Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Khai thác văn hóa dân tộc Cơtu để phục vụ du lịch ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.36 KB, 60 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của trường Đại học Duy Tân và khoa khoa học xã hội và
nhân văn, trong thời gian hơn hai tháng tôi đã nổ lực để hoàn thành đề tài khóa
luận: “Khai thác văn hóa dân tộc Cơtu để phát triển du lịch ở huyện Hòa Vang –
thành phố Đà Nẵng”.
Để đạt được kết quả này, trước hết tôi xin gởi lời cảm ơn đến Ba Mẹ là người
đã sinh ra, nuôi dưỡng và luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi học tập. Tiếp theo
tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến nhà trường nơi tôi được học tập, được rèn luyện.
Và một lời cảm ơn chân thành đến khoa khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt tôi
muốn gởi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn đến Thầy Nguyễn Thanh Sinh,
người đã tận tình, tận tâm trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Nhân
đây tôi cũng xin cảm ơn Sở Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch Đà Nẵng đã tạo điều
kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và cung cấp tài liệu cho khóa luận tốt
nghiệp.
Dù đã có rất nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng
góp quý báu của Hội đồng và các thầy cô giáo.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn.
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hoài My

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 1



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
Thầy Nguyễn Thanh Sinh. Tất cả tài liệu mà tôi dùng để tham khảo đều được tôi liệt
kê đầy đủ ở mục tài liệu tham khảo.

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hoài My

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 2


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

A – LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với sự có mặt của
54 dân tộc anh em phân bố từ Bắc đến Nam. Mỗi dân tộc đều mang những bản sắc
riêng, độc đáo và hấp dẫn. Điều này đã tạo nên cho nước ta một nền văn hóa hết sức
phong phú và đa dạng. Đặc biệt hơn nữa chính sự đa dạng và phong phú này đã
đem lại cho Việt Nam phát triển ngành Du lịch – ngành công nghiệp không khói
đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Đà Nẵng là một vùng đất không chỉ có bề dày lịch sử, văn hóa mà còn có
nhiều tài nguyên về tự nhiên và tài nguyên nhân văn để phát triển du lịch. Nói đến
Đà Nẵng người ta sẽ nghĩ đến một thành phố trẻ, sôi động với nền kinh tế đang trên
đà phát triển và những bãi biển xinh đẹp. Và sẽ ít ai biết đến một dân tộc thiểu số
Cơtu đang sinh sống tại đây. Tuy chỉ tập trung trên mấy làng nhỏ ở huyện Hòa
Vang – thành phố Đà Nẵng nhưng sự có mặt của tộc người Cơtu trên địa bàn huyện
đã góp phần tô điểm cho bức tranh văn hóa của thành phố Đà Nẵng.
Hiện nay, ở huyện Hòa Vang - Đà Nẵng đang phát triển một cách tự phát
loại hình du lịch cuối tuần của người dân trung tâm thành phố và cũng có nhiều dự
án đầu tư, quy hoạch thành một điểm du lịch của Đà Nẵng. Do đó, những giá trị văn
hóa của dân tộc Cơtu tại đây sẽ góp một phần không nhỏ trong việc phát triển loại
hình du lịch sinh thái – văn hóa độc đáo, hấp dẫn thu hút được nhiều khác du lịch
không chỉ trong thành phố và các vùng lân cận mà còn cả khách du lịch trong cả
nước, thậm chí du khách quốc tế khi đến Đà Nẵng nếu được khai thác tốt. Nhưng
trong xu thế hội nhập ngày nay thì dường như những nét văn hóa truyền thống của
dân tộc Cơtu đang dần bị mai một. Chính vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa dân tộc
Cơtu trên địa bàn huyện một cách toàn diện và sâu sắc nhằm định hướng cho việc
bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa về lâu dài và để khai thác các giá trị
đó để phục vụ du lịch – ngành kinh tế đang ngày càng đem lại nguồn thu to lớn cho
địa phương là một việc làm hết sức bức thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Khai thác
văn hóa dân tộc Cơtu để phục vụ du lịch ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ”
làm đề tài nghiên cứu với hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc khai thác, nghiên
SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 3


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh


cứu các giá trị văn hóa ở đây góp thêm một chút tư liệu trong nghiên cứu lịch sử,
văn hóa thành phố Đà Nẵng để nói riêng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng:
Những giá trị văn hóa của dân tộc Cơtu ở huyện Hòa Vang có thể khai thác
để phát triển du lịch.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tộc người Cơtu đang sinh sống tại Hòa Vang – Đà Nẵng
3. Mục tiêu và nhiệm vụ:
* Mục tiêu:
Tìm hiểu một cách sâu sắc, tỉ mỉ về những giá trị văn hóa đặc trưng có thể
phục vụ cho hoạt động du lịch của dân tộc Cơtu ở huyện Hòa Vang đặt trong bức
tranh văn hóa chung của dân tộc.
* Nhiệm vụ:
Tìm hiểu văn hóa tộc người Cơtu ở huyện Hòa Vang có thể tìm hiểu về các
luồng di cư, di dân, các tộc người ở đây trong lịch sử, nắm được các thành phần tộc
người, đặc biệt là tìm hiểu được một cách sâu sắc những nét văn hóa của tộc người
này, góp phần làm sáng tỏ vấn đề lịch sử, văn hóa của thành phố Đà Nẵng.
Bên cạnh đó, góp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu dân tộc, văn hóa huyện
Hòa Vang, vận dụng chính sách phát triển vùng sâu, vùng xa, nhất là những vùng
dân tộc thiểu số một cách hợp lý, và đặc biệt sẽ là nguồn tư liệu để các nhà đầu tư,
kinh doanh du lịch khai thác những giá trị văn hóa đó xây dựng nên một điểm du
lịch sinh thái – văn hóa hấp dẫn cho thành phố Đà Nẵng.
4. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới, việc nghiên cứu văn hóa các tộc người được tiến hành khá
sớm, gắn với sự ra đời và phát triển của bộ môn Dân tộc học.
Ở Việt Nam, bộ môn Dân tộc học ra đời tương đối muộn so với thế giới
nhưng đến nay cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khá công phu, tỉ mỉ về văn
hóa các dân tộc nói chung hay các dân tộc cụ thể nói riêng như: “Văn hóa các dân

tộc Việt Nam” của Trần Ngọc Bình – NXB Thanh Niên 2008; giới thiệu một cách
tổng quát về đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Cơtu cũng như một số

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 4


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

dân tộc khác. “Truyện kể về phong tục, truyền thống văn hóa của các dân tộc Việt
Nam”. Tập 1 - Nguyễn Trọng Báu – NXBGD. Sách miêu tả và kể lại phong tục, tập
quán của 54 dân tộc anh em, trong đó có giới thiệu về nguồn gốc cũng như một số
tục của dân tộc Cơtu như: tục săn máu, tục cướp vợ,…“Luật tục của người Tà Ôi,
Cơtu, Bru-Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế’ - Nguyễn Văn Mạnh – NXB
Thuận Hoá. Trình bày về các luật tục trong ăn uống, làm nhà, hôn nhân, trang phục,
…của người Tà Ôi, Cơtu, Bru-Vân Kiều.
Nhìn chung, các dân tộc được giới thiệu trong các cuốn sách này đã trình bày
khá chi tiết, cụ thể về các mặt của đời sống xã hội.Tuy nhiên, với việc nghiên cứu
các giá trị văn hóa của các dân tộc này để phục vụ cho việc phát triển du lịch thì
dường như là chưa có một công trình nào.
Đối với huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng, dân tộc Cơtu có lịch sử văn
hoá lâu đời. Trong quá trình hình thành và phát triển, tộc người Cơtu ở đay đã tạo
cho mình vốn văn hoá truyền thống đặc sắc vừa có nét tương đồng, vừ có những
điểm riêng biệt được thể hiện trong đời sống vật chất và tinh thần hết sức dộc
đáo.Do dân số ở đây ít. địa bàn cư trú lại ở phía Tây Đà Nẵng – vùng núi cao hiểm
trỏ, trước đây giao thong đi lại khó khăn.Vì vậy, cũng chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách thật sâu sắc, kỹ lưỡng về loại hình văn hoá truyền thống của

họ cũng như các loại hình văn hoá để phát triển du lịch.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Nghiên cứu đề tài này, tôi đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan điểm của Đảng về nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng.
* Phương pháp cụ thể:
- Thu thập tài liệu, so sánh, tổng hợp và đánh giá theo nghiên cứu của đề tài.
- Vận dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic trong việc trình bày vấn
đề.
Ngoài ra, tôi còn coi trọng công tác điền dã.
6. Kết cấu của bài báo cáo
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về huyện Hòa Vang và dân tộc Cơtu trên địa bàn huyện.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 5


