Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp trong các trường THPT thị xã từ sơn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.32 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––

DƯƠNG HỒNG SƠN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
CỦA HIỆU TRƯỞNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
CHỦ NHIỆM LỚP TRONG CÁC TRƯỜNG THPT
THỊ XÃ TỪ SƠN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2013


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––

DƯƠNG HỒNG SƠN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
CỦA HIỆU TRƯỞNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
CHỦ NHIỆM LỚP TRONG CÁC TRƯỜNG THPT
THỊ XÃ TỪ SƠN TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN VĂN HỘ

THÁI NGUYÊN - 2013


XÁC NHẬN CỦA KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
VÀ CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Cán bộ hướng dẫn

GS.TSKH. Nguyễn Văn Hộ

Trưởng Khoa Tâm lý Giáo dục

TS. Phùng Thị Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Một số biện pháp tăng cường quản lý của Hiệu trưởng đối
với công tác chủ nhiệm lớp trong các trường THPT Thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc
Ninh” được thực hiện từ tháng 11 năm 2012 đến tháng 08 năm 2013.
Tôi xin cam đoan:
- Tôi luôn luôn nỗ lực, cố gắng và trung thực trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài
- Luận văn sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau, các thông tin đă
được chọn lọc, phân tích, tổng hợp, xử lý và đưa vào luận văn đúng qui định.
- Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào
- Quyết tâm đưa đề tài vào thực tiễn giáo dục của nhà trường.
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2013
Tác giả


Dương Hồng Sơn

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn tôi đã nhận dược sự
quan tâm, giúp đỡ tận tình của các cô giáo, thầy giáo, cán bộ trường ĐHSP
Thái Nguyên. Lãnh đạo cơ quan nơi công tác và các đồng nghiệp bằng tất cả
tấm lòng biết ơn sâu sắc. Tôi xin bày tỏ sự trân trọng và cảm ơn tới:
- Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ,
các thầy giáo, cô giáo của Khoa Tâm lý - Giáo dục, Khoa sau đại học Trường
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy, tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành chương trình
học tập của khoá học.
- Lãnh đạo Sở GD&ĐT Bắc Ninh, ban Giám Hiệu, và giáo viên các
trường THPT Lý Thái Tổ, THPT Ngô Gia Tự, THPT Nguyễn Văn Cừ, Thị xã
Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, các đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành khoá học và
luận văn.
- Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Hộ,
người thầy kính yêu đã hết lòng giúp đỡ em hoàn thành luận văn có kết quả.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên
chắc chắn luận văn còn khiếm khuyết cần được bổ xung và góp ý. Vậy tôi rất
mong nhận được ý kiến chỉ dẫn, đóng góp chân thành của các thầy giáo, cô
giáo và các đồng nghiệp.
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2013
Tác giả

Dương Hồng Sơn


ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THPT

:

Trung học phổ thông

QLGD

:

Quản lý giáo dục

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

CHTW


:

Chấp hành trung ương

CSVN

:

Cộng Sản Việt Nam

CCGD

:

Cải cách giáo dục

TNCS

:

Thanh niên cộng sản

TNTP

:

Thiếu niên tiền phong

GD-ĐT


:

Giáo dục - Đào tạo

HĐBT

:

Hội đồng bộ trưởng

CH XHCNVN

:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

GVCN

:

Giáo viên chủ nhiệm

THCS

:

Trung học cơ sở

HĐND


:

Hội đồng nhân dân

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

ĐTB

:

Điểm trung bình

GV

:

Giáo viên

BCHTW


:

Ban chấp hành trung ương

ĐHSP

:

Đại học sư phạm

GD& ĐT

:

Giáo dục và Đào tạo

TDTT

:

Thể dục thể thao

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG

v



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ, sự cạnh tranh và hội nhập toàn cầu thì giáo dục- đào tạo
càng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Các quốc gia muốn
phát triển đều coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và đều nhận thức “Giáo
dục là chìa khoá” tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn; là yếu tố phát triển tiềm năng
con người; là động lực phát triển xã hội.
Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”. [14,45]
Muốn phát triển giáo dục, ngoài yếu tố đường lối chính sách, đổi mới cơ
chế, phát triển cơ sở vật chất, đổi mới chương trình, phương pháp giáo dục- đào
tạo thì vai trò của người giáo viên là rất quan trọng. Hội nghị TW2- khoá 8
khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được
xã hội tôn vinh” ; Luật Giáo dục năm 2005 nêu rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”. [33,22]
Chất lượng giáo dục là kết quả của hai quá trình cơ bản dạy học và giáo
dục (nghĩa hẹp). Quá trình dạy học có chức năng trội là truyền thụ tri thức, rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo tương ứng và do đội ngũ thầy cô thực hiện. Quá trình
giáo dục có chức năng trội là hình thành những quan điểm, niềm tin, giá trị,
động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị,
đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hoá, làm phát triển nhân cách của học sinh

