Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Báo cáo lí luận đề tài tính phù hợp của hệ thống pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.91 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước chúng ta đang từng ngày từng ngày bước vào kỷ nguyên phát triển,
bắt đầu chuyển mình dần dần hội nhập với quốc tế. Với sự phát triển vượt bậc của
thành tựu khoa học hiện đại ngày nay càng hứa hẹn hơn nữa sự bức phá ngoạn mục
của đất nước ta trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì lí do đó trong
tương lai có thể thấy Xã Hội của chúng ta cũng sẽ có những chuyển biến đáng kể
cả về mặt đối ngoại lẫn đối nội. Nhưng chắc rằng cũng sẽ phát sinh thêm nữa
những khó khăn khi những hành vi tiêu cực trong xã hội ngày gia tăng vì thế lúc
này pháp luật hơn bao giờ hết thấy được tầm quan trọng của nó. Nhưng một quốc
gia mà có ngành luật “ Tốt” thì nó sẽ giúp cho cho đất nước đó càng phát triển hơn
còn một đất nước mà có hệ thống pháp luật “ Không tốt” hay không phù hợp với
tình hình xã hội hiện tại thì nó lại sẽ trở thành thứ kìm hãm lại sự phát triển của đất
nước đó. Nhưng để đánh giá được một ngành luật nào đó chúng ta cần phải dựa
trên những phương diện gì ? Khía cạnh nào? Để có thể biết nó có phù hợp hay
không?
Vâng và đó là vấn đề hôm nay nhóm em muốn nhắc đến trong bài báo cáo
về một trong những tiêu chí để đánh giá một hệ thống pháp luật nào đó. Để đánh
giá một hệ thống pháp luật thì có nhiều tiêu chí như tính phù hợp, tính toàn diện,
tính đồng bộ và thống nhất, tính ổn định, ... Và như chúng ta đã thấy bất cứ thứ gì
chẳng hạn như chúng ta chọn ngành học cũng vậy nó phải phù hợp với sở thích,
khả năng, năng lực, trình độ... thì khi học chúng ta mới có thể phát huy được hết
khả năng của mình và đem lại kết quả tốt nhất. Vì thế mọi sự vật sự việc trong
cuộc sống cũng vậy nếu chúng ta biết chọn lựa sắp xếp phù hợp nó sẽ mang lại
những hiệu quả cao nhất. Từ đó làm bật lên tầm quan trọng của “ Tính phù hợp”
trong đời sống và càng không thể thiếu tính này khi đánh giá một hệ thống pháp
luật nào đó . Và đây cũng chính là chủ đề của nhóm em hôm nay, Chủ đề: “ Tính
phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam”.
I. Khái niệm của “ Tính phù hợp với các điều kiện xã hội”:
Hiệu quả của hệ thống pháp luật không thể đánh giá thông qua việc nó ghi
nhận “càng nhiều càng tốt” những ước muốn hướng thiện của nhà lập pháp. Một hệ
thống pháp luật hoàn thiện là hệ thống pháp luật phù hợp với đời sống xã hội trong


phạm vi điều chỉnh của nó. Một mặt, nó phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội theo đường lối chính trị. Mặt khác nó phải phù hợp với các yếu tố khác như
lịch sử, đạo đức, tập quán, phong tục, tâm lý dân tộc, trình độ dân trí của quốc gia,
đồng thời phải có tính khả thi.
Ví dụ: Trong phần thừa kế của Bộ Luật Dân Sự có quy định về việc thừa kế
theo di chúc mà những chủ thể pháp luật quy định mà nội dung di chúc để lại

1


không phù hợp thì lúc này luật sẽ điều chỉnh lại sau cho có sự phù hợp hài hòa giữa
các chủ thể trong quan hệ pháp luật này ( Điều 669_ Bộ Luật Dân Sự 2005 ).
II.Tính phù hợp của hệ thống pháp luật hiện nay:
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nước Việt Nam ta trải qua năm bản hiến
pháp kể từ khi thống nhất đất nước đến giờ cũng có nhiều bộ luật mới được ban
hành, thay thế hay sửa đổi... thì nhìn chung tất cả đều hướng đến ngày càng làm
sao cho hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn thống nhất hơn để
có thể là “ Kiến trúc thượng tầng” phía trên cao đồ sộ bổ sung làm nền và củng cố
cho “ Cơ sở hạ tầng” phía dưới giúp đất nước ngày càng phát triển và giảm thiểu
tối đa được các hành vi tiêu cực trong xã hội. Khi nói về tính phù hợp của hệ thống
pháp luật Viêt Nam thì gồm nhiều ngành luật đan xen nhau có mối liên hệ chặt chẽ
bổ sung cho nhau và đều có những chức năng nhiệm vụ riêng cho từng ngành luật.
Nhưng một số ngành luật giữ vai trò chủ chốt chi phối toàn bộ cho các ngành luật
quan trọng ở Việt Nam và làm khung cơ sở cho tính phù hợp của hệ thống pháp
luật Việt Nam là: Ngành luật Hiến Pháp, Ngành luật Dân Sự, Ngành luật Hình
Sự,... đây đều là những một trong những ngành luật chủ đạo của đất nước.
2.1 Trong nghành luật Hiến pháp
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nội dung của hệ thống pháp luật
luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế xã hội, điều kiện chính trị của
đất nước, đường lối, chính sách của Đảng và các điều ước Quốc tế
Hệ thống pháp luật hiện nay mà điển hình là Hiến pháp đã tương đối phù hợp