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Chương 2: Các giá văn hóa dân tộc Cơtu có thể khai thác để phát triển du lịch.
Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp, định hướng khai thác các giá trị văn hóa
dân tộc Cơtu để phát triển du lịch

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 6



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HUYỆN HÒA VANG VÀ DÂN TỘC CƠTU
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
1.1. Tổng quan về huyện Hòa Vang:
Hòa vang là huyện ngoại thành duy nhất của Thành phố Đà Nẵng, với cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Sau khi thực hiện nghị định 102/2005/NĐ-CP ngày
05 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về việc chia tách địa giới hành chính một số xã
của huyện để thành lập mới quận Cẩm Lệ, địa giới hành chính huyện còn lại 11 xã
với tổng diện tích tự nhiên 73.691 ha.
1.1.1. Đặc điểm địa lý, tự nhiên
* Về vị trí địa lý:
Kinh độ: 15°56' Bắc đến 16°13' Bắc. Vĩ độ: 107°49' Đông đến 108°13'
Đông. Phía đông giáp quận Ngũ Hành Sơn, quận Liên Chiểu, quận Hải Châu thành
phố Đà Nẵng, phía tây giáp huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp
huyện Đại lộc, Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, phía bắc giáp huyện Nam Đông, Phú
Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Địa giới hành chính gồm 11 xã gồm 03 xã đồng bằng (Xã Hòa Châu, Hòa
Tiến, Hòa Phước), 04 xã Trung du (Xã Hòa Nhơn, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa
Sơn) và 04 xã miền núi (Xã Hòa Liên, Hòa Ninh, Hòa Phú, Hòa Bắc).
Vị trí địa lý thuận lợi giúp cho Hòa Vang có thể khai thác tốt hơn nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội.
* Về địa hình:
Địa hình Hòa Vang rất đa dạng, bao gồm 3 loại địa hình là miền núi, trung

du và đồng bằng.
Vùng đồi núi: phân bố ở phía Tây, có diện tích khoảng 56.476,7 ha, bằng
78,84% tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Là nơi tập trung nhiều rừng đầu
nguồn có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố Đà Nẵng. Địa hình đất
đai của vùng này thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, nông nghiệp và du lịch.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 7


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Vùng trung du: chủ yếu là đồi núi thấp có độ cao trung bình từ 50m đến
100m, xen kẽ là những cánh đồng hẹp với diện tích 11.170 ha, chiếm 15,74% diện
tích toàn huyện. Địa hình và đất đai ở đây phù hợp cho việc trồng cây can, có nhu
cầu nước ít, chịu được hạn.
Vùng đồng bằng: tập trung ở phía Đông với diện tích là 3.087 ha, chiếm
4,37% diện tích tự nhiên. Đây là vùng nằm ở độ cao 2 – 10m, hẹp nhưng tương đối
bằng phẳng. Đất phù sa ven sông và đất cát là hai loại đất đặc trưng của vùng, thích
hợp cho việc rồng rau, lúa, hoa màu. Tuy nhiên, có yếu tố không thuận lợi là do địa
hình thấp, khu vực này thường bị ngập lụt trong những ngày mưa lũ lớn.
Địa hình đa dạng của Hòa Vang cùng với kết cấu đất vững chắc thuận lợi
cho bố trí các công trình hạ tầng kỹ thuật, tạo cho huyện tiềm năng phát triển một
nền kinh tế với thế mạnh nông nghiệp và du lịch nhưng đồng thời cũng có nhiều
khó khăn, thác thức như hạn hán, lũ lụt,…cần giải quyết.
* Về khí hậu, thủy văn:
Hòa Vang nằm trong vùng khí hậu giao thoa giữa Bắc Hải Vân với Nam Hải

Vân, giữa Đông Trường Sơn với Tây Trường Sơn, tạo nên nền khí hậu nhiệt đới gió
mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa
kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có
những đợt rét mùa đông không đậm và không kéo dài.
Nhiệt độ trung bình hằng năm lầ 25,8 0C, cao nhất vào các tháng 6, 7, 8 với
nhiệt độ trung bình 28 – 30 0C, thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2; trung bình khoảng
18 – 230C. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500m nên có nhiệt độ trung
bình khoảng 200C.
Độ ẩm trung bình hằng năm là 1164 mm, mưa lớn tập trung vào hai tháng 10
và 11. Các hướng gió thịnh hành là gió mùa đông bắc từ tháng 11 đến tháng 2; gió
mùa đông nam và tây nam vào tháng 5 và tháng 7. Huyện thường xuyên chịu ảnh
hưởng của bão, trung bình hằng năm có một đến 2 cơn bão đi qua.
Số giờ nắng bình quân hàng năm 2.067,9 giờ; nhiều nhất là vào tháng 5, 6
trung bình từ 233 đến 262 giờ/tháng; ít nhất là vào tháng 12 và tháng 1, trung bình
58 đến 122 giờ/tháng.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 8


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Hòa Vang có khá nhiều song với 3 sông chính là sông Cu Đê, sông Cẩm Lệ,
sông Vĩnh Điện, một số sông nhỏ như sông Yên, sông Bầu Sấu và nhiều ao hồ khác.
Nhìn chung chất lượng các sông đều đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, trừ
sông Cẩm Lệ và sông Cu Đê bị nhiễm mặn thủy triều vào thời gian mùa khô từ
tháng 5 đến tháng 6.

* Về tài nguyên đất:
Theo số liệu thống kê năm 2008, tổng diện tích đất tự nhiên của Hòa Vang là
73.691 ha. Hai nhóm đất có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp là
nhóm đất phù sa ở khu vực đồng bằng thích hợp với thâm canh lúa, trồng rau, hoa
quả và nhóm đất đỏ vàng ở vùng đồi núi thích hợp với cây công nghiệp dài ngày,
chăn nuôi gia súc.
* Về tài nguyên rừng:
Huyện Hòa Vang có nguồn tài nguyên rừng phong phú, đây là một thế mạnh
của huyện. Diện tích đất nông nghiệp hiện có là 53.406,3 ha, chiếm 88,84%. Trong
đó đất rừng sản xuất là 29884,61 ha (41% diện tích đất tự nhiên ), đất rừng phòng
hộ là 12658,72 ha ( chiếm tỉ trọng 17,9% diện tích tự nhiên ), đất rừng đặc dụng là
10853 ( 15,3% diện tích tự nhiên ). Tỉ lệ che phủ rừng khoảng 70% ( năm 2007).
Tài nguyên rừng của huyện có vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế xã
hội của nhân dân trong huyện. Ngoài vai trò phòng hộ cho huyện và thành phố Đà
Nẵng, rừng còn thế mạnh, có nhiều tiềm năng trong việc phát triển các ngành mũi
nhọn như khai thác chế biến lâm sản, dịch vụ du lịch.
* Tài nguyên khoáng sản:
Tài nguyên khoáng sản ở Hòa vang chủ yếu là các loại khoáng sản làm vật
liệu xây dựng, bao gồm: đá ốp lát, đá phục vụ xây dựng, đá mỹ nghệ, tập trung chủ
yếu ở các xã trung du và miền núi hư: Hòa Sơn, Quá Giáng. Đất sét với trữ lượng
lớn để sản xuất gạch ngói có hầu hết các xã đồng bằng và trung du. Ngoài ra, đã
phát hiện quặng Volfram ở Hòa Ninh, quặng thiếc ở Đồng Nghệ (Hòa Khương)
nhưng trữ lượng không lớn.
Với các đặc điểm địa lý, tự nhiên trên cho thấy, Hòa Vang có nhiều lợi thế để
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những đặc điểm này cũng đã gây ra nhiều khó

