cởi mở, chân thành và thẳng thắn. Tinh thần đó là
một trong những Giá trị cốt lõi quyết định thành công chung của Vinamilk.
_ Lao động tự giác, sáng tạo: Được tuyên bố trong "Những quan niệm chung",
công ty Vinamilk cam kết "lấy chất lượng làm đầu". Cụ thể là tất cả mọi thành viên
trong công ty Vinamilk luôn tâm niệm rằng việc cung cấp những mặt hàng có chất
lượng đến người tiêu dùng là trách nhiệm của bản thân mình.. Chính vì vậy, mọi
thành viên trong công ty luôn tích cực, hăng say làm việc, đam mê nghiên cứu kỹ
thuật để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
_ Chủ nghĩa nhân đạo: Với phương châm “Sống và làm việc vì cộng đồng”,
Vinamilk là một trong những công ty tổ chức nhiều hoạt động từ thiện nhất. Năm
học2005-2006 Vinamilk đã tài trợ 1,5 tỷ đồng cho quỹ học bổng Vinamilk ươm
mầm tài năng trẻ Việt Nam và 3 tỷ đồng trong năm học2006-2007. Vinamilk cũng
đã trao hàng ngàn suất học bổng cho học sinh giỏi các trường trên cả nước, phụng
dưỡng suốt đời 18 bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương
trị giá 1,1 tỷ đồng; tặng Mặt trận Tổ quốc TP HCM 120 triệu đồng xây dựng 20
căn nhà tình nghĩa, đầu tư 2 tỷ đồng mỗi năm cho chương trình phòng chống suy
dinh dưỡng quốc gia. Và gần đây nhất là nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập, công

ty đã ủng hộ 7 tỷ đồng cho trẻ em nghèo, khuyết tật trên toàn quốc thông qua Quỹ
bảo trợ trẻ em Việt Nam, ủng hộ đồng bào miền Trung bị thiệt hại bởi cơn bão
Chanchu 500 triệu đồng, ủng hộ cầu Chôm Lôm- tỉnh Nghệ An 500 triệu đồng…


14

_ Yêu nước kết hợp tinh thần quốc tế: Vinamilk định vị thương hiệu như một niềm
tự hào của người Việt Nam. Vinamilk được khẳng định là một công ty luôn gắn bó
mật thiết với người nông dân, thu mua sữa của nông dân với giá cao, là một trong
những Công ty thu mua tới hơn 60% sản lượng sữa của nông dân, với lượng sữa
tươi ngày càng tăng cao cả về chất lượng và số lượng. Năm 2012, vinamilk nộp
ngân sách nhà nước hơn 2.900 tỷ đồng.
Ngoài thị trường trong nước, sản phẩm của Vinamilk đã có mặt tại 23 quốc gia trên
thế giới.
2.

Về mặt cá nhân:

_Có thể thấy, đạo đức của cá nhân gắn liền với đạo đức doanh nghiệp và đã được
công ty thể hiện như những giá trị cốt lõi:
+Chính trực
Liêm chính, Trung thực trong ứng xử và trong tất cả các giao dịch.
+Tôn trọng
Tôn trọng bản thân, tôn trọng đồng nghiệp. Tôn trọng Công ty, tôn trọng đối tác.
Hợp tác trong sự tôn trọng.
+Công bằng
Công bằng với nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và các bên liên quan khác.
+Tuân thủ
Tuân thủ Luật pháp, Bộ Quy Tắc Ứng Xử và các quy chế, chính sách, quy định của

Công ty.
+Đạo đức
Tôn trọng các tiêu chuẩn đã được thiết lập và hành động một cách đạo đức.