theo mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội, trong quá trình này giáo viên
chủ nhiệm lớp là người đóng vai trò chính.
Thực tế trong các nhà trường phổ thông giáo viên chủ nhiệm lớp đóng
vai trò hết sức quan trọng trong giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân
cách học sinh.
1


Tác giả Đặng Quốc Bảo-Học viện quản lý Giáo dục khẳng định: “Giáo
viên chủ nhiệm trường phổ thông-người quản lý không có dấu đỏ trong nhà
trường có sứ mệnh hoàn thành phát triển nhân cách toàn vẹn của thế hệ trẻ”.
[6, 26]
Chủ nhiệm lớp là một trong những hoạt động giáo dục chủ yếu trong nhà
trường phổ thông. Chủ nhiệm lớp thay mặt hiệu trưởng quản lý một lớp nhằm
thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra, chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng
các hoạt động của một lớp. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cao, thì không
chỉ có sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm mà cần phải có sự quản lí, chỉ
đạo của ban giám hiệu mà trực tiếp là của Hiệu trưởng nhà trường. Vì vậy nếu
Hiệu trưởng triển khai linh hoạt và sáng tạo các biện pháp tổ chức, quản lý hoạt
động chủ nhiệm lớp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác này.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý công tác chủ
nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THPT ở Thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh
nhằm đề ra các biện pháp quản lý đồng bộ có tính khả thi cao, phù hợp với sự
phát triển của giáo dục trong thời kỳ đổi mới là vấn đề cấp thiết sớm được
nghiên cứu và làm sáng tỏ.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tế trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
“Một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối với công tác chủ
nhiệm lớp trong các trường THPT Thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh” với mong
muốn đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc xác định hệ thống
các biện pháp quản lý nhà trường, đặc biệt là các biện pháp quản lý công tác

chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý của hiệu trưởng đối
với công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT Thị xã Từ Sơn , đề xuất các
biện pháp tăng cường quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
2


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý của hiệu trưởng trường THPT đối với công tác chủ
nhiệm lớp của giáo viên trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các
trường THPT ở Thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THPT
Thị xã Từ Sơn những năm qua đã được tiến hành có kế hoạch và đã mang lại
hiệu quả nhất định. Tuy nhiên việc vận dụng các thành tựu khoa học hiện đại
vào công tác quản lí, cũng như các biện pháp nhằm kích thích tính tích cực và
trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm còn hạn chế nhất định, chỉ đạo công tác
chủ nhiệm lớp chủ yếu bằng các biện pháp hành chính. Nếu hiệu trưởng các
trường THPT tăng cường các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của
giáo viên một cách khoa học và phù hợp hơn thì công tác chủ nhiệm lớp của
giáo viên chủ nhiệm sẽ có hiệu quả hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu vấn đề lý luận của quản lý, quản lý giáo dục, quản lý
trường THPT.
5.2. Tìm hiểu thực trạng các biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với

công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên trong các trường THPT ở Thị xã Từ Sơn .
5.3. Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối
với công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
6. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp tăng cường quản lý của
hiệu trưởng các trường THPT ở Thị xã Từ Sơn đối với công tác chủ nhiệm lớp
của giáo viên. Việc điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng các biện pháp quản lý
hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên đối với hiệu trưởng được tiến hành ở
các trường THPT Lý Thái Tổ, THPT Ngô Gia Tự, THPT Nguyễn Văn Cừ ở
Thị xã Từ Sơn .
3


