Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi cấp tiểu học tại thành phố việt trì tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG THỊ MAI HƯƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN DẠY GIỎI CẤP TIỂU HỌC
TẠI THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ - TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG THỊ MAI HƯƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN DẠY GIỎI CẤP TIỂU HỌC
TẠI THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ - TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ THỊ ĐỨC

THÁI NGUYÊN - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Luận văn: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi cấp tiểu
học tại thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ” được thực hiện từ tháng 10 năm
2013 đến cuối tháng 3 năm 2014.
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
Cô PGS.TS. Hà Thị Đức. Các kết quả và số liệu đảm bảo tính khách quan,
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn

Dương Thị Mai Hương

i


LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập, nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động bồi dưỡng
GVDG cấp tiểu học thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ” được sự giúp đỡ tận
tình của quí thầy giáo, cô giáo khoa QLGD Trường ĐHSP Thái Nguyên, sự
động viên khuyến khích của các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình
đến nay đề tài đã hoàn thành.Với sự kính trọng và tình cảm chân thành, tác giả
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Khoa quản lý giáo dục, Phòng sau đại học - Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, các thầy cô giáo tham gia giảng dạy đã cung cấp kiến thức cơ
bản, giúp tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo PGS.TS
Hà Thị Đức - người trực tiếp hướng dẫn khoa học - đã tận tâm chỉ bảo, hướng
dẫn, giúp đỡ và góp ý kiến hoàn thiện luận văn này.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn: phòng Giáo dục và Đào tạo thành

phố Việt Trì; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng và giáo viên các trường Tiểu học
thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ, cùng với những người bạn thân và bạn bè
đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu, số liệu, tham gia đóng góp
nhiều ý kiến, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Mặc dù có nhiều cố gắng tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu nhưng khả năng
còn hạn hẹp không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tác giả mong
nhận được ý kiến đóng góp chân thành từ các thầy giáo, cô giáo và bạn bè
đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn

Dương Thị Mai Hương

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BD

- Bồi dưỡng

BDGV


- Bồi dưỡng giáo viên

BDGVDG

- Bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi

BDGVGTH

- Bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi tiểu học

BDTX

- Bồi dưỡng thường xuyên

BDCH

- Bổi dưỡng chuẩn hoá

CĐSP

- Cao đẳng sư phạm

CBQL

- Cán bộ quản lý

CNH - HĐH

- Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá


CNNGVTH

- Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học

ĐHSP

- Đại học sư phạm

ĐNGVDG

- Đội ngũ giáo viên dạy giỏi

GDTH

- Giáo dục tiểu học

GDTX

- Giáo dục thường xuyên

GD&ĐT

- Giáo dục và đào tạo

GV

- Giáo viên

GVTH


- Giáo viên tiểu học

GVDG

- Giáo viên dạy giỏi

GVDGTH

- Giáo viên dạy giỏi tiểu học

QLGD

- Quản lý giáo dục

THSP

- Trung học sư phạm

THPT

- Trung học phổ thông

UBND

- Uỷ ban nhân dân

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG


v


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Sơ đồ 3.1: Mối quan hệ giữa các biện pháp..............Error: Reference source not
found

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lí luận
Trong mọi thời đại, bất cứ dân tộc nào, Quốc gia nào cũng đều có nhu
cầu phát triển về con người. Vấn đề bồi dưỡng, đào tạo nhân tài đã được
nhiều nhà lãnh đạo, nhà giáo dục và cả xã hội đặc biệt quan tâm. Ở Việt
Nam ngay từ thời xa xưa cha ông ta đã rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài và đúc rút thành kinh nghiệm quý báu: Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế
nước yếu rồi xuống thấp.
Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng nhân tài còn được thể hiện qua báo
cáo chính trị của ban chấp hành TW Đảng khóa VI: “Nhân tài không phải là
sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài
năng có thể bị mai một đi nếu không được phát hiện và sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ…” [21].
Trong thời kì đổi mới của đất nước ta hiện nay, nhất là khi Nghị quyết
TW2 về Giáo dục và Đào tạo đã vạch rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, thì
yêu cầu đặt ra cho giáo dục là phải đào tạo những lớp người có đủ năng lực,

phẩm chất để làm chủ công cuộc CNH - HĐH của đất nước.
Nghị quyết Đại hội XI xác định: “Giáo dục và Đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan
trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư cho phát triển”.
Đảng ta cũng đã khẳng định: “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược
phát triển giáo dục đào tạo là phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn
hoá đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ”.

