Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ HỌC VĂN Ở LỚP 10 TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ NƯỚC OA HUYỆN BẮC TRÀ MY TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.05 KB, 20 trang )

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

A/ TÊN ĐỀ TÀI:

ÁP DỤNG CÓ HIỆU QUẢ
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP
GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT BÀI “KHÁI QUÁT VĂN
HỌC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ XIX”
GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ HỌC VĂN
Ở LỚP 10 TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
NƯỚC OA HUYỆN BẮC TRÀ MY TỈNH QUẢNG NAM

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

1


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

B/ĐẶT VẤN ĐỀ:
I/Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu:
Môn Ngữ Văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều
đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm
cho học sinh. Môn Ngữ Văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó nói
lên mối quan hệ giữa Ngữ Văn và các môn khác. Học môn Ngữ Văn sẽ có tác động
tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp
học tốt môn Ngữ Văn. Cho nên tự nó cũng toát nên yêu cầu tăng cường tính thực
hành giảm lý thuyết gắn với đời sống.
.
Xuất phát từ những căn cứ đó, chương trình đã nêu mục tiêu tổng quát của
môn ngữ văn: Môn Ngữ Văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung


của trường trung học: góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn
phổ thông , chuẩn bị cho họ tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Đó là những con
người có ý tức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như
lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái
ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước
đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ, cho nghệ thuật, trước hết là
trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công
cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốm đem tài trí của
mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai để
hướng con người tới các mục tiêu trên thì đối với các môn khác, vấn đề tên gọi tên
môn học có lẽ không cần đặt ra, nhưng đối với môn này tên gọi ấy thể hiện một
cách nổi bật một trong những điểm cải tiến căn bản của việc xây dựng chương trình
lần này là quan điểm tích hợp, nếu trước đây ta thường nói tới ba phân môn :Văn
học –Tiếng Việt –Tập làm văn thì hiện nay theo quan điểm tích hợp triệt để ranh
giới giữa ba phân môn ấy sẽ không còn nữa mà thực sự sáp nhập là một . Cho nên
việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kỹ
năng riêng của từng phân môn.Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng
thuộc từng phân môn thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ
Văn.
.
II/Thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu
:
Khi bàn về phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học, trong
khoảng hơn 10 năm gần đây( từ khi đổi mới đổi mới chương trình, sách giáo khoa
bậc THCS đến nay), chúng ta tốn không ít thời gian và giấy mực, kinh phí. Nhưng
trong thực tế, phương pháp dạy học chưa thực sự trở thành một chìa khoá, một
công cụ để giúp các thầy cô giáo trong giảng dạy mà phương pháp dạy học vẫn
nằm trong chữ nghĩa giấy tờ, nhiều khi đọc để hiểu được cũng không phải dễ, dẫn
đến một thực trạng khiến những người tâm huyết với nghề, thường xuyên quan

tâm đến vấn đề này không khỏi băn khoăn.
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

2


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học những năm gần đây, chúng ta
phải tránh một nhận xét chung chung là: Chúng ta đã sử dụng phương pháp dạy học
lạc hậu trì trệ. Tuy nhiên, cũng không thể nói trong thực tế ngày nay phương pháp
truyền thống vẫn được coi là ưu việt, bởi thực chất của phương pháp dạy học
những năm vừa qua chủ yếu vẫn xoay quanh việc: “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận,
ghi nhớ” thậm chí ở một số bộ môn do thúc bách của quỹ thời gian với dung lượng
kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở các lớp có liên quan đến thi cử) dẫn đến việc
“thầy đọc trò chép” hay thầy đọc chép và trò đọc, chép”… Nói như vậy, cũng
không phủ nhận ở một số không ít các thầy cô giáo có ý thức và tri thức nghề
nghiệp vững vàng vẫn có nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần của một xu thế
mới.
Theo tôi, có thể nói Phương pháp dạy học là một vấn đề có tính lịch sử, phải
đổi mới trước hết ở ý thức:
Trong một thời gian dài, người thầy được trang bị phương pháp để truyền thụ
tri thức cho học sinh theo quan hệ một chiều: Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận. Ở một
phương diện nào đó, khi sử dụng phương pháp này thì các em học sinh - một chủ
thể của giờ dạy - đã “bị bỏ rơi” giáo viên là người sốt sắng và nỗ lực đi tìm chiếc
chìa khoá mở cửa cái kho đựng kiến thức là cái đầu của học sinh, và người thầy
đem bất kỳ một điều tốt đẹp nào của khoa học để chất đầy cái kho này theo phạm vi
và khả năng của mình. Còn người học sinh là kẻ thụ động, ngoan ngoãn, cố gắng và
thiếu tính độc lập. Ngoan ngoãn, bị động, nhớ được nhiều điều thầy đã truyền đạt.
Để chiếm được vị trí số một trong lớp, người học sinh phải có được không phải một