15

_Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu
quả gắn với trách nhiệm xã hội.
Trong bộ Quy tắc ứng xử, Vinamilk đã chỉ rõ:
+ Với Luật pháp và cơ quan nhà nước:
Tôn trọng luật pháp, cam kết tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như sẽ chịu
trách nhiệm về các hành vi không tuân thủ.
+Với cơ quan nhà nước:
Khẳng định sẽ là một công ty chính trực trong tất cả các mối quan hệ với cơ quan
nhà nước.
+ Với người tiêu dùng:
Đặt ra tiêu chuẩn cao nhất cho sản phẩm.
Trung thực trọng quảng cáo.
Đáp ứng người tiêu dùng.
Giữ gìn thông tin người tiêu dùng.
+ Với khách hàng:
Luôn nhìn nhận khách hàng như một đối tác kinh doanh đôi bên cùng có lợi.
+ Với nhà cung cấp:
Cam kết tạo dựng một công ty uy tín, tôn trọng và trung thực với nhà cung cấp.
+ Với đối tác, nhà đầu tư và cổ đông:
Tôn trọng lợi ích lẫn nhau.

_ Bí mật và trung thành với trách nhiệm đặc biệt:
Trong bộ Quy tắc ứng xử, Viamilk đã nêu rõ" Tất cả nhân viên của VINAMILK

phải bảo mật những thông tin bảo mật, tuân thủ Chính sách Bảo mật của Công ty. "
Nhân viên được yêu cầu tuân thủ theo các quy định về thu thập, sử dụng, chuyển
giao, xóa bỏ, bảo vệ thông tin với các cấp độ bảo mật khác nhau. Những thông tin


16

mà nhân viên lưu ý thực hiện Chính sách Bảo mật bao gồm nhưng không giới hạn
ở các thông tin:
+ Thông tin về quản trị, tái cơ cấu
+ Các hoạch định năm, trung hạn và dài hạn
+ Các nội dung liên quan đến tố tụng
+ Kế hoạch marketing và kinh doanh.
+ Phân tích về cạnh tranh, rủi ro.
+ Kế hoạch phát triển sản phẩm, công thức sản phẩm.
+ Giá cả, giá thành, chi phí, ngân sách.
+ Các hợp đồng quan trọng, sáp nhập hoặc thâu tóm.
+ Kế hoạch kinh doanh và tài chính hoặc các dự báo.
+ Thông tin về nhân sự.
+ Các thông tin liên quan đến khách hàng, đối tác, khách hàng tiềm năng và các
nhà cung cấp được cung cấp cho Công ty một cách bảo mật cũng được xem như là
các thông tin bảo mật.
3.

Khó khăn của Vinamilk khi Việt Nam gia nhập WTO :

Ngày 7-11-2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị định thư
về việc VN được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự
kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần
phải vượt qua khi VN được tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu.

Khi gia nhập vào WTO Việt Nam sẽ đứng trước những cơ hội và thách thức mới.
Tất cả các ngành nghề đều chịu một sự tác động lớn từ sự kiện này, trong đó ngành
thực phẩm hay noi cụ thể hơn là với các doanh nghiệp sản xuất sữa là một trong
những sự kiện đánh mốc son quan trọng trong sự nghiệp hoạt động của doanh
nghiệp.