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Để có cơ sở lý luận làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu chúng tôi tiến
hành thu thập tài liệu lý luận, đọc tài liệu các văn bản pháp quy về giáo dục đào
tạo, các công trình nghiên cứu khoa học về quản lý giáo dục, quản lý chuyên
môn, quản lý công tác chủ nhiệm lớp từ đó phân tích tổng hợp vấn đề từ góc lý
luận có liên quan đến luận văn.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát các hình thức biểu hiện hoạt động quản lý của
hiệu trưởng và công tác chủ nhiệm lớp của đội ngũ giáo viên ở trường THPT.
7.2.2. Phương pháp thống kê xã hội học
Điều tra thu thập số liệu đối với thống kê về thực trạng quản lý công tác
chủ nhiệm lớp của giáo viên, của hiệu trưởng ở các trường THPT.
Điều tra, khảo sát lấy ý kiến của các cán bộ quản lý nhà trường nhằm
mục đích đánh giá thực trạng việc quản lý hoạt động của hiệu trưởng.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn một số Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng ở các trường THPT, làm
rõ thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường.
7.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các bảng hỏi sau:
a. Bảng hỏi giáo viên: Tìm hiểu nhận thức của giáo viên về công tác chủ
nhiệm lớp.
b. Bảng hỏi cán bộ quản lý nhà trường: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng,
chủ tịch công đoàn, bí thư đoàn trường: Tìm hiểu nhận thức và đánh giá của
cán bộ quản lý về công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên chủ nhiệm.
7.3. Phương pháp toán thống kê
Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lý và phân tích các số liệu từ
các phiếu hỏi thu thập được.
4


8. Đóng góp mới của đề tài
Làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản và phát hiện thực trạng các biện pháp
quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng THPT Thị xã Từ Sơn
Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý có khả năng thực thi của
người hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng quản lý công tác chủ nhiệm lớp
của hiệu trưởng các trường THPT Thị xã Từ Sơn. Đồng thời góp phần vào việc
phổ biến kinh nghiệm quản lý trong nhà trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm mở đầu và 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng
các trường THPT Thị xã Từ Sơn.
Chương 3: Đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường quản lý công tác
chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THPT Thị xã Từ Sơn.
Kết luận và khuyến nghị.


5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vài nét sơ lược về lich sử vấn đề nghiên cứu
Bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động và
giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực,
độc lập chuyển hóa những yêu cầu và những chuẩn mực xã hội thành hành vi
và thói quen tương ứng. Hoạt động chủ nhiệm lớp là một trong những hình
thức tổ chức của nhà giáo dục góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện của học sinh.
Tuy không đúng hoàn toàn nhưng hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
gần như người trồng cây, chăm sóc, vun trồng cây giống. Người làm vườn
không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải tạo điều kiện cho hạt giống nảy mầm.
Người giáo viên chủ nhiệm cũng vậy. Công tác chủ nhiệm lớp được đânh giá là
một công tác hết sức quan trọng ở các trường học, trong công tác dạy học và
giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm cũng là cầu nối các mối quan hệ giáo dục trong
nhà trường để nâng cao chất lượng đạo tạo, chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh. Đó chính là quan điểm chủ đạo được thể hiện trong nhiều công trình
nghiên cứu, giáo trình, tài liệu tham khảo trong lĩnh vực giáo dục học trên thế
giới cung như tại Việt Nam. Có thể kể đến những học giả nước ngoài nghiên
cứu sâu về lĩnh vực này như: Macarenko, Usinxki…Các học giả trong nước
như: PGS.TS Hà Thế Ngữ, PGS.TS Hà Nhật Thăng, PGS.TS Nguyễn Dục
Quang, GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ…
Và trong lĩnh vực quản lý công tác chủ nhiệm lớp thì trên thế giới cũng
như Việt Nam đã có nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục quan tâm. Các
vấn đề về lý luận và thực tiễn công tác quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp đã
được đề cập ở cả góc độ quản lý vĩ mô và vi mô. Nhiều hội thảo khoa học về

hoạt động chủ nhiệm lớp đã được tổ chức. Các hội thảo phân tích vấn đề trên
nhiều phương diện, góc độ quản lý theo ngành, bậc học. Nhiều kết quả, nhiều
6