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 9



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

khăn về lũ lụt. do vậy, huyện Hòa Vang cần có những chính sách hợp lý để khai
thác có hiệu quả hơn những lợi thế và đồng thời cũng hạn chế những khó khăn.
1.1.2. Vài nét về lịch sử, văn hóa
Vùng đất Hòa Vang xưa vốn là vùng đất Chiêm Thành, cha ông ta đã theo
bước chân của các vua chúa, đi mở mang bờ cõi, khai phá vùng đất mới. Qua bao
nhiêu thế hệ kế tiếp nhau phải đổ biết bao nhiêu mồ hôi công sức, trên rừng xanh
dưới mảnh đất ruộng vườn, cũng hơn một thế kỷ sau mới hình thành được Làng
xóm, Thôn ấp.
Và cũng từ đây, các xóm làng như Túy Loan (1470), Bồ Bản (1476) Phong
Lệ, Cẩm Toại, Đại La ... được hình thành và gắn liền với địa danh Hòa Vang ngày
ấy. Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì huyện Hoà Vang được ghi danh vào bản
đồ của nước Việt Nam vào năm 1605 - đầu bản triều - tức là đầu nhà Nguyễn.
Qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau, Hòa Vang cũng có chuyển biến theo
nó. Đó là sự chia tách và sáp nhập lại của chính quyền vua chúa để dễ dàng cho việc
cai quản, từ đó lỵ sở của huyện Hòa Vang cũng thay đổi theo như ở đời Gia Long
thứ nhất (1802), đóng tại Ái Nghĩa, đến năm Minh Mệnh thứ V (1824) lại dời
xuống Hoá Khuê Trung Tây. Đến năm Tự Đức thứ hai (1848) lại trở về đóng tại
phía Tây bắc của xã Ái Nghĩa. Năm 1899 lại dời về xã Bình Thuận và huyện Hòa
Vang thuộc phủ Điện Bàn gồm có 7 tổng: Bình Thái, Thanh An, An Phước, Phước
Tường, Hòa An, Tổng Giáo với 158 xã, thôn.
Sau khi kí hiệp ước Geneve, triều đình nhà Nguyễn lại cắt một số đất của
huyện Hòa Vang làm nhượng địa cho thực dân Pháp. Trước sự đàn áp và bóc lột,
quân và dân ta đã đứng lên đoàn kết chống lại quyết liệt. Từ Chi bộ Phổ Lỗ Sỹ, Chi
bộ Phú Lộc ra đời đầu tiên thời kỳ năm 1939-1940 cho đến khi Huyện uỷ lâm thời
được thành lập để lãnh đạo nhân dân kháng chiến. Để thuận lợi cho việc hoạt động

cũng như tránh được sự càn quét của kẻ thù, Huyện uỷ Hoà Vang và cán bộ các
ngành đoàn thể về tạm ở Đồng Nghệ sau lên Đồng Xanh xây dựng khu căn cứ để
bám trụ. Đây là một vùng núi hoang vu, ở phía tây xã Phước Hiệp, trên triền núi
phía nam có xóm Orây của đồng bào dân tộc ít người, có đường tắt qua Đá Nhảy
lên Trung Man, chỉ có một con đường độc đạo đi ra Đồng Nghệ rồi xuống đường 14
do đó đây là căn cứ rất an toàn.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 10


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Trước CMT8 – 1945, Quảng Nam thuộc liên khu V, huyện Hoà Vang bấy
giờ hợp xã nhất từ các xã cũ thành 28 xã mới. Sau năm 1954, chính quyền Sài Gòn
chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh: Quảng Nam và Quảng Tín, các huyện đổi
thành quận, quận Hoà Vang được chia làm 5 khu. Đến giữa 1958, lại tách quận Hoà
Vang ra thành 2 quận: Hoà Vang và Hiếu Đức
Trong giai đoạn 1954-1960 dưới chế độ độc tài Ngô Đình Nhiệm - tay sai
của đế quốc Mỹ, với chính sách “tố cộng” và luật 10/5, Hoà Vang đã bị biến thành
nhà tù rộng lớn, bắt bớ, giam cầm, chém giết hàng vạn cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Chúng biến nhà lao Phú Hòa, Tùng Sơn, Túy Loan ... thành “địa ngục trần
gian”, tra tấn cực kỳ dã man, để bắt cán bộ đảng viên ly khai với Đảng, khai báo cán
bộ, cơ sở cách mạng đang hoạt động.
Để thuận tiện cho việc cai quản khu Trung bộ, ngày 31/7/1962 chính quyền
miền Nam do tổng thống Việt Nam Cộng Hoà ký sắc lệnh số 162-NV chia tỉnh
Quảng Nam thành 2 đơn vị hành chính là Quảng Nam và Quảng Tín. Quảng Tín từ

bờ nam sông Thu Bồn trở vào, tỉnh Quảng Nam từ bờ bắc sông Thu Bồn trở ra. Hoà
Vang thuộc tỉnh Quảng Nam. Ngược lại, chính quyền kháng chiến tỉnh Quảng Nam
quyết định chia tỉnh Quảng Nam thành 2 đơn vị hành chính: tỉnh Quảng Tín từ bờ
bắc sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Đà từ bờ nam sông Thu Bồn trở về. Hoà Vang thuộc
tỉnh Quảng Đà.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, đội quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào
Đà Nẵng, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” tại niềm Nam Việt Nam. Hòa Vang
nhận nhiệm vụ lịch sử, chạm trán đầu tiên với đội quân xâm lược này bằng cuộc
đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị quyết liệt. Từ Hải Vân đến Ngũ Hành Sơn,
có thể nói nơi nào trên mảnh đất Hòa Vang cũng biến thành chiến trường ngút ngàn
khói đạn bom, nơi nào cũng gánh chịu nhiều đau thương tang tóc, nhưng nơi nào
cũng in dấu chiến công oanh liệt của quân và dân ta đánh Mỹ thắng Mỹ. Địch muốn
biến Hòa Vang thành vành đai trắng để bảo vệ căn cứ chiến lược liên hợp hải-lụckhông quân tại Đà Nẵng, để tiêu diệt lực lượng cách mạng, giành thế tiến công chủ
động trên toàn chiến trường. Do đó chiến dịch trực thăng vận, chiến xa vận, càn
trắng, bình định cấp tốc...địch đều thực hiện hết sức quyết liệt tại đây. Chỉ trong
vòng 3 năm, từ 1966-1968 gần như toàn bộ xóm làng trên toàn huyện đều bị địch

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 11


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

đánh phá hoang tàn, kể cả núi rừng sấm uất của Hòa Vang cũng bị bom đạn Mỹ
đánh phá trơ trụi. Nhân dân 4 vùng của Hòa Vang đều bị địch bắt vào các trại tập
trung vơi mưu đồ đánh mất chỗ dựa của cách mạng.
Sau 1975, Uỷ ban nhân dân Cách mạng Khu Trung bộ ra Quyết định số