tính ham hiểu biết khôn cùng của một trí tuệ sắc sảo mà phải có một trí nhớ tốt,
phải thật cố gắng để đạt được điểm số cao trong tất cả các môn học. Ngoài ra, phải
chăm lo sao cho quan điểm của chính mình phù hợp với quan điểm của thầy cô
giáo nữa.
Trong phương pháp dạy học truyền thống, chú ý đến người giáo viên và ít
quan tâm tới học sinh. Học sinh như “cái lọ” mà người thầy phải nhét đầy “lọ” này
như thế nào? Tính thụ động của học sinh được bộc lộ rất rõ ràng. Học sinh chỉ phải
nhớ những gì người ta đã cung cấp cho nó ở trạng thái hoàn thành. Trong phương
pháp dạy học cũ, nguyên tắc thụ động biểu lộ ở hình ảnh người giáo viên đứng
riêng biệt trên bục cao trong lớp và cung cấp “cái mẫu”, còn phía dưới là hình ảnh
các học sinh ngồi thành hàng trên ghế, cùng làm một công việc giống nhau là sao
lại cái mẫu mà thầy đang cung cấp cho họ.
Nếu quan niệm nghệ thuật dạy học và nghệ thuật thức tỉnh trong tâm hồn các
em thanh thiếu niên tính ham hiểu biết, dạy các em biết suy nghĩ và hành động tích
cực, mà tính ham hiểu biết đúng đắn và sinh động chỉ có được trong đầu óc sảng
khoái. Nếu nhồi nhét kiến thức một cách cưỡng bức thì hiệu quả giáo dục khó có
thể như mong muốn, bởi để “Tiêu hoá” được kiến thức thì cần phải “Thưởng thức
chung” một cách ngon lành.
Để học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập thì tất yếu phải đổi
mới phương pháp giảng dạy mà dạy học tích hợp là một phương pháp tiêu biểu .
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

3


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

III/Lý do chọn đề tài:
Dạy học tích hợp và khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại là phương
pháp, đồng thời là nguyên tắc của bộ môn Ngữ văn ở chương trình phổ thông. Là

một giáo viên trực tiếp giảng dạy, trong quá trình thực hiện chương trình Ngữ văn
lớp 10, tôi thấy tính ưu việt của phương pháp này hơn hẳn những phương pháp
trước đây được vận dụng. Tính ưu việt của phương pháp thể hiện rõ qua thái độ,
niềm say mê, kết quả tiếp nhận của học sinh trong từng bài học. Người học không
chỉ được chiếm lĩnh kiến thức, có kĩ năng đọc-hiểu các kiểu văn bản thuộc các thể
loại văn học mà các em thường đọc từ sách báo hàng ngày mà còn có khả năng tạo
lập văn bản.
Văn học Trung đại có nhiều thể loại có vị trí quan trọng trong đời sống nhân
dân Việt Nam ta. Đã có rất nhiều áng văn trở thành mẫu mực, bất hủ của dân tộc và
trên toàn thế giới.
Văn học trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá, xã hội phong kiến nên chịu
sự chi phối bởi hệ tư tưởng chính thống cũng như quan niệm văn chương của thời
đại. Trong quá trình dạy học người giáo viên một mặt phải tôn trọng tính chỉnh thể
của văn bản, bám sát văn bản để hướng dẫn học sinh đọc-hiểu, mặt khác để hiểu
thấu đáo nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác giả trung đại, giáo viên
phải trau dồi tri thức văn hoá đọc cho bản thân và hướng dẫn học sinh cách đọc tác
phẩm của tiền nhân đúng với thi pháp của một thời đại, phù hợp với ngữ cảnh đã
sản sinh ra văn bản. Do đó, phương pháp dạy tích hợp trở thành nguyên tắc bắt
buộc. Khi người học có được kĩ năng đọc-hiểu thể loại thì việc hướng dẫn, tổ chức
học sinh tự chiếm lĩnh tri thức trở nên dễ dàng. Người thầy lúc này trở thành nhà
thiết kế, người kiến trúc sư của giờ học văn.
Văn học Trung đại chủ yếu là thể chính luận. Bên cạnh những đặc trưng có
tính phổ quát của thể loại như tính lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, sự uyên
bác của người viết, giọng điệu hùng hồn; kết hợp hài hòa vẻ đẹp trí tuệ và vẻ đẹp
tình cảm, cảm xúc; văn chính luận trung đại còn mang tính chất văn-sử-triết bất
phân. Tính chất nguyên hợp này làm nên giá trị độc đáo của thể loại. Do đó, trong
quá trình hướng dẫn học sinh đọc-hiểu, giáo viên phải nắm vững hệ thống tri thức
thể loại và phương pháp tích hợp cũng như tri thức văn hóa để người dạy thực sự
làm chủ đối tượng. Trên cơ sở đó tổ chức cho học sinh chủ động, tích cực khai thác
bài học một cách có hiệu quả.

Với vấn đề đặt ra như trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng sẽ góp
phần cùng đồng nghiệp từng bước nâng dần chất lượng giờ học văn nói chung và
giờ học văn học trung đại ở trường PTDTNT Nước Oa nói riêng.
IV//Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-Giới hạn ở đối tượng học sinh khối 10 trường PTDTNT Nước Oa huyện
Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
-Phạm vi nghiên cứu là bài Khái quát văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ
XV đến thế kỷ XIX trong chương trình Ngữ văn 10.
C/Cơ sở lý luận:
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