1


Sự thành công của công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh phụ thuộc có tính quyết định vào việc phát triển nguồn
nhân lực mà trong đó phương tiện chủ yếu quyết định nhất là thực hiện tốt quan
điểm đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo như Đại hội XI đề
ra. Để phát triển nhanh giáo dục và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã
hội thì việc tập chung bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên
nói chung, giáo viên dạy giỏi nói riêng là cấp thiết.
1.2. Về mặt thực tiễn
Giáo dục Tiểu học là cấp học nền móng và hết sức quan trọng trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Giáo viên tiểu học có nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục
trẻ ở độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi. Vị trí vai trò của người giáo viên tiểu học được
thể hiện rất rõ trong Luật giáo dục và Điều lệ Trường tiểu học. Để có những lớp
trẻ có đạo đức, phẩm chất, lối sống tốt, có kiến thức chắc chắn đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của xã hội hiện nay thì cần phải có một đội ngũ giáo
viên vững vàng về tay nghề, am hiểu kiến thức xã hội, có nhận thức đúng đắn,
nhạy bén, năng động, để đào tạo ra những lớp người mới trong xã hội. Vì vậy

công tác quản lý bồi dưỡng giáo viên đặc biệt là bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi
là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Trong nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng, đội ngũ giáo
viên dạy giỏi giữ một vai trò rất quan trọng. Để có học sinh giỏi thì phải có
giáo viên dạy giỏi. Vậy muốn có nhiều học sinh giỏi thì các nhà trường cần
phải có nhiều giáo viên dạy giỏi. Đội ngũ giáo viên dạy giỏi trong các nhà
trường là yếu tố quyết định đến uy tín, chất lượng của nhà trường. Một nhà
trường muốn tạo được thương hiệu, muốn nhiều người biết đến thì phải có
nhiều giáo viên dạy giỏi: vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có lòng nhiệt
tình say mê với công việc và ham học hỏi. Vì vậy vấn đề bồi dưỡng giáo viên
dạy giỏi bậc tiểu học là việc làm có ý nghĩa và rất cần thiết.

2


Trong thực tiễn các nhà quản lý giáo dục mới chỉ quan tâm đến việc bồi
dưỡng giáo viên đại trà (BDTX theo chu kì chung của cả tỉnh, thành phố) mà
chưa chú ý nhiều đến bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy giỏi. Vì vậy đội ngũ
giáo viên dạy giỏi chưa phát huy được hết khả năng của mình, các nhà giáo dục
cũng chưa khai thác hết tiềm năng của giáo viên dạy giỏi, số lượng và chất
lượng giáo viên dạy giỏi chưa được nâng cao, chưa có các hội thảo để đúc rút
kinh nghiệm cũng như nhân rộng điển hình cho đội ngũ này.
Trước tình hình đó, công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng giáo viên dạy giỏi tiểu học hướng đến yêu cầu: nâng cao số lượng và
chất lượng giáo viên dạy giỏi của các trường tiểu học ở thành phố Việt Trì. Yêu
cầu đặt ra những đòi hỏi cấp thiết về nội dung, cách thức tổ chức, cơ chế chính
sách, chế độ ưu đãi, cũng như hình thức, phương pháp bồi dưỡng nhằm phát
triển đội ngũ GVDG một cách toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề “Quản lý hoạt động bồi dưỡng
giáo viên dạy giỏi cấp tiểu học tại thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ” làm đề

tài khoa học với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng quản lý trong công
tác bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và hoạt động quản lý bồi
dưỡng giáo viên nói chung, giáo viên dạy giỏi nói riêng. Đề tài nghiên cứu đề
xuất các biện pháp quản lý nhằm bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi ở các trường
tiểu học đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi các trường tiểu học
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi các trường
tiểu học thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ.