119/QĐ vào ngày 10/4/1975 hợp nhất hai tỉnh Quảng Đà và Quảng Nam thành một
đơn vị hành chính với tên gọi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Với những chiến công
đã dành được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng
như thành quả trong công cuộc xây dựng quê hương, 30 năm qua Đảng bộ và nhân
dân huyện Hoà Vang đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng các danh hiệu
cao quý như sau: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước vào năm 1978, Anh hùng Lực lượng công an nhân dân trong
thời kỳ chống Mỹ. Đây là điểm son sáng chói, ghi nhận những đóng góp của quân
và dân Hòa Vang trong sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước. Hiện nay,
toàn huyện có 636 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 4.806 liệt sỹ, 1.602 thương binh, 970
chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, có 9/14 xã được phong tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó xã Hòa Tiến được 3 lần phong tặng
danh hiệu Anh hùng. Đó là truyền thống vinh quang, niềm tự hào và hành trang để
nhân dân và cán bộ huyện Hòa Vang bước vào thời kỳ đổi mới.
Tại kỳ họp lần thứ 10, quốc hội khoá IX nước ta (từ ngày 13/10/1996 đến
12/11/1996) đã quyết định tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành 2 đơn vị hành
chính là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung Ương. Ngày
23/01/1997, Chính phủ ra Nghị định số 07/CP về việc thành lập các đơn vị hành
chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng gồm 5 quận và 2 huyện. Huyện Hoà Vang
được sáp nhập cùng với thành phố Đà Nẵng và huyện Hoàng Sa trở thành 7 quận
huyện: Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Thanh Khê, huyện Hoà
Vang, huyện Hoàng Sa trở thành thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Hoà
Vang lúc bấy giờ bao gồm 14 xã. Đến ngày 05/8/2005, Chính phủ ban hành Nghị
định số 102/2005/NĐ thành lập quận Cẩm Lệ thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện
Hoà Vang đến thời điểm này bao gồm 11 xã: Hoà Châu, Hoà Tiến, Hoà Phước, Hoà
Phong, Hoà Nhơn, Hoà Khương, Hoà Phú, Hoà Sơn, Hoà Ninh, Hoà Liên, Hoà
Bắc, cơ quan huyện đóng tại xã Hoà Phong.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH


Trang 12


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Có thể nói, Hòa Vang không chỉ là vùng đất có bề dày lịch sử, kiên cường
trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất mà còn là vùng đất có truyền thống
văn hóa lâu đời.
Hòa Vang đã trải qua nhiều nền văn hóa. Thời tiền sử, Hòa Vang có văn hoá
Bàu Dũ, văn hoá Sa Huỳnh, sau đó lại gắn liền với văn hoá Chăm của vương quốc
Chiêm Thành. Và văn hoá Chăm và văn hoá Việt đã có sưn giao lưu, hỗn hợp lẫn
nhau. Trên nền tảng truyền thống, cư dân Hoà Vang đã tiếp biến các tinh hoa văn
hoá Chăm và các nguồn văn hoá ngoại nhập tạo nên sức sống mới cho văn hoá nơi
đây. Làng xã Hoà Vang được thành lập từ sớm với nhiều nét cũng giống làng xã cổ
truyền của cư dân Việt phía Bắc.
Về ở, đầu thế kỉ XX, người Hoà Vang chủ yếu vẫn ở nhà tranh, vật liệu chủ
yếu là tre, 2 khu được tạo thành hai chái và một gian lợp tranh. Nhà thấp, nền cao,
đêm sụp cửa xuống, ngày cống củă lên làm phần hiên nhà. Ngày nay, người dân đã
bỏ cửa phên tre, dung loại cửa khép mở. Thời Pháp thuộc, một số gia đình giàu có
làm được nhà tường lợp ngói âm dương, sang trọng. Đến thời Mỹ xâm lược, vật liệu
lại thay bằng tôn, phên che bằng ván ngo, ván ép. Nay nhà cửa của người dân đã
khang trang đúc bằng bê tông cốt thép kiên cố.
Về đi lại, ngay từ khi vào Nam khai cơ lập nghiệp, các tộc họ ở Hoà Vang đi
bộ là chủ yếu, có khi đi ghe trên song Cổ Cò. Đường làm rất hẹp với một hệ thống
đường nông thôn chi thít. cắt dọc ngang thành nhiều làng xóm. Người ta đi lại chủ
yếu bằng chân đất. Nhà giàu có thể sắm được đôi guốc xà lan Xuân Dương hoặc
gốc tự đẽo bằng tre, bằng gỗ mức hoặc bằng các loại mo. Ngày nay, nhiều loại guốc
khác nhau bằng da bền đẹp, sang trọng. Phương tiện giao thông thì đa dạng, hiện

đại.
Ăn uống của cư dân Hoà Vang khá dân dã, đơn giản. Hằng ngày họ ăn hai
bữa cơm: trưa và tối. Lúc đầu cuộc sống khó khăn nên người ta thường độn các loại
củ như sắn, bắp,…vào nấu chung với gạo. Đến đầu thế kỷ XXI mới chấm dứt.
Ngoài cơm còn có xôi được nấu vào những ngày giỗ kị, việc tộc, việc phổ. Bên
cạnh đó còn có những loại bánh như: bánh tét, bánh tổ bánh gai…
Để ăn với cơm, thực phẩm lấy từ nguồn nguyên liệu tại chỗ như cá, luơn,
ếch,…, lại còn có mít non, thịt rừng rất phong phú, đa dạng. Rau vẫn là thức ăn chủ

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 13


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

yếu trong bữa cơm của họ.Ngày nay, khi cuộc sống đổi thay thì có nhiều thực phẩm
hơn, rất đa dạng và phong phú và nó đã trở thành đặc sản riêng của Hoà Vang như:
Mì quảng Tuý Loan, bánh tráng cuốn thịt heo, nem chả Hoà Vang…
Về uống, nước chè xanh Phú Thượng là chủ lực, hoặc lá gối (vối). Vào ngày
mùng 5 tháng 5 âm lịch hằng năm có lá “mùng 5” là lá tập trung đủ các loại hái về
từ các gò đồi.
Về trang phục, trước kia, cái quần mặc thường ngày của người Hoà Vang
vẫn là các loại đũi, thao mua từ các làng dệt Điện Bàn, Duy Xuyên ra là chủ yếu.
Trứoc, quần may theo kiểu đáy ngang, lưng thắt dây bốn múi. Áo thường là áo bà
ba cỏ kiềng, nhuộm màu nâu hoặc màu đen. Mùa hè thì mặc những chiếc áo vải
phong phanh, mùa đông thì mặc một lúc hai ba cái áo chồng lên nhau không có laọi
nào khác.

Những ngày lễ trọng, người ta lại mặc những chiếc áo dài cổ truyền bằng
chất liệu thao, đũi là chủ yếu. Ngày nay, thì trang phục của người dân Hoà Vang đã
khác, cũng như các vùng khác trong cả nước.
Hoà Vang là huyện có làng nghề thủ công truyền thống được hình thành khá
sớm. Một số làng nghề truyền thống hiện nay vẫn còn như: chiếu lát Cẩm Nê, nón
lá La Bông, bánh khô mè Cẩm Lệ,…
Lễ hội ở Hoà Vang cũng vô cùng phong phú. Các lễ hội đó gắn với lao động,
sản xuất, với sinh hoạt, với tín ngưỡng như lễ hội Mục Đồng làng Phong Lệ, lễ hội
Đâm trâu của người Cơtu, lễ hội tắt bếp làng Thái Lai, làng Trà Kiểm, lễ hội Đình
Làng Tuý Loan,…
Nhân dân Hoà Vang cũng có tín ngưỡng như người Việt trong cả nước, thờ
cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành Hoàng,…Bên cạnh đó, học còn tiếp thu một số tín
ngưỡng của người Chăm như thờ Bà Mẹ xứ sở Bồn Xứ. Nhân dân Hoà Vang theo
bốn tôn giáo chính là Phật giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và đạo Cao Đài. Trong
quá trình đó có sự kết hợp đan xen với văn hoá Chăm, Hoa, Phương Tây tạo nên
tính cách riêng cho Quảng Nam – Đà Nẵng nói chung và Hoà Vang nói riêng. Và
ngày nay, cư dân Hoà Vang đang ra sức xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá,
giáo dục, y tế,... để phát huy truyền thống xây dựng quê hương trong thời kỳ mới,

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 14


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

để đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chung của thành phố Đà Nẵng nói riêng
và cả nước nói chung.