4


ờ tai sang kiờn kinh nghiờm

- Môn Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong trờng phổ thông, có y
nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hớng nhân cách cho học sinh. Học văn
là học làm ngời, học các phép tắc ứng xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một
môn học nghệ thuật, kích thích trí tởng tợng bay bổng, sức sáng tạo của ngời học.
Nên để dạy và học tốt môn Ng vn, ngời dạy và ngời học phải không ngừng trau
dồi vốn kiến thức ngôn ngữ, từ vựng, các kiến thức liên quan về các hình thức nghệ
thuật, các nhà văn, nhà thơ, các câu ca dao tục ngữ, lấy đó làm vốn sống, vốn kinh
nghiệm cho bản thân.
- Nghị quyết hội nghị lần II Ban chp hanh TW Đảng khóa VIII nêu rõ: Đổi
mới phơng pháp GD-ĐT, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp t
duy sáng tạo của ngời học; Phơng pháp giao dc phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, t duy sáng tạo của ngời học, bồi dỡng lòng say mê học tập và ý chí
vơn lên.
-Theo Giao s Phan Trng Lun (trong cun Phng phỏp dy hc vn- xut

bn nm 2006) thỡ Dy hc vn hc trung i la dy hc vn hc s, la dy tri thc
mang tớnh tớch hp, t ú cn kờt hp viờc dy hc vn hc s vi lý thuyờt vn
hc, dy tac phm,dy lam vn. Theo Giao s, c s ca nguyờn tc nay la tớnh
tớch hp, tớnh ch o ca phõn mụn vn. Thc hiờn nguyờn tc nay s to nờn sc
mnh tng hp ca b mụn ma lõu nay giao viờn ớt quan tõm. Sc mnh tng hp
cn to ra ú la xut phat t bn cht liờn kờt ca cac tri thc vn hc. Thc hiờn
nguyờn tc nay cng chớnh la quan triờt dy vn hc s mang tớnh hờ thng, tớnh
liờn mụn.
D/C s thc tin:
1/V phớa hc sinh:
-a s hc sinh cũn nhiờu hn chờ ntrong viờc tiờp thu va cm th vn bn
vn hc trung i. Mt mt do trỡnh nhn thc ca s ụng hc sinh cũn yờu,
cha cú t duy sang to( 100% cac em la con em ụng bao dõn tc thiu s).
-Hc sinh cha nm bt c mi liờn hờ gia thi i thụng qua b mụn
lich s vi gia tri phn anh ca tac phm vn hc.
-Hiờn nay mt s hc sinh s dng sach tham kho, nhiờu tai liờu ban trờn
thi trng cht lng kộm dn ờn mt thc trng cú nhiờu ý kiờn anh gia khac
nhau vờ mt tac phm lam cho cac em lỳng tỳng, thiờu t tin, bi ng, thiờu s tỡm
tũi, anh gia, phõn tớch chi tiờt. Khụng phat huy c tớnh tớch cc, ch ng sang
to ca tng ca nhõn. Vỡ vy phn ln cac em sao chộp tai liờu mt cach may múc
khụng xac inh c kiờn thc trng tõm trong tng n vi bai hc.
-Mt thc tờ ang tụn ti trng PTDTNT Nc Oa la hc sinh bi hng
á kiờn thc t cac cp, lp hc di, cac em hc trc quờn sau. Cho nờn hc sinh
rt khú tiờp thu c kiờn thc ca vn bn khi cha hiu hờt ý ngha ca cac yờu
t
lich s, in c, in tớch, cac ni dung mang tớnh cụ xa s dng trong ú.
-Phn ln hc sinh ớt cú t liờu c va tham kho v a cng cha cú thúi
quen c sach tham kho b sung kiờn thc mụn hc.

Giao viờn thc hiờn: Hụ Thi Thu Nguyờn


5


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

-Nguyên nhân khách quanlà hiện nay do một số văn bản dung lượng quá dài
so với thời lượng 45-90 phút nghiên cứu trên lớp, học sinh rất khó có thể nắm bắt
hết được toàn bộ các giá trị của văn bản văn học.
2/Về phía giáo viên:
-Tình hình thực tế hiện nay lµ một số giáo viên còn mới với chương trình,
nên việc làm thế nào để truyền tải hết nội dung kiến thức của văn bản là tương đối
khó khăn. Cũng có giáo viên chỉ tập trung chuyển tải một cách rập khuôn những
thông tin có trong bài học mà chưa cha chó träng khai th¸c những vấn đề liên quan
.
- Giáo viên còn lúng túng khi đưa ra hệ thống câu hỏi khai thác cũng như
phương pháp triển khai những văn bản văn học trung đại.
-Vẫn còn hiện tượng giáo viên thiếu nhiệt tình trong quá trình tìm tòi, sưu
tầm những kiến thức liên quan bổ sung cho nội dung bài dạy dẫn đến khả năng tích
hợp còn hạn chế. Bên cạnh đó nhiều văn bản mới đưa vào chương trình cũng gây
không ít khó khăn khi tìm hiểu và truyền đạt kiến thức cho học sinh của giáo viên.
-Mặt khác, kiến thức lý luận văn học của một bộ phận giáo viên chưa thật sự
vững .
Chính vì những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu và thực
hiện, hy vọng sẽ góp phần cùng với đồng nghiệp làm tăng dần chất lượng dạy và
học văn, từ đó sẽ gây được hứng thú với giáo viên và học sinh.
E/Nội dung nghiên cứu và cách tiến hành :
I/Nội dung nghiên cứu :
*Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan
tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta,

từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với
những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp
dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc Tiểu học và cấp THCS..Hiện nay,
xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào
đổi mới chương trình và SGK THPT. Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm
2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc
chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương
pháp giảng dạy.” . “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học,
từ Đọc văn, tiếng Việt đến làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học;
quán triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích
hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong
hoạt động học tập của học sinh ; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo”. Như
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

6


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

vậy, ở nước ta hiện nay, bài toán đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp
dạy học bộ môn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy
học Ngữ văn ở THPT nhằm hình thành và phát triển năng lực cho học sinh một
cách có hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ các mục tiêu giáo dục và
đào tạo của bộ môn.
*Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa
học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất
thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản
chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn
những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ
bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn.

Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các
thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần
liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là
tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ,
không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một
vấn đề, tình huống.

.

Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có
hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học
khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên
cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học
hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Trong Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm
2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri
thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác
động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và
vững

chắc.”
*Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu cho thấy tích hợp đã trở thành một trào

lưu sư phạm hiện đại bên cạnh các trào lưu sư phạm theo mục tiêu, giải quyết vấn
đề, phân hoá, tương tác... Trào lưu sư phạm tích hợp xuất phát từ quan niệm về quá
trình học tập, trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình thành ở học sinh
những năng lực rõ ràng, có dự tính những hoạt động tích hợp trong đó học sinh học
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

7



Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

cách sử dụng phối hợp các kiến thức, kĩ năng và thao tác đã lĩnh hội một cách riêng rẽ.
Khái niệm năng lực ở đây được hiểu là một khái niệm tích hợp bao hàm cả những
nội dung, những hoạt động cần thực hiện và những tình huống trong đó diễn ra các
hoạt động. Theo ý nghĩa đó, năng lực được định nghĩa là sự tích hợp các kĩ năng
(các hoạt động) tác động một cách thích hợp và tự nhiên lên các nội dung trong một
loại tình huống cho trước để giải quyết những vấn đề do tình huống này đặt ra.
Năng lực này là một hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp, phối hợp các kiến thức
và kĩ năng, chứ không phải là sự tác động các kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung.
Khoa sư phạm tích hợp nhấn mạnh dạy cách tìm tòi sáng tạo và cách vận dụng kiến
thức vào các tình huống khác nhau. Tức là, dạy cho học sinh biết cách sử dụng kiến
thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống cụ thể, có ý nghĩa nhằm mục
đích hình thành, phát triển năng lực. Đồng thời chú ý xác lập mối liên hệ giữa các
kiến thức, kĩ năng khác nhau của các môn học hay các phân môn khác nhau để bảo
đảm cho học sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của
mình vào giải quyết các tình huống tích hợp.

.

*Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT
chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong
các phân môn Văn học, tiếng Việt, làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như
hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là
cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà
trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ,
bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình
huống cụ thể mà sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội
bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ

gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp,
liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và thực tiễn,
đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình huống tích
hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn.

.

Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là cách thức để khắc
phục, hạn chế lối dạy học đó nhằm nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức và
kĩ năng mà học sinh lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi học sinh khả năng huy động
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

8


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống
có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ, một tình huống chưa
từng gặp. Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp,
đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân
môn riêng rẽ không có được.

.

*Qua nghiên cứu cho thấy dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp
vẫn theo đuổi quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”, tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh trong mọi mặt, mọi khâu của quá trình dạy học; tìm mọi cách phát
huy năng lực tự học, năng lực sáng tạo của học sinh. Do vậy, việc lựa chọn và sử
dụng các phương pháp dạy học cần chú ý bảo đảm các yêu cầu sau :

:
- Giúp học sinh tích hợp các kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội, xác lập mối liên hệ
giữa các tri thức và kĩ năng thuộc các phân môn đã học bằng cách tổ chức, thiết kế các
nội dung, tình huống tích hợp để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng
riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các kiến thức
và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp.

.

- Tổ chức, thiết kế các hoạt động phức hợp để học sinh học cách sử dụng, phối
hợp những kiến thức và kĩ năng đã thụ đắc trong “nội bộ các phân môn”.
- Đặt học sinh vào trung tâm của quá trình dạy học để các em trực tiếp tham
gia vào giải quyết các vấn đề, tình huống tích hợp; biến quá trình truyền thụ tri thức
thành quá trình học sinh tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ
năng.
- Phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh ; chú trọng mối
quan hệ giữa học sinh với sách giáo khoa, phải buộc HS chủ động tự đọc, tự làm
việc độc lập theo SGK, theo hướng dẫn của GV.

.

*Về khâu thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp dòi hỏi
giáo viên không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây
dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh
từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời
hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy
nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

9



Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp,
chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ
thuộc “nội bộ phân môn »

.

*Đối với giờ dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp đòi hỏi phải biến
giờ “giảng văn” thành giờ dạy kĩ năng đọc hiểu cho học sinh, hướng tới làm cho
các em có năng lực đọc hiểu bất kì văn bản nào.

.