3


4. Các nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
nói chung, giáo viên dạy giỏi nói riêng ở trường tiểu học
4.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi
ở các Trường tiểu học thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ.
4.3. Đề xuất biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi ở các
trường tiểu học thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay ở thành phố Việt Trì việc quản lý bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi
còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó là do việc quản lý bồi
dưỡng chưa được quan tâm đúng mức. Nếu xây dựng được các biện pháp quản
lý bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục đề ra

thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng, số lượng giáo viên giỏi, đáp ứng được nhu
cầu phát triển của giáo dục Tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và chứng minh giả thiết
khoa học. Đề tài nghiên cứu đã vận dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa trong
quá trình:
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, của Nhà nước, của địa phương về
giáo dục, chính sách phát triển giáo dục và một số các văn bản khác có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu các tài liệu khoa học về quy hoạch, dự báo, các công trình
nghiên cứu về giáo dục nói chung về giáo dục Tiểu học nói riêng của các tác
giả trong và ngoài nước.

4


- Tìm đọc và phân tích tài liệu, sách báo, báo cáo khoa học, tạp chí về
quản lý, quản lý giáo dục, bồi dưỡng giáo viên.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số chuyên gia trong quá
trình xây dựng bảng hỏi.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
6.3. Phương pháp toán thống kê
- Sử dụng các công thức toán học để thống kê số lượng, chất lượng đội
ngũ cán bộ, giáo viên giỏi và sử lý các số liệu thống kê được, nhằm đưa ra các

kết luận phục vụ cho công tác nghiên cứu để đảm bảo tính khách quan.
7. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và khả năng có hạn, đề tài chỉ tập trung điều tra, khảo sát ở
8 trường tiểu học thành phố Việt Trì. Trong đó:
+ Cán bộ quản lý: 23 người
+ Giáo viên dạy giỏi: (không kể lãnh đạo trường): 218 người
Tám trường tiểu học trên địa bàn thành phố Việt Trì đại diện cho các
vùng nội thành và ngoại thành:
1. Trường Tiểu học Phượng Lâu
2. Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng
3. Trường Tiểu học Gia Cẩm
4. Trường Tiểu học Tiên Cát
5. Trường Tiểu học Thọ Sơn
6. Trường Tiểu học Minh Nông
7. Trường Tiểu học Thanh Đình
8. Trường Tiểu học Sông Lô

5


8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên nói
chung, giáo viên dạy giỏi nói riêng ở trường tiểu học.
Chương II: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi ở
các Trường tiểu học thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ.
Chương III: Các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên dạy
giỏi ở các trường tiểu học thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ.


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN NÓI CHUNG, GIÁO VIÊN DẠY GIỎI NÓI RIÊNG
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Vài nét về lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Kinh nghiệm BDGV ở một số nước trong khu vực hiện nay
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi BDGV là vấn đề cơ bản
trong phát triển GD. Việc tạo mọi điều kiện thuận lợi để mọi người có cơ hội
học tập suốt đời, học tập thường xuyên, kịp thời bổ sung kiến thức và đổi
mới phương pháp hoạt động phù hợp là phương châm hành động của các cấp
quản lý giáo dục.
Tại Pakistan, có chương trình bồi dưỡng về sư phạm do nhà nước quy
định trong thời gian 3 tháng, gồm các nội dung giáo dục nghiệp vụ dạy học, cơ
sở tâm lý giáo dục, phương pháp nghiên cứu, đánh giá nhận xét học sinh, đối
với ĐNGV mới vào nghề chưa quá 3 năm.
Ở Nhật Bản, việc bồi dưỡng đào tạo GV và cán bộ quản lý giáo dục là
nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tuỳ theo thực tế của từng
đơn vị, cá nhân mà các cấp quản lý giáo dục đề ra các phương thức bồi dưỡng
khác nhau trong một phạm vi yêu cầu nhất định. Cụ thể là mỗi trường cử từ 3
đến 5 giáo viên được đào tạo lại một lần theo chuyên môn mới và tập trung
nhiều vào đổi mới phương pháp dạy học.
Tại Thái Lan, từ những năm 1998 việc BDGV được tiến hành ở những
trung tâm học tập cộng đồng nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ
năng nghề nghiệp và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã hội.
Triều Tiên là một trong những nước có những chính sách thiết thực về
bồi dưỡng và đào tạo lại ĐNGV. Tất cả giáo viên đều phải tham gia học tập
đầy đủ các nội dung chương trình và nâng cao trình độ và nghiệp vụ chuyên