1.1.3. Đặc điểm dân cư
Hòa Vang là vùng đất có nguồn dan cư đông đảo, đa dạng tộc người. Con
người đã cos mặt tại Hòa Vang từ rất sớm. Trãi qua diễn trình lịch sử, Hòa Vang là
địa bàn của nhiều nền văn hóa lớn chồng lên nhau như văn hóa Bàu Dũ, văn hóa sa
Huỳnh, văn hóa Chămpa. Phần lớn dân cư Hòa Vang có nguồn gốc từ bắc Trung
Bộ, mà đông đảo phát nguồn từ Thanh Hóa, Nghệ An. Sau năm 1975, với sự biến
động mạnh mẽ của các luồng dân cư, Hòa Vang có thêm nhiều tộc người như: Hoa,
Thái, Nùng, Raglay. Người Kinh chiếm tới 95% dân số.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2010, Hòa Vang có 155.287 người. Mật
độ : 211 người/km², thấp hơn nhiều so với mật độ dân số toàn thành phố (599
người/km2 ).
Hiện nay, Hòa Vang chủ yếu có 3 dân tộc sinh sống là người Kinh, người
Việt gốc Hoa và người Cơtu. Trong đó, người Kinh chiếm vị trí đông đảo nhất với
trên 90%, người Cơtu sinh sống ở hai xã: Hòa Bắc và Hòa Phú.
Nhân dân Hòa Vang theo 4 tôn giáo chính là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo,
Tin Lành và Đạo Cao Đài. Bên cạnh việc đi theo tôn thì tín ngưỡng thờ cúng ông bà
tổ tiên và một số tín ngưỡng dân gian khác cũng được nhân dân giữ gìn và phát huy.
Non nước xứ Quảng đã hun đúc khí thiêng, sinh ra không ít anh hung trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Người Quảng Nam nói chung và người Hòa
Vang nói riêng đã lập nên nhiều chiến tích hào hùng. Nhân dân Hòa Vang có truyền
thống trong đấu tranh và vượt khó vươn lên. Tinh thần chống ngoại xâm là nét tiêu
biểu nhất cho người Hòa Vang. Điều này được chứng minh qua những năm đầu
kháng khiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Trải qua hằng trăm năm lập làng
sinh sống, nhân dân Hòa Vang luôn có tinh thần đoàn kết trong đấu tranh cũng như
trong công cuộc xây dựng quê hương giàu đẹp như hôm nay.
1.2. Khái quát chung về tộc người Cơtu
1.2.1. Nguồn gốc và lịch sử tộc người
Ở Việt Nam hiện nay, người Cơtu tập trung và khá ổn định ở phía Tây Bắc
Quảng Nam (chủ yếu là ở Tây Giang, Đông Giang và Nam Giang), ở Hòa Bắc –


SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 15


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Hòa Vang – Đà nẵng và ở vùng Tây Nam Thừa Thiên Huế (chủ yếu A Lưới, Nam
Đông). Đối với dân tộc Cơtu ở các thôn Tà Lang, Giàn Bí (xã Hòa Bắc) và Phú Túc
(xã Hòa Phú) của huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng. Người Cơtu không phải là
dân bản địa ở đó mà là sự đi cư từ vùng Tây Bắc Quảng Nam sang, chủ yếu vào thế
kỷ XIX. Đây là kết quả của lối sống hỏa canh truyền thống của người dân Cơtu và
dần dần họ đã định cư luôn ở đây do Hòa Vang có nhiều điều kiện tự nhiên thuận
lợi cho cuộc sống của họ. Còn về tổ tiên của người Cơtu nói chung và của người
Cơtu ở huyện Hòa Vang nói riêng thì đây là dân tộc có nguồn gốc lâu đời trên điểm
nối kết vùng bắc miền Trung với Tây Nguyên – nơi mà từ những thế kỷ đầu công
nguyên, các cảng biển đã trở thành những điểm giao lưu thương mại và nó đã trở
thành một địa bàn nhiều biến động.
Địa bàn cư trú của người Cơtu là một vùng núi non trùng điệp, phần lớn đỏ
theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Ngọn A Touat là ngọn núi cao nhất ở vùng này
(2500m). Khối núi ấy dựa vào cao nguyên Tahoi trải dài trên biên giới Việt – Lào
và cách sơn hệ phía bắc bởi các cao nguyên. Điểm sinh sống của người Cơtu tập
trung dọc triền dốc và thung lũng của sông Giằng, sông Cái và sông Bung.
Ở trong phạm vi nghiên cứu của người Cơtu Việt Nam hiện nay, có nhiều tác
giả cho rằng: vùng sinh sống của người Cơtu vốn ở vùng duyên hải và di chuyển
đến vùng đất hiện nay là do áp lực của tộc người Việt trong quá trình Nam Tiến.
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, việc di cư từ cận biển lên núi đó là do sự khắc
nghiệp của khí hậu ảnh hưởng đến việc trồng trọt. Trên thực tế, địa bàn cư trú của

người Cơtu hiện nay là kết quả của xu hướng di cư bắt gặp ở nhiều tộc người thiểu
số miền Trung, do sự co lại dần của cây rừng vốn trải dài tận biển. Với địa hình hẹp
như miền Trung Việt Nam, hiện tượng khai thác tập trung và làm cạn dần ưu thế ở
những mặt bằng tương đối thuận lợi ở chân sườn của dãy Trường Sơn, sẽ dẫn con
người tiến dần về đỉnh dốc. Đó là nguyên nhân tạo nên hướng di chuyển từ Đông
sang Tây của những tộc người sống trên địa bàn hiện nay.
Cộng đồng người Cơtu được chia thành 2 nhóm: Cơtu cao và Cơtu thấp. Đây
không chỉ là sự phân chia đơn thuần về không gian địa lý mà nhiều sinh hoạt văn
hóa, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng cũng trỏ thành những tiêu chí để phân biệt 2
nhóm này. Nhóm Cơtu cao chủ yếu sống ở huyện Hiên (Quảng Nam), vùng kế cận

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 16


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

phía Tây Nam Huế (Nam A Lưới) và các vùng cận biên giới Việt Lào. Nhóm Cơtu
thấp sống ở huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế). Dân tộc Cơtu ở Hòa Vang thuộc
nhóm Cơtu thấp.
1.2.2. Tên gọi, dân số và phân bố dân cư
Cơtu là một trong những tộc người mà việc lý giải tộc danh có nhiều điều
khá phức tạp. Có rất nhiều tên gọi khác nhau như: Kato, Cao, Khat, Kaota, Canto,…
nhưng tên phổ biến nhất vẫn là Cơtu, Katu.
Từ “tu” trong ngôn ngữ Cơtu nhằm để chỉ vị trí đầu ngọn. “Tu” là nguồn
nước, “cơ” là nơi cư trú của họ.
Dân số dân tộc Cơtu ở huyện Hòa Vang tương đối ít, chỉ khoảng hơn 1000

người, được phân bố ở ba thôn: Tà Lang, Giàn Bí (xã Hòa Bắc) và Phú Túc (xã Hòa
Phú), các làng này tương đối độc lập về mặt địa lý và nằm ở những vùng núi non
khá hiểm trở.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 17