Khái niệm đọc hiểu là một trong những khái niệm cơ bản làm cơ sở cho việc
dạy học tác phẩm văn chương ở bậc THPT theo quan điểm tích hợp, là một trong
những năng lực tối thiểu cần hình thành và phát triển cho học sinh. Khái niệm đọc
hiểu nói lên hoạt động của học sinh phải được thay thế cho khái niệm giảng văn chỉ
nói lên hoạt động của người thầy theo quan điểm “lấy người dạy làm trung tâm”. Dĩ
nhiên ở đây không hề triệt tiêu yếu tố “giảng” của người thầy, một yếu tố vốn có vai
trò kích thích hứng thú đọc hiểu cho học sinh, nếu được sử dụng thích đáng, mà là để
nhấn mạnh hoạt động đọc hiểu của trò, được coi là hoạt động trung tâm của quá
trình dạy học tác phẩm văn chương. Hoạt động đọc hiểu trong nhà trường phải được
thiết kế và thực hiện theo một trình tự qua các giai đoạn và ở những mức độ khác
nhau: từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ đọc tích luỹ đến đọc hiểu,
từ đọc đánh giá đến đọc sáng tạo…

...


*Dạy đọc hiểu Ngữ văn theo quan điểm tích hợp đòi hỏi giáo viên phải
thay đổi cách dạy học. Giáo viên phải có ý thức đầy đủ về trình độ tiếng Việt, đặc
thù và hoạt động cảm thụ văn học của học sinh để có phương pháp phát triển, nâng
cao lên cho ngang tầm với việc đọc hiểu văn bản. Tất nhiên, có nhiều cách đọc đối
với một văn bản, nhưng trong nhà trường THPT phải tập trung chú ý trước hết mức
độ phổ thông, không đi sâu vào những khía cạnh triết học, tâm lí phức tạp. Học sinh
phải biết vai trò biểu đạt của từ ngữ, câu, đoạn, mạch lạc, hình ảnh, biểu tượng,
những cách biểu đạt đa dạng như hàm ẩn, nghịch lí, ngữ cảnh hẹp và rộng; từ đó học
sinh nắm được cái chìa khoá nằm trong hệ thống biểu đạt của văn bản để tự mình
đọc được và tự học. Muốn vậy, giáo viên phải biết lựa chọn và sử dụng phương
pháp dạy học nhằm kết hợp hữu cơ hoạt động đọc hiểu văn bản với tri thức và kĩ
năng

tiếng

Việt.

Dạy đọc hiểu văn bản văn học cần chú trọng hình thành cho học sinh cách
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

10


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

đọc có phương pháp, phát huy năng lực cảm thụ thẩm mĩ trực tiếp, khêu gợi tưởng
tượng tái hiện và tưởng tượng sáng tạo, liên tưởng hình tượng và liên tưởng ý niệm,
bồi dưỡng năng lực cảm thụ tinh tế, nhanh nhạy, phát triển năng lực tư duy, cắt
nghĩa, khái quát, tránh suy diễn máy móc tuỳ tiện, xuyên tạc dung tục, mô phỏng

sáo mòn hời hợt, thiếu màu sắc chủ quan, cá tính sáng tạo.

.

Giờ dạy đọc hiểu văn bản văn học cần tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt
và làm văn; phải làm cho học sinh thực sự cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế,
độc đáo của tiếng mẹ đẻ, bồi dưỡng cho các em năng lực sử dụng tiếng Việt đúng
và hay; chú trọng rèn luyện cho học sinh cách diễn đạt giản dị, trong sáng, chính
xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập, bộc lộ thái độ riêng trước những vấn đề
về văn học và đời sống, tránh lối nói, viết sáo rỗng, sao chép.



*Thiết kế giáo án giờ học văn bản văn học theo quan điểm tích hợp
Giáo viên phải ý thức được giáo án dạy học văn bản văn học không phải là một
bản đề cương kiến thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học
sinh, mà là một bản thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho học sinh thực
hiện trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo
mục đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn.

.

Đó là bản thiết kế gồm hai phần hợp thành hữu cơ: Một là, hệ thống các tình
huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của văn bản, phù hợp với tính
chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hai là, một hệ thống các hoạt động, thao tác
tương ứng với các tình huống trên do giáo viên sắp xếp, tổ chức hợp lí nhằm hướng
dẫn học sinh từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh văn bản một cách tích cực và sáng
tạo.
Thiết kế giáo án giờ học văn bản văn học phải bám chặt vào những giá trị tư tưởng
và nghệ thuật vốn có và ổn định của tác phẩm trong đời sống văn hoá - lịch sử đầy

biến động của nó, đồng thời phải mở ra hướng thu nạp các nhu cầu, thị hiếu, cá tính
và khả năng diễn dịch của cá nhân học sinh.

.

Thiết kế giáo án giờ học văn bản văn học ở THPT phải bảo đảm nội dung và
cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra
những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học
sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học.
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

.
11


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

Nội dung dạy học của thiết kế giáo án giờ học văn bản văn học phải làm rõ
những tri thức và kĩ năng cần hình thành, tích luỹ cho học sinh qua phân tích,
chiếm lĩnh bài văn; mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri thức lí
thuyết và lịch sử văn học với Tiếng Việt, Làm văn, với hiểu biết văn hoá và đời
sống,

v.v...

Giáo án giờ học văn theo quan điểm tích hợp phải chú trọng thiết kế các tình
huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức hợp để học sinh vận dụng phối
hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các tình huống đặt ra, qua
đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng riêng rẽ của từng phân
môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng lực tích hợp


.