17

Sau 3 năm gia nhập, ngành sữa Việt Nam đã có nhiều cơ hội để tăng thị phần và
phát triển, song cũng gặp không WTO ít khó khăn trong quá trình hội nhập cùng
với thị trường thế giới.
Hiện nay các sản phẩm sữa trong nước sản xuất chỉ chiếm gần 30% thị phần nội
địa. Đây cũng là nội dung được các chuyên gia, các nhà quản lý và doanh nghiệp
thảo luận tại hội thảo “Hội nhập kinh tế quốc tế- Những cơ hội và thách thức với
sự phát triển của ngành Sữa Việt Nam” do Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công
Thương) và Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên giai đoạn III (Mutrap III) phối hợp
tổ chức hôm nay (29/10).
Cùng với quá trình hội nhập toàn cầu, kinh tế trong nước ngày một phát triển, đời
sống nhân dân được cải thiện đã góp thúc đẩy tiêu dùng sữa tại Việt Nam. Tiêu thụ
sữa bình quân đầu người tại Việt Nam từ mức 8,09 lít/người/năm vào năm 2000 đã
lên tới 14,81 lít/người/năm vào năm 2008, với tốc độ tăng trưởng bình quân trên
9%/năm trong giai đoạn 2000-2008. Tuy nhiên so với một số nước khác trong khu
vực như Thái Lan, tiêu thụ sữa tại Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều và tiềm năng
phát triển của thị trường sữa tại Việt Nam còn rất lớn. Bên cạnh đó, ngành sữa Việt
Nam cũng phải đối diện những thách thức như các hãng sản xuất sữa trong nước
còn đang chịu sức ép cạnh tranh ngày một gia tăng do việc giảm thuế cho sữa
ngoại nhập theo chính sách cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi thực hiện các
cam kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung trong Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (cam kết CEPT/AFTA) và cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO).
Ông Phan Chí Dũng- Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ, Bộ Công Thương cho biết
sữa bột nhập khẩu hiện chiếm thị phần trên thị trường khá cao (khoảng 72%), sữa
bột trong nước sản xuất thị phần chiếm ít hơn là Vinamilk (20%), Nutifood (5%)


18

và khoảng dưới 10% doanh nghiệp nhỏ trong nước không có thương hiệu nhập về
đóng gói. Ngoài ra, giá sữa bột nhập khẩu tại thị trường Việt Nam đôi khi lại vận
động trái chiều với xu thế của thị trường thế giới và của giá sữa nguyên liệu nhập
khẩu, gây nhiều bức xúc trong xã hội...
Vinamilk nói riêng và các công ty sản xuất sữa nói chung đang đứng trước những
cơ hội cũng như những thách thức không nhỏ khi Việt Nam gia nhập vào WTO.
Tuy nhiên với nhiều năm hoạt động trên thị trường gây dựng được niềm tin cho
người tiêu dùng và tạo được thương hiệu riêng cho mình thì chắc chắn Vinamilk sẽ
nắm bắt được những cơ hội để vươn ra thị trường thế giới và đồng thời vượt qua
những khó khăn khi phai cạnh tranh với rất nhiều các sản phẩm khác.

2. Bê bối trong ngành sữa:
Năm 2008 là một năm đặc biệt khó khăn của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là
trong ngành thực phẩm. Năm 2008 đã xảy ra một vụ bê bối gây rung động cả thế
giới, đó là vụ bê bối sữa nhiễm độc ở Trung Quốc, trong đó sữa vàsữa bột trẻ
em đã bị lẫn hóa chất melamine. Vụ bê bối này đã ảnh hưởng đến nhiều nước khác
bởi các sản phẩm chứa sữa nhiễm bẩn nhập từ Trung Quốc. Đến ngày 22 tháng 9,
người ta đã thống kê được gần 53.000 trẻ em đã bị bệnh, hơn 12.800 trẻ phải nằm
viện, và 4 trẻ bị chết, với nguyên nhân là sỏi thận và suy thận. Chất hóa học đã
được trộn vào sữa để làm cho sữa có vẻ có độ đạm cao hơn. Cũng chất hóa học này
đã có liên quan đến chuỗi các vụ thu hồi thức ăn cho thú cảnh vào năm 2007.
Trong một vụ khác, sữa chất lượng kém đã gây ra cái chết do suy dinh dưỡng của