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

CHƯƠNG 2
CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC CƠTU CÓ THỂ KHAI THÁC ĐỂ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Văn hóa là một khái niệm rộng. Văn hóa bao gồm tất cả các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo nên trong quá trình lịch sử. Đối với dân tộc Cơtu
huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng, những giá trị văn hóa của họ không chỉ phong
phú, đa dạng mà còn đậm đà bản sắc từ văn hóa vật chất cho đến văn hóa tinh thần.
Tuy nhiên, những giá trị có thể khai thác để phục vụ du lịch không phải là tất cả, ở
đây chỉ bao gồm một số lĩnh vực thôi. Chẳng hạn, đối với văn hóa vật chất chúng ta
có thể khai thác ở các lĩnh vực như: ẩm thực, trang phuc, cư trú. Còn đối với văn
hóa tinh thần thì nổi bật nhất và là nguồn tài nguyên du lịch to lớn cho huyện và
thành phố đó là lễ hội. Những giá trị ấy đã tạo nên những nét riêng rất đặc trưng cho
cộng đồng dân tộc Cơtu nơi đây và chắc chắn nó sẽ để lại nhiều dư âm và ấn tượng
khó quên cho du khách khi đến với mảnh đất này.
2.1. Văn hóa vật chất
2.1.1. Ẩm thực
Ăn uống là nhu cầu tất yếu của con người để đảm bảo sự tòn tại và phát

triển. Tuy nhiên đằng sau cái hiển nhiên ấy, ăn uống còn là văn hoá, là nghệ thuật.
Ăn khong chỉ để ăn mà còn để thưởng thức cái hồn của món ăn, để khám phá cái lạ,
cái hay, cái đẹp của thức ăn và cảm nhận sự sang tạo của nghệ thuật chế biến lẫn lai
lịch của nguyên liệu.
Hoà Vang là vùng đất giàu truyền thống văn hoá và ẩm thực ở đây cũng
không kém phần hấp dẫn với những món ăn nổi tiếng xưa nay mà chỉ cần nhắc đến
không thôi cũng đủ khiến người ta phải xuýt xoa, gợi bao nỗi niềm thương nhớ. Đối
với dân tộc Cơtu ở huyện Hoà Vang, tuy chỉ tập trung ở mấy làng nhỏ nhưng ngững
nét đặc trưng về văn hoá ở đây thì không nhỏ chit nào và ẩm thực cũng góp một
phần không nhỏ tạo nên nét văn hoá nơi đây.
Sống trên địa bàn bao quanh là núi rừng, mặc dù cuộc sống định canh, định
cư, làm nông nghiệp là chủ yếu, nhưng rừng xanh vẫn là nguồn cung cấp sản vật vô
cùng quang trọng và quý báu đối với con người Cơtu ở Hoà Vang. Vì thế nguồn
SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 18


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

thực phẩm trong các bữa ăn hằng ngày của người Cơtu chủ yếu là từ tự nhiên và từ
lao động. Với những cách chế biến, cách thức trong ăn uống mang đăc trưng riêng,
họ có những món ăn đặc sản vô cùng đặc sắc và hấp dẫn mà bất cứ ai có diễm phúc
được thưởng thức một lần thì chắc hẳn không bao giờ quên.
2.1.1.1. Ăn
* Nguồn thực phẩm tự nhiên
Đối với các dân tộc người thiểu số ở Trường Sơn – Tây Nguyên nói chung,
có thể nói sản phẩm thu được từ tự nhiên mà nguồn khai thác ở đây là núi rừng với

các sản phẩm thu được từ săn bắn, hái lượm là nguồn thức ăn đóng vai trò quang
trọng. Từ thú rừng, chim muông, côn trùng, từ rễ, củ,than, lá, hoa,…tất cả đều đi
vào bữa ăn hằng ngày của người dân tạo nên những món ăn đặc trưng của đồng bào.
Với dân tộc Cơtu ở Hoà Vang, không phải là cư dân bản địa, với số lượng ít,
chỉ tập trung trên 3 thôn nhỏ trên địa bàn huyện của thành phố có nền kinh tế phát
triển tương đối cao thì người Cơtu ở đây luôn được sự quan tâm, đầu tư đúng mực.
Hiện nay, đời sống của họ đã được cải thiện rất nhiều với lối sống văn minh cũng
như sự giao thoa, gần gũi với người Kinh trên địa bàn huyện và thành phố. Do đó,
sản xuất cũng giống người Kinh. Tuy nhiên, sống trên địa bàn rừng núi, rừng đã trở
thành người bạn thân thiết với họ và gắn bó với cuộc sống của họ. Một thời gian dài
trong quá khứ, người Cơtu phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên.
Nguồn thực phẩm từ tự nhiên của người dân Cơtu được phản ánh rõ nét
trong cơ cấu bữa ăn, thức uống hằng ngày của họ. Hiện nay, họ vẫn duy trì loại hình
kinh tế săn bắn, hái lượm với các thực phẩm đặc trưng là chim, thú rừng, các loại
rau, củ, quả rừng.
Ngoài các động vật chăn nuôi đặc trưng, săn bắn đã mang lại nguồn thực
phẩm vô cùng quý giá của con người, góp phần cải thiện chất lượng bữa ăn cho họ.
Hằng ngày, các thanh niên trai tráng sẽ vào rừng sâu, săn bắn các loại thú, phổ biến
nhất là con mang, chủ yếu là phương thức đặt bẫy. Mang đựơc chế biến bởi nhiều
món ăn: nấu, hấp, nướng và còn được bán cho người Kinh. Nguồn thực phẩm từ
sông suối cũng rất phong phú với các loại cá, tôm, cua, ốc,…dùng dể kho, nấu canh,
nấu cháo. Cá lớn có thể nướng, loại bé thì để nấu canh hay làm mắm. Nói đến mắm,
đây cũng là một món ăn rất đặc trưng của người Cơtu. Tuy hiện nay nó không còn

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 19


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

phổ biến lắm nhưng vẫn có một số gia đình làm. Vào mùa nắng, nguồn cá tương đối
nhiều, người ta cho cá vào ché, bỏ muối thật nhiều để bảo quản được lâu, xóc đều,
xong đậy kín nắp lại, để khoảng 10 – 15 ngày là có thể ăn đựơc. Mắm có thể ăn với
cơm hoặc để chấm rau luộc.
Ngày trước, với những loại thú săn được, thông thường người Cơtu chỉ ăn
một phần, còn lại đem phơi khô, bảo quản trong ống tre để dành những lúc thật
khan hiếm thức ăn như những ngày giáp hạn hay để tiếp khách quý đến viếng thăm.
Nhưng ngày nay, cuộc sống đã khá giả hơn nhiều, họ không còn chạy vạy từng bữa
ăn hằng ngày nữa nên những con thú săn bắn đựơc ấy được ăn liền hoặc đem bán
cho người Kinh.
Có một món ăn rất bổ dưỡng, có thể nói là một vị thuốc bổ cho trẻ nhỏ, đó là
cháo cóc. Món này thường được dùng cho trẻ chậm đi, bị còi xương. Tuy nhiên,
cách chế biến món ăn này không phải là đơn giản. Cóc bắt về lột sạch da, bỏ ruột,
xong đem phơi khô để nấu dần. Thịt cóc đã phơi khô đem rửa sạch. Gạo nấu mềm,
cho thịt cóc vào, sau đó nêm gia vị.
Ngoài những món ăn được chế biến từ thịt động vật, các loại côn trùng cũng
là nguồn nguyên liệu chế biến nên nhiều món ăn đặc trưng mang đậm dấu ấn ẩm
thực Cơtu như: kiến, nhộng, ong, mối,…
Loại kiến đỏ thường được người Cơtu ăn sống với muối ớt. Trứng của loại
kiến đen có thể ăn sống hoặc nướng trong ống tre, nứa cho vàng có tẩm muối ớt.
Với nhộng ong, người ta đem tổ ong về để nguyên cái, cầm trên chop bóp mạnh để
nhộng nát ra và lấy nước đó, cho một ít nước lạnh, muối, mỳ chính vào đun sôi.
Bên cạnh các loại thú rừng, côn trùng, các loại rau củ, quả rừng cũng được
khai thác, trở thành những món ăn trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của họ như: tàu
bay, cây môn, rau ruông,…các loại rau này thường không chế biến cầu kỳ mà chỉ
luộc rồi chấm với nước mắm. Riêng cây Mơcha thì dùng để nấu canh chua. Còn với
cây Mây (Adương) thì được chế biến thành nhiều món ăn như nấu cháo với gạo,

nấu canh cùng với cà chua… Ngoài ra, còn có măng, nấm cũng như là những thức
ăn rất quên thuộc của người Cơtu. Cùng với đó còn có một số loại củ phổ biến như:
củ mài, củ môn rừng, củ chuối,… Các củ này thường luộc lên rồi ăn hoặc thái nhỏ
để nấu canh.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 20