Nội dung tích hợp của thiết kế giáo án cần tập trung vào những điểm quy tụ,
liên kết nội dung ba bộ phận Văn - Tiếng Việt - Làm văn trong văn bản để xây
dựng các tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương ứng nhằm giúp học
sinh tích hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có thể là những từ
ngữ, câu thơ, đoạn văn, những chi tiết, hình tượng, các sự kiện, quan hệ, tình huống
mà muốn cảm hiểu, cắt nghĩa, đánh giá đòi hỏi phải vận dụng tri thức liên văn bản,
phải tổng hợp hiểu biết nhiều mặt về lịch sử, xã hội, tâm lí, văn hoá, văn học, ngôn
ngữ...
*Tổ chức giờ học văn trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hữu
cơ hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học,
trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ không
phải truyền thụ áp đặt một chiều. Học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình
tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến hành hoạt
động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh bài văn, chuyển tác phẩm của nhà văn vào trong tư
duy, cảm xúc của mình, biến tác phẩm thành thế giới tinh thần, tình cảm của riêng mình
để tự nhận thức, tự giáo dục và phát triển theo mục đích, định hướng giáo dục của giáo
viên.
Tổ chức hoạt động đọc hiểu văn bản trên lớp, giáo viên phải chú trọng mối
quan hệ giữa học sinh và văn bản (nội dung dạy học), phải coi đây là mối quan hệ
cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo viên phải từ bỏ vai
trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho học sinh, còn học
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

12


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm


sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc, rồi “làm văn”
theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy trên văn bản, khả năng
tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo
.
Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng
hoạt động của học sinh trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy
học tích hợp đòi hỏi giáo viên phải có cách dạy chú trọng phát triển ở học sinh
cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho học sinh cách thức hành
động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy buộc
học sinh phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời, coi đó
cũng là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình học tập ở nhà trường

.

Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi
nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ
giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm
lực cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình
học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn
vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý đã
đành, mà còn cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm
chủ nghĩa, ít có khả năng sử dụng vào đọc hiểu văn bản, vào những tình huống có ý
nghĩa đối với học sinh, coi nhẹ kiến thức, nhất là kiến thức phương pháp.
II/Cách tiến hành cụ thể đối với tiết 34,35 :
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ
XIX
1/Công Tác chuẩn bị :
Đây là một bài học có dung lượng khá lớn so với thời lượng hai tiết.Vì vậy, để
khai thác hết nội dung của bài học thì nhất thiết phải làm tốt công tác chuẩn bị cả ở

hai đối tượng tham trong giờ học đó là học sinh và giáo viên.Kết thúc tiết Ôn tập
văn học dân gian, giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà chuẩn bị nội dung
cụ thể như sau :

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

13


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

-Mượn sách giáo khoa Ngữ văn 9 và xem lại bài khái quát văn học trung đại
Việt Nam, đối chiếu với kiến thức lịch sử để lý giải một số nội dung trong bài học.
-Nhóm 1 : 3 bàn đầu tổ 1, đọc sách và tóm tắt những nét chính về hoàn cảnh
lịch sử, các bộ phận văn học, nội dung và nghệ thuật trong văn học Việt Nam thế
kỷ X đến hêt thế kỷ XIV.
-Nhóm 2 : 3 bàn cuối tổ 1, đọc sách và tóm tắt những nét chính về hoàn cảnh
lịch sử, các bộ phận văn học, nội dung và nghệ thuật trong văn học Việt Nam thế
kỷ XV đến hết thế kỷ XVII.
-Nhóm 3 : 3 bàn đầu tổ 2, , đọc sách và tóm tắt những nét chính về hoàn cảnh
lịch sử, các bộ phận văn học, nội dung và nghệ thuật trong văn học Việt Nam thế
kỷ XVII đến nửa thế kỷ XIX.
-Nhóm 4 : 3 bàn cuối tổ 2, đọc sách và tóm tắt những nét chính về hoàn cảnh
lịch sử, các bộ phận văn học, nội dung và nghệ thuật trong văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XIX.
-Nhóm 5 : 3 bàn đầu tổ 3 , đọc sách và tóm tắt những đặc điểm lớn về nội
dung của văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
-Nhóm 6 : 3 bàn cuối tổ 3, đọc sách và tóm tắt những đặc điểm chính về nghệ
thuật của văn học Việt Nam từ thế X đến hết thế kỷ XIX.
( các nhóm trình bày trên giấy Ao do giáo viên cung cấp)

2 /Cách tiến hành trên lớp :
*Ở phần I : Các thành phần của văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX
Giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp ngay bằng hệ thống câu hỏi và yêu
cầu cụ thể như sau :
-Em hãy nhớ và nhắc lại trong chương trình Ngữ văn THCS đã giới thiệu VHTĐ
Việt Nam có các bộ phận văn học nào ? Và em hiểu thế nào là văn học Chữ Hán ?
-Nhớ và nhắc lại tên một số tác phẩm tiêu biểu thuộc một số thể loại tiêu biểu trong
chương trình Ngữ văn THCS ở giai đoạn này ( trên cơ sở đã chuẩn bị ở nhà, học
sinh sẽ trả lời cá nhân ; lớp nhận xét, bổ sung cuối cùng là giáo viên chốt lại và
chuẩn kiến thức lên bảng phụ).
Về văn học chữ Nôm, cũng thực hiện tương tự song về phía giáo viên thì có thể
tích hợp bằng cách giảng thêm cho học sinh Truyền thuyết Nguyễn Thuyên( Hàn
Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