13 trẻ sơ sinh tại Trung Quốc năm 2004. Vụ việc sữa nhiễm độc melamine này đã


19

khiến người tiêu dùng trên toàn thế giới mất niềm tin vào sự đảm bảo chất lượng
của các sản phẩm sữa, trên thị trường Việt Nam nói riêng, người tiêu dùng cũng đặt
ra dấu hỏi về mức độ tin cậy của các sản phẩm sữa trên thị trường. Đây thực sự là
một cú sốc lớn trong ngành sản xuất sữa, đặt ra một bài học lớn cho các doanh
nghiệp sản xuất sữa trong đó có Vinamilk về đạo đức kinh doanh : phải đem tới
cho người tiêu dùng sản phẩm sữa có chất lượng tốt, gắn lợi ích của xã hội với lợi
ích của doanh nghiệp.Vụ bê bối này đã thực sự tác động tiêu cực tới sức mua của
người tiêu dùng với các sản phẩm sữa, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản
xuất sữa trong nước.
Trong năm này, Vinamilk đã gặp phải rủi ro về chất lượng sản phẩm ( rủi ro chất
lượng sản phẩm là một rủi ro thường trực ) và gặp phải những thông tin không tích
cực về các sản phẩm sữa như vụ bê bối nói trên.Tuy nhiên Vinamilk đã khẳng định:
việc sữa nhiễm khuẩn không thuộc khâu sản xuất mà là do lỗi của khâu bảo quản
và vận chuyển phân phối, bao bì bị hở mí ghép và vi khuẩn bên ngoài xâm nhập
vào. Vinamilk còn đưa ra khuyến cáo:”Sản phẩm sữa đòi hỏi cả người tiêu dùng và
người bán phải bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng, mát tránh để chuột gián côn trùng
cắn rách bao vì sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào sữa.”
Đứng trước khó khăn khi người tiêu dùng mất niềm tin vào chất lượng của sản
phẩm sữa, Vinamilk vẫn vững vàng, kiên định với mục tiêu đem lại sản phẩm sữa
chất lượng tốt nhất tới tay người tiêu dùng. Chính vì vậy người tiêu dùng vẫn luôn
lựa chọn sữa Vinamilk , và Vinamilk vẫn tiếp tục vươn cao khẳng định vị trí
thương hiệu của mình không những trong nước mà trên cả thị trường quốc tế. Năm
2008 Vinamilk tiếp tục là công ty sữa hàng đầu Việt Nam với tổng doanh thu 8.381
tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế là 1.371 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế là 1.241 tỉ đồng,
lãi suất trên (EPS) là 7.132 đồng/ cổ phiếu. Cùng với sự phát triển đó Vinamilk vắt

đầu triển khai các dự án mở rộng và triển khai các mặt hàng phát triển nước giải


20

khát có lợi cho sức khỏe và dự án quy hoạch lại quy mô sản xuất sữa tại miền
nam.

3.khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới năm 2009:
Nền kinh tế Việt Nam năm 2009 gặp nhiều khó khăn và trải qua nhiều biến động
do khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới và khó khăn nội tại trong nền kinh tế.
khủng hoảng kinh tế gây tác động tiêu cực đối với tất cả các ngành nghề lĩnh vực
sản xuất, làm giảm sức mua của người tiêu dùng, và nhiều doanh nghiệp trong số
đó đã bị phá sản. Đối với ngành sản xuất sữa nói chung và Vinamilk nói riêng thì
năm 2009 cũng là môt năm khó khăn để tiêu thụ các sản phẩm sữa. Đồng thời bên
cạnh đó, năm 2009, các doanh nghiệp sản xuất sữa Việt Nam còn gặp khó khăn
trong việc thu mua nguyen liệu sữa tươi tự các hộ gia đình chăn nuôi bò sữa.
Đầu năm 2009, tại một số khu vực có xảy ra vụ lùm xùm về việc thu mua sữa
nguyên liệu của người nông dân của công ty sữa. Giá quá rẻ khiến người nông dân
bị lỗ và phải đổ sữa đi. Nhưng cuối cùng người nông dân và các nhà sãn xuất sữa
cũng đã đạt được thỏa thuận.
Tỉnh Bình Định là địa phương đã có nhiều nỗ lực duy trì đàn bò sữa nhưng người
nông dân trong những năm qua luôn bị "dội nước lạnh" bởi giá thu mua sữa
nguyên liệu bất hợp lý. Năm 2004 là thời điểm hoàng kim của đàn bò sữa tỉnh