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Đặc biệt, cây Tà Vạt cũng là một loại cây được người Cơtu ăn bằng cách lấy
nước. Hiện nay, Tà Vạt là một loại cây có vai trò quang trọng đối với đồng bào
Cơtu.
Ngoài các loại rau, củ, hạt vừa nêu, trái dại cũng là món ăn ưa thích của đồng
bào Cơtu với một hệ trái rất phong phú như: chôm chôm, khế rừng, bây, mơ xiêng,
…Những loại quả này một thời làm vai trò thay thế lương thực khi khó khăn, khan
hiếm hay khi đi rừng của người dân Cơtu. Ngày nay, chúng là những loại quả ưa
thích của trẻ nhỏ.
* Nguồn thực phẩm từ lao động:
Ngoài những thực phẩm bổ sung từ tự nhiên nói trên, cái ăn hằng ngày của
người dân Cơtu ngày nay vẫn chủ yếu là các sản phẩm từ bàn tay lao động: lúa,
ngô, khoai, sắn,… Ngày nay, với cuộc sống định canh, định cư cùng với sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước, của UBND huyện, thành phố với việc đầu tư vốn, kỹ
thuật vào quá trình sản xuất nên nguồn thực phẩm từ bàn tay lao động đã đáp ứng
được khá đầy đủ cuộc sống của người dân Cơtu.
Cũng như người Kinh, người Cơtu ở Hòa Vang cùng trồng lúa nước. Nhưng

do ruộng ít nên họ phải mua gạo của người Kinh. Lúa cũng được xây thành gạo, nấu
thành cơm, cháo trong bữa ăn hằng ngày. Đối với gạo nếp được dùng để nấu xôi.
Ngoài ra, gạo nếp còn được dùng để làm bánh vào những ngày quan trọng trong chu
kỳ đời người, có một loại bán phổ biến đó là bánh Acuốc. Trong lễ hội, lễ tang của
người Cơtu cũng có một loại bánh rất phổ biến là bánh Pó.
Cùng với lúa, các sản phẩm từ nương rẫy như ngô, sắn khoai cũng được
trồng, đặ biệt là ngô. Ngô không chỉ được trồng trên nương mà còn được trồng
quanh nhà. Khi bắp ngô còn non, người Cơtu hái về để luộc, nướng ăn hoặc đem
bán cho người Kinh. Khi bắp già người ta thu hoạch, phơi khô nấu ăn dần hoặc xay
thành bột để làm bánh, nấu cháo…Ngoài ra, người Cơtu còn trồng cả dậu như: đậu
đen, đậu đỏ, đậu xanh,…Các loại cây ăn quả được người Cơtu trồng phổ biến trong
vườn như: chuối, mít, dứa,…Riêng quả dứa, ngoài để ăn, người Cơtu còn dùng làm
mắm.
Và nguồn thực phẩm lấy từ chăn nuôi cũng đóng một vai trò hết sức quang
trọng trong cơ cấu bữa ăn của người Cơtu. Vật nuôi phổ biến ở đây là: lợn, gà, vịt,

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 21


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

…Các loại động vật này cũng được chế biến thành nhiều kiểu khác nhau giống
người Kinh như món nướng, hấp, luộc, xào,…
Gia vị được sử dụng để nấu các món ăn của người Cơtu cũng rất phổ biến
như; mắm, muối, gừng, tỏi, ớt, tiêu,…
2.1.1.2. Uống

Nước uống thường nhật của người Cơtu là nước sôi, nước trà như người
Kinh, nhưng ngoài ra còn có thêm các loại nước uống được nấu từ các loại lá cây
đặc trưng như nước ổi, nước gu (nấu từ cây gỗ gõ), nước Apất (nấu từ cây mâm
xôi), nước Zơ rương, cây bo bo,…Hầu hết các loại nước này vừa để uống vừa để
chữa bệnh thông thường như đau bụng hay để bồi bổ sức khỏe.
Những loại thức uống mang tính chất đặc trưng, độc đáo của dân tộc Cơtu
nói chung và dân tộc Cơtu huyện Hòa Vang nói riêng, đó là và những thứ nước giải
khát.
Rượu có nhiều loại, được nấu từ các nguyên liệu khác nhau như: gạo, nếp,
ngô, khoai, sắn hay các loại rễ, vỏ cây tạo men. Rượu rất phổ biến trong sinh hoạt
và trong đời sống hàng ngày của người Cơtu, đặc biệt là trong các lễ hội. Trong đó,
đồng bào rất thích rượu cần và rượu Tà Vạt.
Tà Vạt là loại cây thân thiết với người Cơtu. Nước cây tiết ra màu vàng nhạt,
vị ngọt, mát, được chứa trong ống tre và có thể dùng như một thú nước giải khát.
Nếu chúng được ngâm với vỏ cây chuồn sau khoảng 1 – 2 giờ thì nước Tà Vạt sẽ
trở thành một nước uống có men. Còn với rượu cần, đây cũng là thứ rượu không thể
thiếu trong các nghi lễ, lễ hội. Nguyên liệu để làm rượu cần là sắn hoặc nếp trộn với
men và vỏ trấu cho vào ché, ủ kĩ rồi để khoảng 10 ngày là uống được. Do nồng độ
rượu thấp và mang tính hàn nên có thể dùng như một thứ nước giải khát về mùa hè.
2.1.1.3. Một số đặc sản
* Kdal um:
Kdal là một ấu trùng của một loại ấu trùng của loại ve sầu núi trước khi trở thành chú ve, có
thân bằng ngón tay út người lớn, màu trắng ngà, hoặc trắng xanh, đầu và răng cứng, có hai cái răng
nằm ngang, sống ở các bãi bồi ven sông hoặc tại các vùng đất pha các và nhiều lá mục. Đào được Kdal,
nếu không biết xử lý ngay thì bị mất phẩm chất.

Khi đào được nó, phải nha nh chóng

dùng tay phải nắm đầu, tay trái dùng móng tay xé


khúc cuối da đuôi ra và dùng tay phải rảy mạnh, phần ruột đen sẽ văng ra ngoài, phần còn lại trong lớp vỏ

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 22


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

mềm là chất dịch như sữa đặc, tương tự chất dịch trong con nhộng. Kết thúc buổi đào, mang Kdal xuống suối
để rửa sạch .

Hằng năm khi đến vụ Đông Xuân, bà con nông dâ n, cày đất nà tỉa đậu, họ thường
mang giỏ đi theo sau đường cày để nhặt Kdal, vừa bảo vệ hoa màu sau này, vừa có tí mồi đặc biệt để bồi
dưỡng và nhâm nhi vào buổi chiều với các nhà nông để 'tính chuyện làm ăn “...Kdal um, không cần dầu ăn,
người ta bắc xoong lên bếp cho nóng, cho nó vào khuấy đều, mỡ từ Kdal tươm ra, đủ để nấu chín... Không gì
hấp dẫn hơn vào ngày đông rét mướt, hương thơm Kdal xào lan toả bên bếp lửa hồng ấm áp của đồng bào và
xúm xít người già, trẻ con quây quần thưởng thức ...

Kdal um với đọt cây Thiên niên kiện là món ăn truyền thống, hấp dẫn của
đồng bào Cơtu. Kdal chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn trong năm và sau m ùa mưa
lụt, nên rất hiếm và ít người có dịp thưởng thức. Hiện nay, một số người Kinh đã biết thưởng thức món ăn
dân dã và ngon miệng này, xuất phát từ món ăn truyền thống của đồng bào dân tộc Cơ tu và không quên
trồng trong vườn nhà vài bụi Thiên niên kiện vừa để làm cảnh, vừa để um, xào...Kdal, thưởng thức hương vị
thơm ngon của món ăn đậm đà truyền thống dân tộc này.