môn theo quy định. Nhà nước đã đưa ra hai chương trình lớn được thực thi hiệu
7


quả trong thập kỷ vừa qua. Đó là: “Chương trình bồi dưỡng giáo viên mới ” để
bồi dưỡng giáo viên thực hiện trong 10 năm và “Chương trình trao đổi ” để
đưa giáo viên đi tập huấn ở nước ngoài.
1.1.2. Vấn đề bồi dưỡng giáo viên nói chung và GV dạy giỏi tiểu học nói
riêng ở Việt Nam
Sau năm 1975, việc đào tạo BD giáo viên nói chung và bồi dưỡng giáo
viên dạy giỏi nói riêng gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh cả nước phải khắc
phục hậu quả khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Để đảm bảo đủ về số
lượng GV, nhiều lớp, nhiều khoá đào tạo cấp tốc, ngắn hạn được tổ chức. Để
đáp ứng yêu cầu của cải cách GD, Đảng và Nhà Nước ta đã có những chủ
trương cấp bách về việc đào tạo và BDĐNGV theo nhiều loại hình khác nhau,
đặc biệt là ĐNGV tiểu học như: đào tạo chính quy, tại chức, ngắn hạn, và cấp
tốc theo các hệ khác nhau: 4+3, 7+3, 9+3, 10+2... dẫn đến trình độ của GVTH
không đồng đều.
Theo Điều 34, Chương 4 của Điều lệ Trường tiểu học do Bộ GD&ĐT ban
hành năm 2005 quy định về trình độ chuẩn được đào tạo của GVTH như sau:
- GVTH phải đặt trình độ chuẩn trung học sư phạm (9+3) đối với vùng
có điều kiện KT- XH đặc biệt khó khăn, đạt trình độ trung học sư phạm (12+2)
đối với các vùng còn lại.
- GVTH chưa đạt trình độ chuẩn theo quy định trên phải được nhà
trường, các cơ quan quản lí giáo dục tạo điều kiện để học tập, bồi dưỡng.
- GVTH có trình độ trên chuẩn được tạo điều kiện để phát huy tác dụng
của mình trong giảng dạy và giáo dục.
- Người tốt nghiệp Trường trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học
chưa qua đào tạo sư phạm muốn trở thành GVTH phải được bồi dưỡng về
nghiệp vụ sư phạm tiểu học tại các trường, khoa sư phạm.

Thực chất của chuẩn nghề nghiệp GVTH là một hệ thống các yêu cầu cơ
bản cùng những tiêu chí về năng lực nghề nghiệp (được phân loại từ thấp đến

8


cao) mà người GVTH cần đạt được nhằm đáp ứng mục tiêu của giáo dục tiểu
học trong công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông. Chuẩn nghề nghiệp GVTH
được xem là thước đo năng lực nghề nghiệp của giáo viên. Năng lực nghề
nghiệp biểu hiện thành các lĩnh vực tạo nên chất lượng giáo viên như: phẩm
chất, kiến thức, kĩ năng. Năng lực giáo viên hiện nay phải đáp ứng những yêu
cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Khi có chuẩn giáo viên thì chúng ta
mới có cơ sở để đánh giá chất lượng giáo viên. Mặt khác, nhờ có chuẩn, giáo
viên mới xác định mục tiêu và phương hướng phấn đấu để nâng cao năng lực
nghề nghiệp của mình đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Chuẩn giáo viên ở
các bậc học khác nhau là khác nhau.
Chuẩn nghề nghiệp GVTH, lần đầu tiên được Bộ GD&ĐT chính thức
ban hành vào ngày 4/5/2007. Điều đó là một điểm thuận lợi giúp cho đội ngũ
giáo viên có mục tiêu phấn đấu và giúp các nhà quản lí có những biện pháp bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên tiến tới đạt những chuẩn đó.
Theo “ Một số vấn đề đổi mới quản lí giáo dục Tiểu học vì sự phát triển
bền vững” thì chuẩn GVTH gồm 3 lĩnh vực:
Lĩnh vực 1: Phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị
Lĩnh vực 2: Kiến thức
Lĩnh vực 3: Kĩ năng sư phạm (Kĩ năng giáo dục, dạy học, tổ chức)
Từ năm 1986, cả nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện để thực hiện
mục tiêu CNH - HĐH, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức coi trọng phát triển GD
nhằm tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Bắt đầu từ đây, việc đào tạo, bồi
dưỡng ĐNGV đã có những chuyển biến tích cực nhằm dần dần chuẩn hoá đội
ngũ này, mặc dù nguồn ngân sách giáo dục còn hạn hẹp.