14


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

Thuyên làm văn tế bằng chữ Nôm để đuổi cá sấu ở sông Hồng vào thế kỷ XIII. Đó
là văn bản chữ Nôm đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam).
*Ở phần II : Giáo viên tổ chức lần lượt cho các nhóm lên trình bày nội dung đã
chuẩn bị trên giây Ao.
Ở mục ( c) của giai đoạn 1, yêu cầu học sinh tích hợp với kiến thức ngữ văn lớp 9
để giới thiệu về một số tác phẩm văn học chữ Hán tiêu biểu và trình bày khái quát
về chủ đề, âm hưởng, cảm hứng chủ đạo của các tác phẩm ấy.Về phía giáo viên, ở
mục này có thể tích hợp ở chỗ mở rộng thêm về hào khí Đông A và định hướng cho
các em sẽ học kỹ ở chương trình đầu kỳ II.
Ở mục ( d) giai đoạn 1,cho học sinh liên tưởng kiến thức của bộ môn giáo dục
công dân 10 để làm rõ ý nghĩa của quan niệm « Văn –sử- triết bất phân ».Mặt khác,

giáo viên cũng tích hợp kiến thức phân môn tiếng Việt để làm rõ nghĩa của các từ
ngữ, yếu tố Hán Việt có trong đơn vị bài học.
Ở mục ( b) của giai đoạn 3, tích hợp với kiến thức Ngữ văn ở các lớp 7,8,9 bậc
THCS để làm rõ nội dung.
Ở mục (a) của giai đoạn 4, yêu cầu học sinh tích hợp với kiến thức của bộ môn lịch
sử để giới thiệu và phân tích những ảnh hưởng của đặc điểm lịch sử đến nội dung
văn học giai đoạn này.
*Ở phần III : Chủ yếu tích hợp kiến thức lịch sử, kiến thức văn hóa để làm rõ chủ
đề và cảm hứng chủ đạo của các nhà văn, nhà thơ thể hiện sâu sắc trong các tác
phẩm của mình.
*Ở phầm IV : Tích hợp với kiến thức của phân môn làm văn, tiếng Việt để nắm bắt
được nét nghệ thuật tiêu biểu về khuynh hướng sáng tác, ngôn ngữ, thể loại văn
học…
Như vậy, trong quá trình tổ chức cho học sinh khai thác nội dung của bài
Khái quát văn học Trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, giáo viên
đã vận dụng và hướng dẫn học sinh áp dụng phương pháp tích hợp một cách linh
hoạt, đa dạng ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh và nhiều phạm vi : phạm vi hẹp« nội bộ môn học », phạm vi rộng – tích hợp « liên môn ».
III/Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm :

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

15


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

1/Sáng kiến đã áp dụng với học sinh lớp 10/1 và lớp 10/2 của trường PTDTNT
Nước Oa huyện Bắc Trà My Quảng Nam
2/Kết quả cụ thể :
-Đa số học sinh của lớp được áp dụng đều có thái độ hứng thú, tích cực hơn trong

công tác chuẩn bị bài mới cũng như sự tích cực tham gia vào tiết học.
-Phần lớn các em hiểu và nắm được nội dung cơ bản của bài học.
-Áp dụng phương pháp dạy học tích hợp ở bài Khái quát văn học Việt Nam thế kỷ
X đến hết thế kỷ XIX này đã tạo tiền đề, làm cơ sở, làm nền móng trong quá trình
tìm hiểu một số văn bản văn học trung đại cụ thể có hiệu quả rất khả quan (Phú
sông Bạch Đằng, Đại cáo bình Ngô, Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh
hùng…).
*Dưới đây là kết quả tổng hợp từ phiếu kiểm tra, thăm dò bằng hình thức trắc
nghiệm
Lớp

Học sinh hứng thú

Học sinh hiểu bài

10/1

30/35 - 85,7%

27/35 –

77,14 %

10/2

32/33 – 82,4%

31/33 –

91,2 %


*Kết quả kiểm tra đánh giá sau các bài học : Phú sông Bạch Đằng, Đại cáo bình
Ngô, ba đoạn trich trong tác phẩm Truyện Kiều ( thống kê bốn bài kiểm tra)
Lớp

Điểm trung bình
Giỏi

Khá

TB

Yếu

10/1

1/35

6/35

19/35

9/35

10/2
Tổng cộng

3/33

14/33


12/33

4/33

4/68 - 5,9%

20/68 - 29,4%

31/68 – 55,6%

13/68 - 19,1%

*Kết quả chất lượng bộ môn cuối năm học (có so sánh với học kỳ I) :
Lớp

Học kỳ

35HS

Giỏi

Khá

TB

Yếu- kém

HKI


5- 14,3%

11 – 31,4%

19 -54,3%

35HS

HKII

7- 20 %

22- 62,9%

6- 17,1%

10.1

Tăng(+),giảm(-)

+2- 5,7%

+11- 31,4

-13- 37,1%

34 HS

HKI


1 – 2,9%

11 -32,4%

10 -29%

12 -35,3%

33 HS

HKII

1-3,0%

15- 45,5%

16-48,5%

1- 3,0%

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

16


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

10.2

Tăng(+),giảm(-)