công trình nghiên cứu đã và đang được ứng dụng trong các nhà trường, hệ
thống giáo dục các cấp.
Những năm gần đây nhiều luận văn tốt nghiệp thạc sĩ đã chọn đề tài
nghiên cứu thuộc lĩnh vực quản lý nhân lực trong giáo dục, trong đó có vấn đề
quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp. Các tác giả nghiên cứu về vấn đề quản lý
hoạt dộng chủ nhiệm lớp theo bậc học và ngành học, vùng miền và địa phương
khác nhau, như tác giả: Nguyễn Thị Dung với đề tài: “ Biện pháp quản lý bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm làm công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh ở trường THCS”; tác giả Lê Anh Dũng với đề tài “ Biện pháp quản lý
công tác chủ nhiệm lớp trong trường THPT Thành phố lào cai Tỉnh Lào cai”.
Các tác giả đã tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận; tìm hiểu và đánh giá thực
trạng về đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp và công tác quản lý đội ngũ giáo viên
chủ nhiệm lớp phù hợp với tình hình thực tiễn của các nhà trường , của địa
phương nơi các tác giả công tác.
Đối với ngành GD - ĐT nói chung, giáo dục cấp THPT của Thị xã Từ
sơn nói riêng chưa có một tác giả, một đề tài nào nghiên cứu đầy đủ khoa học
về quản lý công tác chủ nhiệm lớp trong mối quan hệ các trường trên địa bàn
Thị xã. Chính vì vậy nghiên cứu về quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác
chủ nhiệm lớp ở các trường THPT ở Thị xã Từ Sơn trong giai đoạn hiện nay là
vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu một cách khoa học và hệ thống.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm
thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. Trong xã hội loài người,
quản lý là một hoạt động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội. Quản lý là nhân tố

không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội. Loài người đã
trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng
trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ
thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và
7


phát triển của xã hội. Nó là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu
lịch sử.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá
trình xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận
đưa ra, nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi
người. Chẳng hạn:
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định”[29].
Theo Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt
của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy
quản lý, hình thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các khâu và các
cấp quản lý, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu quả” [14].
Giáo trình “Quản lý giáo dục và đào tạo” của trường cán bộ quản lý
GD&DT nêu rằng:
- Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào
hệ thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
- Quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý nhằm đạt các mục tiêu đề ra.
- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
là đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện
biến đổi của môi trường [13].

Từ các định nghĩ trên có thể rút ra một số điểm chung:
• Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động,
hoạt động khác.
• Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý.
- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý chính
8


là những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu đối với
đối tượng quản lý. Các Mác so sánh một cách hình ảnh: Nhạc trưởng đối với hệ
thống nhạc công, trong đó nhạc trưởng là một chủ thể quản lý, nhạc công là chủ
thể bị quản lý (các nhạc công chịu sự tác động của nhạc trưởng) để đưa đến
một sản phẩm “kép” một sản phẩm “siêu sản phẩm” - Đó là cả chủ thể quản lý
và chủ thể bị quản lý đều phát triển (hoạt động tạo ra các chủ thể và về sự phát
triển của con người).
• Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động
xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người
tồn tại, vận hành và phát triển.
• Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng
xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường
xác định.
Có mô tả cấu trúc của một hệ thống quản lý qua sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Cấu trúc của một hệ thống quản lý
Môi trường quản lý
Mục tiêu quản lý
Chủ thể quản lý

Khách thể quản lý


Hiện nay quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình
đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng của các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.2.2. Các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch hoá
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng ta
có thể định nghĩa như sau: chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục
9


tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy,
thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế
hoạch hoá, với mục đích, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường
minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Trong QLGD, quản lý nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan
trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng
đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt
động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường
khi kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy bởi bản thân
nó có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó. Đối với nhà trường đó là trạng thái về cơ sở
vật chất, về đội ngũ giáo viên, về các kết quả về hoạt động sư phạm của các
năm học trước đó, những mặt tốt và mặt tồn tại, nguyên nhân của chúng…Dựa
trên những số liệu của năm học trước rút ra kết luận cụ thể về trạng thái xuất
phát của nhà trường trong năm học mới.
Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên
cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học
mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường, trong đó có tính
tới nhu cầu bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những hướng ưu

tiên, dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có
tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
- Chức năng tổ chức
Cuốn “Cơ sở khoa học quản lý” đã xác định: “Tổ chức là hoạt động
hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất
giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp hành)” [9].
Điều quan trọng nhất của công tác tổ chức là phải xác định rõ vai trò của
mỗi bộ phận, cá nhân, bảo đảm các mối quan hệ ngược, sự thống nhất và đồng
bộ về tổ chức trong quản lý giáo dục ở trường trung học.
10


Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho
phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là
điều kiện của quản lý, đúng như V.I.Lê-nin đã khẳng định: “Chúng ta phải hiểu
rằng, muốn quản lý tốt…còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa” [23]. Thực
chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ
phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức
không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
- Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi
và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể
hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong
tổ chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ
giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để
họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
- Chức năng kiểm tra

Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để
đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện
hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét
việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần
thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản
lý như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đổi
mới cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả quản lý.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã
hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như
minh hoạ ở sơ đồ dưới đây:
11


Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
Kế hoạch hoá

Chỉ đạo

Tổ chức

Kiểm tra

1.2.3. Khái niệm quản lý giáo dục
Đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nói chung cho nên cũng có nhiều
quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là nhà trường vận hành theo

nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh…” [16].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất [30].
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể khái quát rằng: Quản lý giáo
dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy
mạnh công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Trong hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm của mọi hoạt động.
Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt động giáo dục và
QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy
con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.
12


1.2.4. Quản lý nhà trường
Bản chất của việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy - học, tức
là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần
tiến tới mục tiêu giáo dục [15tr72].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý nhà trường là: “Tập hợp
những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can
thiệp…) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ
khác. Nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội
đóng góp, do lao động xây dựng và vốn lao động tự có hướng vào việc đẩy
mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế
hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà
trường tiến lên trạng thái mới” [30].

Theo Phạm Viết Vượng: Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng
cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường [44tr205].
Như vậy, quản lý nhà trường chính là QLGD trong một phạm vi xác
định, đó là nhà trường (đơn vị giáo dục). Quản lý nhà trường là một hoạt động
được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có
những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Do đó quản lý nhà trường cần
vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh mọi hoạt động
của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục nên
quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QLGD. Thực chất
của quản lý nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các hoạt động trong
nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN ở
Việt Nam.
13


1.3. Một số cơ sở lý luận của công tác chủ nhiệm lớp
1.3.1. Giáo viên chủ nhiệm
1.3.1.1. Vị trí và chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp
“Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh
tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện
con người Việt Nam XHCN, đồng thời chuẩn bị lực lượng lao động dự trữ và
nguồn tuyển chọn để đào tạo công nhân và cán bộ cần thiết cho sự nghiệp xây
dựng kinh tế, phát triển văn hoá và tăng cường quốc phòng” (Nghị quyết của
Bộ Chính trị Ban CHTƯ Đảng CSVN về CCGD). Vì vậy, trường phổ thông có
nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi đến tuổi trưởng thành.
Chính các giáo viên, trong đó có giáo viên chủ nhiệm, là một lực lượng cốt cán
thực hiện nhiệm vụ này.

Ở cấp tiểu học, mỗi lớp do một giáo viên phụ trách. Công tác của giáo
viên cấp tiểu học có tính đặc thù của nó: giáo viên vừa đảm đương việc giảng
dạy tất cả các môn học, vừa đảm đương việc giáo dục học sinh trong nội khoá
và ngoại khoá, trong trường và ngoài trường, vừa đảm đương việc quản lý toàn
diện học sinh trong mối quan hệ với các lớp khác, với bộ phận lãnh đạo của nhà
trường, với gia đình và xã hội. Như vậy, giáo viên cấp tiểu học phải thực hiện
các chức năng dạy học, giáo dục, quản lý trong sự thống nhất với nhau.
Các trường phổ thông, công tác dạy học - giáo dục học sinh được tiến
hành với nội dung ngày càng toàn diện hơn, phong phú hơn, sâu sắc hơn, hệ
thống hơn và nhiều hình thức hoạt động đa dạng ở trong và ngoài trường.
Trong đó, các môn học đã được đưa vào quá trình dạy học với sự phân hoá
ngày càng sâu. Do vậy, toàn bộ công tác dạy học - giáo dục học sinh không thể
chỉ do một giáo viên đảm đương; trái lại phải do một tập thể sư phạm bao gồm
nhiều giáo viên phụ trách: các giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm.
Các giáo viên bộ môn có trách nhiệm tổ chức việc dạy và học các môn
mà mình phụ trách, và qua đó, góp phần tích cực nhất vào việc giáo dục cho
14


học sinh cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và những
phẩm chất đạo đức của con người lao động mới làm chủ tập thể. Song do tính
chất của môn học và khối lượng thời gian dành cho việc học từng môn ở từng
lớp, một giáo viên bộ môn có thể phải đảm đương công tác giảng dạy ở nhiều
lớp khác nhau. Như vậy, học sinh ở mỗi lớp đồng thời phải học nhiều giáo viên
khác nhau. Vấn đề đặt ra là, ai sẽ là người đứng ra phối hợp hoạt động của tất
cả các giáo viên giảng dạy trong cùng một lớp nhằm đảm bảo được sự tác động
giáo dục thống nhất? Người đó chính là giáo viên chủ nhiệm.
Hơn nữa, như chúng ta đều biết, mỗi lớp bao gồm một số lượng học sinh
nhất định, ở lứa tuổi nhất định, có trình độ phát triển nhất định…Chúng họp
thành một tập thể có tổ chức chặt chẽ với những hoạt động chung và cùng