Ở nước ta, việc đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên luôn được các
địa phương quan tâm, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành các chương trình
đào tạo chuẩn hóa giáo viên, khuyến khích các địa phương đào tạo, bồi dưỡng
nâng chuẩn cho giáo viên.

9


Việc xây dựng mô hình trường phổ thông đạt chuẩn Quốc gia bắt buộc
phải có giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ở tỉ lệ nhất định, do vậy điều này trở
thành động lực thúc đẩy giáo viên hăng hái tham gia các lớp bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ tại địa phương.
Các đề tài nghiên cứu về công tác bồi dưỡng giáo viên dường như chưa
được đề cập tới mà chỉ là được các nhà quản lý phân tích qua tài liệu các nước
và tổng hợp thành những kinh nghiệm lớn như sau:
* Về tổ chức bồi dưỡng giáo viên
Trong quá trình xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở giai đoạn có
sức ép nhu cầu về số lượng, người ta thường tập trung ngân sách và công sức
vào khâu đào tạo giáo viên mới, mở rộng mạng lưới và quy mô các trường đào
tạo. Khi nhu cầu số lượng giáo viên không còn gây sức ép lớn, nhiệm vụ đào
tạo của các Trường sư phạm thu hẹp dần, phải chuyển sang làm nhiệm vụ bồi
dưỡng là chính.
Nếu đặt BDGVG vào hệ thống đào tạo liên tục, có cách nhìn hợp lí giữa
hai nhiệm vụ ĐT và BD sẽ tránh được những khủng hoảng nói trên. Kinh
nghiệm cho thấy nên xây dựng một hệ thống tổ chức làm cả hai nhiệm vụ ĐT
và BD bằng cách mở rộng trung tâm chuyên lo việc tổ chức bồi dưỡng phát
triển đặt trong trường hoặc mở thêm các trung tâm vệ tinh để xúc tiến việc
BDGV trên địa bàn của mình, nhưng vẫn sử dụng chung đội ngũ giảng dạy với
hệ đào tạo.
* Về chương trình bồi dưỡng

Nội dung chương trình càng đáp ứng sát với nhu cầu giáo viên thì càng
được giáo viên hưởng ứng, tự nguyện tích cực tham gia thực hiện. Nhưng
chương trình BD áp đặt từ trên xuống, dù là do những chuyên gia có trình độ
soạn thảo, mà không phù hợp với đông đảo giáo viên cũng sẽ không mấy hiệu
quả. Bởi vậy người ta coi việc xây dựng nội dung chương trình “từ dưới lên”
dành cho những phần mềm khá rộng để các địa phương đáp ứng những yêu cầu

10


riêng của giáo viên trên từng địa bàn, bên cạnh những phần cứng quy định
chung cho cả nước trong từng chu kì BD.
* Về phương thức bồi dưỡng
Xu thế chung là giảm thiểu BD tập trung tại chỗ kết hợp với BD từ xa.
Để BD tại chỗ hiệu quả cao, cần làm tốt hai khâu:
+ Nâng cao chất lượng tài liệu BD, đặc biệt đổi mới cách biên soạn theo
hướng viết cho người tự học, trong đó học viên BD chủ động nắm vững mục
tiêu từng phần của chương trình, thực hiện các bài tập thông qua các hoạt động
mà nắm vững nội dung học tập, có thể đánh giá kết quả học tập đối chiếu với
từng mục tiêu từng phần của chương trình.
+ Xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán tại trường, đội ngũ này được lựa
chọn từ những giáo viên có đủ năng lực, uy tín về chuyên môn, nghiệp vụ,
được tập huấn trước khi triển khai bồi dưỡng. Kinh nghiệm cho thấy lực lượng
tại chỗ này nếu được chuẩn bị tốt sẽ hỗ trợ đắc lực cho đông đảo GV hoàn
thành chương trình BD, nhất là về mặt vận dụng lí thuyết vào thực tiễn dạy học
các môn học.
Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển nhanh, việc BD tại chỗ
ngày càng hiệu quả nếu kết hợp tốt BD từ xa. Kinh nghiệm những nước đã phát
triển giáo dục từ xa trong BDGV cho biết việc cung cấp tài liệu in cho BD tại
chỗ đắt gấp 100 lần so với việc cung cấp tài liệu ghi trên CD ROM, gấp 10 lần