+0,1%

+4- 12,1

+6- 18,2%

-11- 33,3%

69

HKI

1- 1,4%

16- 23,2%

21- 30,4%

31-44,9%

68

HKII

1-1,5%

22- 32,4%

38- 55,9%


7-10.3%

TC

Tăng(+),giảm(-)

+0.1%

+6- 8,8%

+17- 25,%

-24-35,3%

H/KẾT LUẬN CHUNG :
1/ Ý nghĩa và nhận định chung :
Với những nội dung nghiên cứu trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản
thân, cho thấy quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt
trong toàn bộ môn học: từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi
khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích
hợp trong chương trình, tích hợp trong sách giáo khoa, tích hợp trong phương pháp
dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh; tích hợp
trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” đòi
hỏi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong mọi mặt, trên
lớp và ngoài giờ; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học của học sinh, phát huy tinh
thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho học sinh thì các em mới tự tin và tự học, mới
xem việc tự học là có ý nghĩa và như vậy hoạt động dạy – học văn mới có kết
quả. Qua kết quả thống kê cụ thể đã trình bày ở trên, bản thân tôi nhận thấy đề tài
có tính khả thi và có khả năng triển khai rộng rãi với nhiều đối tượng và nhiều khối

lớp trong bậc THPT.
2/Những bài học sinh nghiệm :
Với nội dung nghiên cứu và đưa vào áp dụng cụ thể sáng kiến kinh nghiệm
trên, bản thân rút ra được những bài học kinh nghiệm cụ thể như sau :
-Về phía học sinh :
+Học sinh sẽ dành thời gian đọc, tiếp cận văn bản nhiều hơn. Buộc các em
phải tìm tòi, suy nghĩ để chuẩn bị bài có hiệu quả.
+Tạo cho học sinh tính nhạy bén, năng động, sáng tạo và hứng thú với giờ
học văn.
+Mặt khác, hạn chế tối đa thời gian « chết » đối với học sinh, không để cho
các em có cơ hội tham gia vào các hoạt động vô bổ ngoài giờ học.
-Về phía giáo viên :

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

17


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

+Thúc đẩy giáo viên đầu tư nhiều hơn trong công tác chuẩn bị, thiết kế giáo
án cho phù hợp với tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng « lấy học
sinh làm trung tâm ».
+ Đầu tư nghiên cứu kiến thức kiên môn có liên quan để cùng hợp tác với
học sinh giúp các em chiếm lĩnh nội dung bài học. Đặc biệt chú trọng đến kiến
thức của phân môn tiếng Việt và làm văn.
+Làm tốt công tác đầu tư cho tiết dạy sẽ giúp giáo viên chủ động, linh hoạt
trong khâu tổ chức, hướng dẫn học sinh tự khai thác và chiễm lính kiến thưc ; mặt
khác sẽ tránh được sự lúng túng bị động khi học sinh chất vấn về những thông tin
liên quan.

+Áp dụng có hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp thì khi lên lớp giáo
viên sẽ đỡ vất vả vì không phải làm việc nhiều.
Trên đây là kết quả nghiên cứu và thực nghiệm bước đầu của đề tài sáng kiến
kinh nghiệm « Áp dụng có hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp giúp học sinh
học tốt bài Khái quát văn học trung đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX góp phần
nâng cao chất lượng giờ học văn ở lóp 10 trường PTDTNT Nước Oa huyện Bắc
Trà My Quảng Nam ». Rất mong nhận được ý kiến nhận xét, đánh giá và đóng góp
của Hội đồng khoa học nhà trường cũng như các đồng nghiệp để đề tài từng bước
hoàn chỉnh và áp dụng có hiệu quả hơn nữa. Xin chân thành cảm ơn.

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

18


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

TT
1

Tên tài liệu
Phương pháp dạy học văn

2

Tài liệu tập huấn Đổi mới Bộ Giáo dục và Đào tạo (lưu hành nội bộ)
chương trình, sách giáo khoa
THPT


3

Sách bồi dưỡng sinh viên sư
phạm và giáo viên môn Ngữ
văn
Từ điển Tiếng Việt

4
5

Tác giả- nhà xuất bản
NXB Đại học sư phạm- Phan Trọng Luận
chủ biên

Vụ giáo dục Trung học -2006 (lưu hành nội
bộ)
Lương Kim Nga
Hoàng Văn Hành(chủ biên), Nguyễn Vũ
NXB từ điển bách khoa 2003
Sách giáo khoa, sách giáo viên NXB Giáo dục Việt Nam
lớp 7,8,9, 10

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

19


Đề tài sáng kiến kinh nghiệm


TT
1
2

3
4
5

6
7

MỤC LỤC
Nội dung
A/Tên đề tài
B/Đặt vấn đề
I/Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu
II/Thực trạng liên quan đến vấn đề
nghiên cứu
III/Lý do chọn đề tài
IV/Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
C/ Cơ sở lý luận
D/Cơ sở thực tiễn
E/Nội dung nghiên cứu và cách thức tiến
hành
I/Nội dung nghiên cứu
II/Cách tiến hành thực hiện
III/Kết quả của sáng kiến
H/Kết luận
1/Ý nghĩa và nhận định chung
2/Bài học kinh nghiệm

Phiếu đánh giá sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Hồ Thị Thu Nguyên

Trang
01
02
02
04
05
05
05
06
14
16
17
18
23

20



×