21

Bình Định với số lượng lên đến hơn 3.500 con. Thế nhưng do giá sữa quá thấp
(3.400 đồng/kg), tổng đàn nhanh chóng bị giảm xuống chỉ còn một nửa. Hàng loạt

hộ dân tìm cách bán tháo đàn bò để vớt vát lại chút ít vốn liếng bỏ ra. Không ít hộ
trắng tay vì nợ nần chồng chất. Đến nay chỉ còn khoảng hơn 100 hộ quyết tâm bám
trụ chờ giá sữa "nhích" lên.
Tại TP.HCM, giá sữa bò nguyên liệu thời điểm hiện tại từ 7.600 đồng đến hơn
8.000 đồng/kg. Trong khi đó, tại Bình Định chỉ được thu mua với giá 6.300
đồng/kg. Hàng trăm hộ chăn nuôi liên tục kêu cứu nhưng tình hình vẫn không
được cải thiện. Tình trạng này xuất phát từ việc trên địa bàn Bình Định và các tỉnh
phụ cận chỉ có Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) mà đại diện là Nhà máy
sữa Bình Định là đơn vị thu mua chính. Một số cửa hàng sản xuất kem chỉ thu mua
vài tạ/tuần vào mùa nắng (so với số lượng khoảng 2 tấn sữa/tổng đàn bò tạo ra mỗi
ngày). Một nông dân than: "Giá thức ăn nuôi bò tăng lên gấp đôi trong vòng 3 năm
qua nhưng giá sữa thì lại quá chênh lệch theo hướng ngược lại. Làm ra sữa, chúng
tôi chỉ biết ngồi khóc. Nếu không bán cho Vinamilk thì các hộ không biết bán cho
ai. Nếu chúng tôi phản ứng quyết liệt, phía thu mua mà "lẫy" thì tình thế lại càng
ngặt nghèo hơn".
Trước tình hình đó Vinamilk đã có những biện pháp và thỏa thuận với các hộ
chăn nuôi bò sữa, cả hai bên cùng nhất trí và đi tới thỏa hiệp. Từ ngày 24/3,
Vinamilk tiếp tục tăng hỗ trợ cho các hộ nông dân thêm 800 đồng mỗi kg sữa, tăng
phí dịch vụ hỗ trợ các trạm trung chuyển 200 đồng mỗi kg, tổng cộng tăng thêm
1.000 đồng một kg.
Theo đó, giá sữa bò tươi nguyên liệu mới được Vinamilk thu mua sẽ là 13.000
đồng một kg (tăng khoảng 8,5%) sữa. Chính sách này được áp dụng cho tất cả các
hộ nông dân và tổ chức chăn nuôi bò sữa tại khu vực Hà Nội và các tỉnh phụ cận.


22

Từ đầu năm 2011 đến nay, Vinamilk có 3 đợt tăng hỗ trợ thu mua sữa bò tươi
nguyên liệu cho bà con và tổ chức chăn nuôi bò sữa ở các vùng miền. Trong tháng
3, đây là lần thứ 2, công ty tăng hỗ trợ cho bà con chăn nuôi ở phía Bắc.