tài liệu ghi trên đĩa mềm. việc sản xuất tài liệu ghi trên sóng phát thanh có thể
rẻ hơn các tài liệu in, việc sử dụng các chương trình truyền thanh thường là
miễn phí, băng ghi âm gửi theo đường bưu điện nhẹ cước phí hơn tài liệu in.
Chi phí cho bồi dưỡng từ xa có thể chỉ bằng 1/10 chi phí BD tập trung. Việc
phát triển BD từ xa trong BDGV đặc biệt có ý nghĩa với các vùng xa, vùng sâu,
mạng lưới trường thưa, qui mô trường nhỏ, phương tiện đi lại khó khăn.
Gần đây ở một số nước người ta đã chuyển một phần nội dung BD lên
mạng INTERNET. Việc phát triển BD từ xa tạo điều kiện cho học viên ở mọi

11


vùng miền của đất nước được tiếp xúc trực tiếp với tài liệu gốc, do các chuyên
gia đầu nghành trình bày, tránh được sự thất thoát, sai lệch thông tin trong mô
hình BD “thác nước” nhiều cấp: chuyên gia BD cho cốt cán cấp tỉnh, cốt cán
cấp tỉnh BD cho cốt cán cấp huyện, cốt cán cấp huyện BD cho cốt cán và giáo
viên cấp trường. Các băng đĩa hình được phân phát đến các trường, đến từng
giáo viên. Khi các phương tiện học từ xa còn đắt và chưa phổ biến, có thể hợp
tác liên trường hoặc theo cụm trường để sử dụng luôn phiên.
* Về đánh giá kết quả BDGV
Đây là khâu được quan tâm, nhưng nhìn chung chất lượng còn thấp, ít
kinh nghiệm được trao đổi. Người ta thường dùng các hình thức sau, được phối
hợp, bổ sung cho nhau:
+ Trắc nghiệm trước và sau khóa BD
+ Học viên BD tự đánh giá, xếp hạng khi kết thúc đợt BD
+ Giảng viên BD viết báo cáo đánh giá kết quả đợt BD
+ Phỏng vấn trực tiếp hoặc bằng phiếu các lực lượng tham gia BD:
chuyên gia xây dựng chương trình BD, cán bộ quản lý chỉ đạo BD, giảng viên,
học viên…
+ Cán bộ quản lý quan sát đánh giá chất lượng hoạt động và năng lực của

các giảng viên BD.
+ Cán bộ quản lý quan sát hoạt động dạy học của giáo viên đã dự khóa
BD để đánh giá tác dụng của BD đối với thực tiễn lớp học.
Các nước đều có một nhận xét chung là rất khó có một hệ thống đánh giá
thuận tiện và chính xác nên khó gắn kết quả BD với việc lên lương, đề bạt. Mặc
dù vậy đa số giáo viên vẫn thích dự các khóa BD vì họ có nhu cầu cải thiện vị
trí chuyên môn của mình trong đội ngũ và hy vọng việc BD sẽ giúp họ giảng
dạy được thuận lợi hơn. Nếu việc BD đáp ứng được đòi hỏi này thì sẽ được
giáo viên tự giác tham gia và có hiệu quả cao.
Có thể khẳng định: Vấn đề bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi trong nhiều năm
qua nhìn chung chưa được các nhà QLGD quan tâm nhiều, chưa được quan tâm

12


một cách thoả đáng và chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề quản lý bồi
dưỡng giáo viên dạy giỏi. Do đó, vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng nhằm
nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên dạy giỏi của nhà trường cần phải
nghiên cứu để đề ra những biện pháp hữu hiệu và có tính khả thi đáp ứng yêu
cầu về nâng cao số lượng, chất lượng GVDG, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của giáo dục trong giai đoạn mới.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lí
Quản lý là một chức năng lao động xã hội được bắt nguồn từ tính chất xã
hội của lao động, nó ra đời khi xã hội cần có sự chỉ huy, điều hành, phân công,
hợp tác, kiểm tra, chỉnh lý.
C.Mác coi quản lí là chức năng đặc biệt sinh ra từ tính chất xã hội hoá
lao động, là kết quả tất yếu của sự chuyển hoá quá trình lao động cá biệt, tản
mạn, độc lập hợp thành một quá trình lao động xã hội được phối hợp có tổ
chức. Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung tiến hành trên một quy

mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo những hoạt động của cá
nhân nhằm điều hoà các hoạt động đó và thực hiện chức năng chung.
Khái niệm quản lý được tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau đó là: Cai
quản, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra theo góc độ tổ chức.
Theo góc độ điều khiển thì quản lý là điểu khiển, điều chỉnh.
Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý (hay đối tượng quản lý) nhằm tổ chức, phối hợp hoạt
động của con người trong quá trình sản xuất để đạt được mục đích đã định.
Chẳng hạn: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định:
“ Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô
tương đối lớn đều cần đến sự quản lý”.
Theo Harld Koontz - 1994, trong tác phẩm “ Những vấn đề cốt yếu của
quản lý” thì :“ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm” [35]

13


Còn quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam về quản lý như sau:
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì: “ Quản lý là trông
coi, giữ gìn theo yêu cầu nhất định” hoặc “Quản lý là tổ chức và điều khiển
các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [41]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí là tác động có mục đính, có
kế hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể của những người lao động nói chung
là khách thể quản lí nhằm thực hiện mục tiêu đã dự kiến” [40]
Do đó, quản lí là một hoạt động của chủ thể quản lí nhằm thiết kế và tạo
ra môi trường mà ở đó có mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong hoạt động
lao động của xã hội nhất định để đạt được mục tiêu, dự kiến trong những điều
kiện, phương tiện và các hoạt động khác của xã hội.
Quản lý có tầm quan trọng đặc biệt đó là tính hiệu quả tối ưu trong các

hoạt động. Chất lượng quản lý được đánh giá ở chỗ cùng mục tiêu và kết quả
người quản lý giỏi sẽ đưa tập thể đạt đến nhanh hơn, ít tốn kém hơn và thoả
mãn yêu cầu đặt ra cho công tác quản lí.
Quản lí một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học...) với tư cách là
một hệ thống xã hội thì cần có cả một khoa học và nghệ thuật để tác động vào
hệ thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp
nhằm đạt tới các mục tiêu đề ra trong quá trình hoạt động.
* Các chức năng quản lý:
Quản lý cũng như các hoạt động khác đều có chức năng riêng của nó.
Quản lí có thể có rất nhiều chức năng khác nhau, nhưng cơ bản có thể xác định
quản lí có 4 chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
* Kế hoạch:
Đây là chức năng hoạch định, công việc đầu tiên của các nhà quản lí, xác
định mục đích, mục tiêu, nội dung, biện pháp, điều kiện... để tiến hành mọi
công việc. Với công việc đã có, nhà quản lí phối hợp các nguồn lực trong một
quy trình tổ chức nhất định để đạt được hiệu quả tối ưu.

14


* Tổ chức:
Tổ chức là quá trình gắn kết các thành tố, các bộ phận để đạt được mục
đích, hiệu quả trong việc thực hiện kế hoạch. Tổ chức gắn liền với phân công
và phân cấp. Hai yếu tố có tác động mang tính quyết định đến quy trình tổ chức
là cơ chế và năng lực của nhà quản lí. Có tổ chức thì bộ máy của một cơ quan,
tập thể... mới hoàn thành tốt và đạt hiệu quả cao.
* Chỉ đạo:
Xem như chỉ đạo là một công việc của một “nhạc trưởng”, người lãnh
đạo dẫn dắt, hướng dẫn, điều chỉnh mọi liên kết, mọi hoạt động của tổ chức
trong đơn vị để hoàn thành những mục tiêu đã vạch ra. Nhà quản lí, chỉ đạo