* Mối rang:
Sau những cơn mưa chiều tháng tư (âm lịch), nhất là vào tầm chạng vạng

tối, không khí ở miền núi thường rất mát mẻ. Vì vậy, hàng đàn mối dày đặc từ tổ
chui ra với đôi cánh mỏng, bay lấp lánh, chập chờn trong bóng hoàng hôn, tụ vào
những nơi có ánh sáng. Người dân gọi nhau bắt mối, dí dỏm trêu đùa: “Con ơi bắt
mối đem rang /Nhanh tay không kẻo mối sang nhà người”.
Công đoạn bắt mối chỉ diễn ra nhanh chóng trong khoảng nửa giờ. Thường ở
những vùng có điện, khi phát hiện có mối, đồng bào lập tức tắt các bóng trong nhà
và chỉ để lại một bóng duy nhất giữa sân, thu hút mối. Dưới bóng điện người Cơtu
để một chậu nước để bẫy mối.
Đối với những vùng chưa có điện, khi phát hiện có mối đang bay ra, người ta
thắp một cây đèn dầu, hoặc đèn cầy, cắm giữa cái thau lớn đặt ở nơi thuận tiện
ngoài sân, trong thau đổ nước ngập một phần cây đèn. Mối thấy ánh sáng, mối cùng
nhau sà xuống, gặp nước, ướt cánh chúng không bay lên được nên nằm lại trong
thau. Khi thau nhiều mối thì vớt bỏ vào bao nilon.
Sau khi đã bắt mối, đồng bào Cơtu dùng nước suối rửa nhẹ nhàng và nhiều
lần cho sạch rồi vớt ra một để ráo nước. Mối thành phẩm còn nguyên cánh mỏng,
thân dài khoảng 1 cm, bụng lớn bằng sợi bún tươi, có viền đen quanh thân màu
vàng nâu, ngực và đầu.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 23


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

Chế biến mối hết sức đơn giản. Chảo được đặt lên bếp chờ đến khi nóng đều
thì cho mối, nêm thêm muối vào, đảo tới khi mối có mùi thơm và những tiếng nổ lẹt
đẹt nho nhỏ là đã chín. Lúc này, người Cơtu đổ mối ra mẹt, lấy các ngón tay đảo

nhẹ và sảy cho cánh mối bay đi, chỉ còn lại phần thân vàng ươm, béo ngậy.
Khách, chủ cùng rôm rả bên đĩa mối rang, trò chuyện về mùa màng, cấy hái
hay thảnh thơi lắng nghe và hát theo tiếng đàn Hroa, một loại nhạc cụ độc đáo của
đồng bào Cơ Tu và rỉ tai nhau nói rằng: "Không gì thú vị bằng sau những ngày lên
nương, rẫy được thưởng thức hương vị thơm lừng, béo ngậy và ngọt bùi của
món clap padieng, chiêu thêm vài ly rượu Tà vạt ".
* Zờ rá:
Zờ rá tuy là một món ăn rất phổ biến trong thực đơn của người Cơtu, nhưng
thực tế đó không phải là tên gọi của một món ăn đuWocj làm từ một nguyên liệu
nào đó mà chúng hỗn hợp của nhiều vật liệu khác nhau, gồm động thực vật hỗn
hợp, được đựng trong Loong Lo (ống bằng lồ ô dài khoảng 50 cm).
Nguyên liệu động vật chính để làm Zờ rá có thể là thịt nạt (tuyệt đối không
được lẫn xương vào), cũng có thể là cá, nhái, chim, chuột…, nhưng ngon nhất và
được ưa chuộng nhất là ruột các động vật, phổ biến như gà, lợn. Ruột này là loại
ruột non, để nguyên, không được tuốt phần chất nhầy bên trong, ăn có vị đắng rất
đặc trưng.
Ruột động vật hoặc thịt nạc, cá, thịt động vật được cắt nhỏ ra cho vào ống
Loong Lo cùng với thực vật như hoa chuối đã bóc lớp già, lấy lớp nõn, xé nhỏ xong
thái ra hoặc phần lõm giữa của thân chuối thái từng khúc, thả vào nước đã đun sôi
hoặc cũng có thể là cây môn vọt, dọc mùng hay một số loại rau rừng khác.
Sau khi các nguyên liệu được chọn và được sơ chế, người ta cho gia vị vào
gồm có muối, mì chính, , có thể cho cả củ kiệu vào, trộn đều rồi cho vào ống Loong
Lo nướng trên bếp lửa cho đến khi ống chuyển sang màu vàng cháy thì đem xuống.
Sau đó, người ta dùng dây mây có gai cho vào ống thọc nhiều lần để thức ăn được
trộn đều. Khi các thức ăn đã nhuyễn, đổ ra bát và xúc ăn.
* Chuột lam:
Trước Tết khoảng hơn 1 tháng, người Cơtu mang theo đồ dùng lên rừng,
chọn những vị trí thuận tiện để vãi xuống mặt đất nhằm thu hút chuột kéo về ăn

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH


Trang 24


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Thanh Sinh

ngày càng nhiều và béo mập. Trước Tết khoảng 10 ngày, họ mang bẫy kẹp lên vị trí
này để gài bẫy bắt chuột rừng về dự trữ ăn Tết. Trung bình, mỗi người gài khoảng
vài trăm bẫy. Sau đó, mỗi ngày từ sáng họ lên rừng để thu hoạch chuột mắc bẫy. Có
người bắt được tới vài chục con chuột một lần đi thăm bẫy.
Chuột làm sạch rồi nhét chuột vào ống nứa tươi, sau đó lấy rau môn dóc (a
zóc - là loại rau dại mọc rải rác trong rừng, trông gần giống các loại khoai môn
nhưng lá dài và nhỏ hơn) cuộn lại và nhét sâu vào ống để bịt miệng lại nhằm tạo
thêm hương vị thơm tho cho món ăn, cho ít muối vào ống. Sau đấy, cầm ống nứa hỏ
trên lửa, trở qua trở lại để nướng, khi ống nứa bắt đầu nám đen là được.
Sau khi biết chắc chuột đã chín, dùng dao tách hai ống nứa để lấy chuột và
rau ra. Mùi chuột nướng hòa quyện với rau môn dóc thơm ngào ngạt. Sau khi bỏ
thịt chuột đã nướng ra đĩa, món chuột nướng chấm với muối tiêu rừng (a mất).
Món này rất ngon và thú vị vì thịt có mùi thơm đặc trưng, vị ngọt, xương dòn.
Ngày Tết, đồng bào Cơtu có thể chế biến nhiều món ăn từ chuột rừng như:
chuột hầm đu đủ, chuột xào măng, chuột nấu "giả cầy", chuột nướng trực tiếp trên
than hoa, chuột kho mặn dậy mùi thơm quyến rũ…
* Rượu Tà Vạt:
Đó là loại rượu lấy chất dịch thơm, ngọt từ buồng trái của cây Tà Vạt, cho
lên men, uống rất thơm ngon và bổ dưỡng. Rượu có vị ngọt, đắng nhẹ, cay cay làm
tê tê đầu lưỡi, là loại rượu “khai vị” không thể thiếu trong các lễ hội, ngày Tết của
đồng bào dân tộc Cơtu.
Quy trình sản xuất rượu Tà Vạt khá phức tạp. Thường thường, mỗi cây Tà

Vạt có bốn, năm buồng, nhưng chỉ chọn buồng có trái lớn cỡ đầu ngón tay cái vì
cho nhiều nước và phẩm chất tốt nhất. 3 ngày một lần, người ta leo lên gần buồng,
dùng dùi cui đẽo bằng cây rừng đập nhẹ xung quanh cuống của buồng trái. Mỗi lần
đập khoảng một vài giờ. Sau 4 hoặc 5 lần đập, cắt ngang cuống buồng trái. Sau đó
dùng cọng cây môn nước giã dập và bịt ngay đầu mới cắt, bên ngoài bọc bằng lá
rừng và buộc lại. Động tác này gọi là “nhử nước”. Tuỳ theo cây, có thể nhử ba hoặc
bốn lần mới ra nước, khi thấy mặt vết cắt nhỏ giọt nhanh, đều thì gạt bỏ lớp “chất
nhử” và treo một cái can 10 lít để hứng. Có thể dùng ống nhựa, lồ ô, giang … để
dẫn nước vào can.

SVTH: Nguyễn Thị Hoài My – Lớp K13VNH

Trang 25


×