Như vậy trong nhữn bối cảnh của năm 2009, Vinamilk vẫn tiếp tục tăng trưởng và
tiếp tục giữ vững được vị thế của mình.
4. Thách thức về nguồn nguyên liệu và tỷ giá:
Một thị trường sữa phát triển đầy đủ phải cung cấp vài chục đến vài tram lít
sữa/người/năm, trong khi thị trường Việt Nam chỉ khoảng vài lít sữa/người/năm.
Con số này tăng lên , kéo theo sức ép cho bài toán tăng trưởng của vinamilk, mà
cốt lõi câu chuyện là ở nguồn nguyên vật liệu.
Vinamilk đã chủ động nguồn nguyên liệu bằng cách xây dựng các nhà máy hiện
đại để tăng sản lượng và đa dạng hóa các sản phẩm về sữa. Các kế hoạch đầu tư đó
đều do Vinamilk chủ động, chủ động cả về nguồn vốn. Từ trước đến nay, Vinamilk
không đi vay vì có lợi nhuận và tái đầu tư hiệu quả để thu hồi lại vốn nhanh. Sự
phụ thuộc nguồn nguyên vật liệu cho thấy những dấu hiệu bất ổn. đầu tiên là việc tỉ
giá. Hiện nay với sự hạ giá của tiền đồng và các chuyên gia cũng dự báo sự tiếp tục
sụt giảm giá trị của tiền đồng, thì 70% nguyên liệu ngoại nhập là một rủi ro lớn cho
Vinamilk. Thứ hai là các nhà cung ứng nguyên vật liệu quốc tế cung đang loay
hoay trong việc quyết định nuôi bò hay nuôi người. việc người tăng nhưng lượng
bò giảm dẫn tới việc nguồn cung ứng nguyên vật liệu bị giảm. Trong khi đó nhu
cầu tiêu thụ tăng. Kỹ thuật chăn nuôi bò sữa của người nông dân cùng với việc
chăn nuôi theo phòng trào, qui mô nhỏ, lẻ tẻ (1-20 con chiếm 94%) cũng gây ra
thách thức không nhỏ với sự ổn định nguồn nguyên liệu sữa.
Mặc dù năm 2010 còn nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực của công ty và sự tin
tưởng của người tiêu dùng, công ty Vinamilk đã đạt được kết quả cao nhất từ trước


23

tới nay. Trong năm 2010, Vinamilk đã tung ra thị trường thêm nhiều sản phẩm, đầu
tư thêm nhiều tài sản cố định, môi trường và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng.
2.4 Đạo đức kinh doanh thể hiện trong những hoàn cảnh khó khăn được áp
dụng như thế nào.


Bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1976, trải qua gần 40 năm hoạt động và phát triển
trong thị trường sữa VN , VNM đã gặp không ít khó khăn và thách thức đến từ các
yếu tố khách quan. Tuy nhiên, công ty vẫn giữ vững được hoạt động và có những
bước phát triển mạnh mẽ, xứng đáng trở thành DN sữa hàng đầu VN.
Từ khi gia nhập WTO, các công ty trong nước nói chung, công ty VNM nói riêng
cũng phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các công ty nước ngoài về giá cả, chất
lượng sản phẩm,…Không vì lý do đó mà VNM bỏ qua chất lượng sản phẩm để làm
mọi cách hạ giá thành sản phẩm, VNM còn đầu tư vào cơ sở vật chất để tạo ra
những sản phẩm an toàn, chất lượng đến tay người tiêu dùng. Điều này chứng tỏ
VNM đã biết xây dựng môi trường đạo đức kinh doanh bằng cách thỏa mãn yêu
cầu của khách hàng để từ đó tạo sự tin tưởng từ họ. Có thể công ty không thu được
nhiều lợi nhuận bằng tiền mặt bằng các công ty khác, nhưng công ty lại nhận được
phần thưởng lớn hơn, bền vững hơn, đó chính là sự trung thành của khách hàng.
Một khi đã thỏa mãn được họ, họ sẽ quay lại mua sản phẩm của bạn lần tiếp theo,
và tiếp theo nữa. Như vậy, VNM sẽ có một lượng lớn khách hàng trung thành tiêu
dùng các sản phẩm của mình. Đó là điều cực kỳ quan trọng để tạo nên danh tiếng
của công ty.
Năm 2008, vụ bê bối lớn trong ngành sữa đã gây chấn động thị trường này. Sự tin
tưởng của khách hàng sụt giảm trầm rọng. trong hoàn cảnh đó, VNM vẫn vững
vàng, kiên định với mục tiêu đem lại sản phẩm sữa chất lượng tốt nhất tới tay