điều hành các văn bản, quyết định hành chính và tôn trọng nguyên tắc dân chủ
trong điều hành.
* Kiểm tra:
Thực tế muốn biết được hiệu quả của việc điều hành, vận hành của bộ
máy nhà nước, một tổ chức... thì vấn đề không thể thiếu được đó là công tác
kiểm tra của người quản lí. Có thể nói không thanh tra, kiểm tra, coi như không
quản lí. Tác động của kiểm tra là để uốn nắn, điểu chỉnh đánh giá và tự điểu
chỉnh cho một chu kỳ hoạt động. Vậy muốn kiểm tra đúng thực chất thì phải có
chuẩn. Nó là các thước mà người thực hiện và người đánh giá phải tuân theo.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Xét về mặt lịch sử khoa học thì khoa học quản lí giáo dục ra đời sau
khoa học quản lí kinh tế. Cho nên các nước tư bản chủ nghĩa, người ta thường
vận dụng lí luận quản lý xí nghiệp vào quản lý cơ sở giáo dục (trường học) và
cơ sở quản lý giáo dục như quản lý một xí nghiệp đặc biệt.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy
mảng công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [11, tr.04]

15


Quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội, nó
đã xuất hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Với nhiều cách tiếp cận
khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm quản lý giáo dục như sau:
Theo M.I.Kenđacop: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp độ khác nhau
đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục cho sự phát
triển thể lực và tâm lý trẻ em” [34, tr.110].

Ở Việt Nam tác giả Phạm Minh Hạc đã đưa ra một nội dung khái quát
nhưng vẫn cụ thể, hợp lý và dễ hiểu: “Quản lý giáo dục là quản lý trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với nghành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng
học sinh” [28].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
các tính chất của nhà trường, xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất [40, tr. 22]
Để thực hiện quá trình quản lí giáo dục, chủ thể quản lí tác động vào toàn
bộ lực lượng giáo dục và các điều kiện giáo dục nhằm tổ chức và phối hợp các
lực lượng giáo dục, sử dụng một cách đúng đắn và có hiệu quả các nguồn lực,
phương tiện, đảm bảo thực hiện mục tiêu về số lượng và chất lượng của hoạt
động giáo dục. Quản lí giáo dục là một chuỗi các hoạt động mang tính kế
hoạch, tính mục đích, là tổ chức các hoạt động quản lí thông qua các hoạt động
dạy học, giáo dục và phục vụ giáo dục của chủ thể quản lí đến đối tượng quản

16


lí, bằng những cơ chế thiết chế và hệ thống nguyên tắc pháp quy, các nguyên lí
về sư phạm, tâm lí, xã hội.
Trên địa bàn lãnh thổ: tỉnh, huyện, xã, chủ thể quản lí giáo dục là UBND
các cấp và đại diện chuyên ngành cho Uỷ ban nhân dân các cấp là Giám đốc,
Trưởng phòng, Hiệu trưởng thuộc các đơn vị tương ứng. Vậy khách thể ở đây
là các yếu tố, hệ thống giáo dục quốc dân tương ứng liên quan đến từng cấp
lãnh thổ.

Từng đơn vị trường học chủ thể quản lí các trường là Hiệu trưởng, tập
thể ban giám hiệu mỗi trường. Khách thể quản lí là các yếu tố, thành viên, bộ
phận cùng toàn bộ các điều kiện vật chất kĩ thuật phục vụ cho hoạt động của
nhà trường.
1.2.3. Giáo viên dạy giỏi
GV giỏi là những giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, đủ sâu
sắc và có tính phát triển thuộc chuyên ngành đào tạo. Có kiến thức và kĩ năng
nghiệp vụ sư phạm, có năng lực trong hoạt động thực tiễn; có khả năng hành
nghề sư phạm đạt kết quả hay có tính hiệu nghiệm cao; có thể đảm đương được
các vai trò mới trong một môi trường sư phạm đang biến đổi.
GV giỏi tiểu học là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục
nhằm đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng phát triển nhân tài cho đất nước.
Chức năng đặc thù của giáo viên giỏi là phát hiện bồi dưỡng những học
sinh có tư chất thông minh, đạt kết quả suất sắc trong học tập và phát triển năng
khiếu của các em trên cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện.
GV dạy giỏi tiểu học là nhân tố quan trọng trong việc tạo điều kiện cơ
bản để nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho tương lai.
1.2.4. Bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi
- Bồi dưỡng là làm tăng thêm trình độ hiện có của đội ngũ giáo viên để
đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của công việc. Bồi dưỡng giáo viên là làm tăng
thêm năng lực (kiến thức, kĩ năng, thái độ nghề nghiệp) với nhiều hình thức,
mức độ khác nhau hướng tới chuẩn xác định.

17


×