nhằm mục đích chung: xây dựng nhân cách con người mới phù hợp với mục
tiêu giáo dục của từng cấp học. Do đó, có thể nói rằng, mỗi lớp được coi như
một đơn vị, một tế bào hữu cơ của cả hệ thống nhà trường, một bộ phận hữu cơ
của cả tập thể trường học. Sự trưởng thành của nó gắn liền với sự trưởng thành
của toàn trường. Mỗi thành công hay không thành công của nó đều ảnh hưởng
đến sự thành công hay không thành công của cả trường. Vì vậy, một yêu cầu có
tầm quan trọng đặc biệt là phải làm thế nào xây dựng được tập thể lớp thành
tập thể tốt, góp phần xây dựng tập thể, nhà trường tốt. Người đứng ra đảm
đương vai trò chủ đạo chính trong công tác giáo dục học sinh của từng lớp, trên
cơ sở phối hợp các lực lượng giáo dục cũng chính là giáo viên chủ nhiệm.
Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm có thể được coi là người thay mặt hiệu
trưởng làm công tác quản lý và giáo dục học sinh một lớp nhất định. Thông
thường, đó là các giáo viên có nhiều kinh nghiệm giáo dục học sinh được hiệu
trưởng tín nhiệm và giao trách nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm có thể vẫn tiến hành giảng dạy môn học nào đó ở
lớp mình làm chủ nhiệm và ở các lớp khác trong trường, nhưng chức năng cơ
bản của họ là chức năng quản lý - giáo dục. ở đây, mặt quản lý và mặt giáo dục
thống nhất với nhau mật thiết, để giáo dục tốt, phải quản lý tốt và quản lý tốt sẽ
15


giúp cho giáo dục được tốt. Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ rằng, nếu không
thống nhất được hai mặt này thì kết quả giáo dục cho cả tập thể hay từng cá
nhân học sinh đều không mang lại hiệu quả mong muốn.
Vậy chức năng quản lý - giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp được thể
hiện như thế nào?
Trước hết, giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm đến sự phát triển toàn diện
của mọi học sinh trong tập thể lớp: phải nắm vững được những đặc điểm chung
của lớp, những đặc điểm của từng học sinh; có mục tiêu, nội dung, hình thức
giáo dục thích hợp, có những tác động sư phạm hợp quy luật, mang lại hiệu quả

cao; chú ý giáo dục cá biệt, cá nhân hoá giáo dục; đánh giá kết quả học tập, tu
dưỡng toàn diện của lớp, của từng học sinh.
Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm phải biết tổ chức, quản lý tập thể học
sinh. Như trên đã nói, lớp là một tập thể, là một đơn vị cơ sở, là một tế bào của
tập thể nhà trường. Vì vậy, bộ máy quản lý của lớp nằm trong bộ máy quản lý
chung của toàn trường. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng,
chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng, phụ trách công tác quản lý trong phạm vi
lớp mình làm chủ nhiệm. ở đây giáo viên chủ nhiệm phải:
a. Thiết kế được kế hoạch xây dựng và phát triển tập thể học sinh.
b. Phát huy được ý thức tự quản của học sinh, xây dựng được bộ máy
của lớp có đủ năng lực và uy tín điều hành các hoạt động chung.
c. Cố vấn cho bộ máy này hoạt động; bồi dưỡng một cách có kế hoạch
các phần tử tích cực nhằm làm cho tập thể lớp đạt được các mục tiêu đã đề ra
thông qua việc tổ chức các hoạt động tập thể một cách có kế hoạch và có
phương pháp.
d. Tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động của lớp, của từng học sinh.
e. Báo cáo hiệu trưởng theo chế độ đã quy định.
Cuối cùng, chức năng quản lý - giáo dục của giáo viên chủ nhiệm còn
được thể hiện ở chỗ tổ chức tập hợp và khai thác sức mạnh tổng hợp của các
lực lượng giáo dục trong và ngoài trường nhằm xây dựng được tập thể học
sinh, thúc đẩy sự phát triển nhân cách toàn diện của từng thành viên của nó.
16


×