24

người tiêu dùng . nhờ đó, khách hàng vẫn trung thành tin dùng các sản phẩm chất
lượng của công ty.
Năm 2009, khủng hoảng kinh tế thế giới đã có những tác động xấu đến hoạt động
kinh doanh của hầu hết các loại hình kinh doanh trên thị trường trong đó có ngành
sữa. Nguồn cung ứng sữa cho sản xuất từ nông dân giảm khiến VNM gặp khó khăn

trong sản xuất. để cải thiện tình hình, VNM đã cam kết giá hỗ trợ cho nông dân từ
đó nguồn cung ứng sữa được đảm bảo liên tục, hoạt động sản xuất của công ty
không bị ngưng trệ. Trong năm này, VNM nằm trong số ít các DN vẫn giữ được đà
tăng trưởng. từ sự việc này cho thấy, đạo đức kinh doanh của VNM đã giúp cho
VNM tạo ra lợi nhuận không nhỏ. Những hộ nông dân cung cấp sữa nguyên chất là
những đối tác cực kỳ quan trọng của VNM. Họ quyết định đến sản lượng sữa thành
phẩm mà VNM sẽ cung ứng ra thị trường. nếu không có đạo đức kinh doanh, họ sẽ
sẵn sàng quay mặt mà không cung cấp sữa nguyên liệu cho công ty. Vì vậy, làm hài
lòng và lấy được sự trung thành từ họ là điều rất rất quan trọng. họ sẽ vui vẻ cung
cấp sữa nguyên liệu lâu dài cho một công ty có đạo đức kinh doanh chứ không hợp
tác với những công ty vì lợi nhuận mà chèn ép họ giá nguyên liệu đầu vào. VNM
muốn phát triển thì phải đầu tư để nông dân phát triển trước.
Kết lại, khi gặp khó khăn trong kinh doanh, việc giữ vững được đạo đức kinh
doanh là yếu tố quan trọng quyết định đến việc công ty có thể trụ vững được hay
không?. VNM đã thành công trong việc vận dụng triệt để đạo đức trong kinh doanh
để biến khó khăn thành sức mạnh, để từ đó tạo sự phát triển vững mạnh của công
ty, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế quốc gia.

3. Các phương án đề xuất để Công ty Vinamilk nâng cao đạo đức kinh doanh:


25

A.Nâng

cao

chất

lượng


sản

phẩm

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, Vinamilk đã không ngừng
đổi mới công nghệ, nâng cao công tác quản lý và chất lượng sản phẩm. Năm 1999,
Vinamilk đã áp dụng thành công Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc
tế ISO 9002 và hiện đang áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
quốc tế 9001:2000 . Việc này đa xua tan phần nào khoảng cách chất lượng so vơi
sữa ngoại nhập và làm tăng long tin, uy tín của công ty trên thị trường cạnh tranh
Hiện Vinamilk có trên 250 chủng loại sản phẩm, các sản phẩm đều đạt chất lượng
cao, được các tổ chức quốc tế kiểm định. Sữa đặc có đường, sữa đậu nành, sữa
chua, sữa bột Dielac của Vinamilk đã được xuất khẩu sang Mỹ, Úc, Nam Phi,
Trung Đông và nhiều nước châu Á. Vơi nhiều chủng loại sản phẩm công ty đã đáp
ứng tốt nhu cầu sử dụng đa dạng của người tiêu dung, bên cạnh đó thì cũng tạo
điều kiện để phân tán rủi ro. Người tiêu dung chú trọng tới chất lượng sản phẩm,
các sản phẩm của vinamilk đều đã được kiểm định bởi tổ chức quốc tế vì vây nó dễ
dàng

nhận

được

sự

quan

tâm


của

khách

hang.

Một trong các chiến dịch nâng cao chất lượng sản phẩm được cho là có tầm ảnh
hưởng đó là việc hợp tác vơi Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Theo đó chất lượng sản
phẩm vinamilk sẽ được đảm bảo bằng uy tín Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Việc này
sẽ tạo ra được long tin đối với người sử dụng khiến việc tiêu thụ hàng hóa trở lên
nhanh

B. Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp.

hơn.


×