a) Xét về mặt kinh tế - xã hội:
So với các bản Hiến Pháp trước, các quy phạm pháp luật trong Hiến Pháp 2013
đã có nhiều điểm mới phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
đồng thời tạo điều kiện cho pháp luật được thực hiện dễ dàng góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế- xã hội. Cụ thể như sau:
• Lao động và việc làm là một trong những quyền trọng tâm của hệ thống quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã
thay thế những quy định dài dòng, mang tính hô hào, “khẩu hiệu” về lao động, việc
làm trong Điều 55, 56 Hiến pháp năm 1992, thay vào đó là những quy định thực
chất hơn, rõ ràng hơn, đặc biệt là bám sát các điều khoản liên quan trong Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Cụ thể, theo Điều 35 Hiến
pháp năm 2013 thì quyền về lao động, việc làm bao gồm: quyền làm việc, lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc
công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Điều 35 Hiến pháp năm
2013 quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân
công dưới độ tuổi lao động… Những quy định mới và rõ ràng này trong Hiến pháp
năm 2013 có giá trị xã hội to lớn bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong
2


điều kiện phân công lại lao động xã hội, tái cấu trúc nền kinh tế và hội nhập kinh tế
thế giới đang diễn ra sôi động trên đất nước ta.
• Điều 10 Hiến pháp năm 2013 quy định Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính
trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở
tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ,
kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị trí, vai
trò của Công đoàn Việt Nam đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1959, 1980 và

1992. Điều 10 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của tổ chức
đại diện người lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay ở nước ta. Trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội đất
nước, việc khẳng định và phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn có ý nghĩa to lớn.
Một mặt, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, mặt khác tạo cơ chế để
Công đoàn tham gia chủ động và tích cực vào các quan hệ lao động, đặc biệt là
quan hệ ba bên Nhà nước - doanh nghiệp - người lao động, đáp ứng những yêu cầu
bảo vệ người lao động trong nền kinh tế thị trường và trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Nếu như tại Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 trước đây quy định: “ Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và Điều 147 quy định:
“Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” thì tới Hiến pháp năm 2013 đã
bỏ một số nội dung trên và thay vào đó là quy định về sự kết hợp giữa thẩm quyền
lập hiến của Quốc hội, sáng kiến lập hiến của các cơ quan Nhà nước, của đại biểu
Quốc hội với quyền lập hiến của nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân về Hiến
pháp tại khoản 4 Điều 120 “…việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội
quyết định”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
khẳng định mạnh mẽ chủ quyền nhân dân.

Điều 57
1.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho
người lao động
2.
Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng
lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.

Điều 58
1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc

sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
3


2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người
mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
b) Xét về mặt chính trị, ngoại giao:
Hiến pháp 2013 cũng đã có nhiều điểm mới phù hợp với điều kiện chính trị
của đất nước, các đường lối chính sách của Đảng và các điều ước của Quốc Tế
như;

Nếu Hiến pháp năm 1992 (Điều 6) quy định nhân dân chỉ thông qua hình
thức dân chủ đại diện thì Hiến pháp năm 2013 (Điều 6) quy định rõ những cách
thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Quy định này của Hiến pháp năm 2013 đặt nền tảng cho việc hoàn thiện một
hình thức dân chủ cao nhất là chế định bầu cử, qua đó, thực hiện đầy đủ hơn, thực
chất hơn quyền bầu cử của công dân và trách nhiệm của đại biểu dân cử.

Chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp là nhân dân; Điều 2 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân
dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…

Hiến pháp năm 2013 xác định nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước là phải bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện (Điều 3); trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, viên chức là phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân

dân (Điều 8).

Đáng chú ý là khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung “ kiểm soát”
vào thiết chế tổ chức quyền lực để bảo đảm tổ chức bộ máy được tổ chức có hiệu
lực, hạn chế lạm quyền dẫn đến vi phạm quyền con người, quyền công dân:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.

Điều 12 hiến pháp 2013 cũng đã nhấn mạnh sự phù hợp của pháp luật nước
ta với các điều ước quốc tế.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia,

4


dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
c) Xét về mặt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
Hiến pháp 2013 cũng đã có rất nhiều điểm mới phù hợp với quyền,nghĩa vụ thực tế
của con người và phù hợp với các công ước Quốc Tế về nhân quyền
• Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương là “Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ của công dân”, so với tên gọi cũ của Chương này trong Hiến pháp năm 1992 là
“quyền và nghĩa vụ công dân”. Từ xác định tên Chương, Hiến pháp năm 1992 chỉ

bàn chủ yếu đến quyền công dân, chưa bao quát hết nội dung cần có là quyền con
người. Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục nhược điểm này, đã hiến định những yêu
cầu cơ bản về bảo đảm quyền con người và quyền công dân, trong đó quyền con
người lần đầu tiên được đưa vào tên Chương ở cụm từ đầu tiên trong tên gọi của
Chương.
• . Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm cùng loại, đồng dạng
nhưng không đồng nhất mà có những giá trị xã hội khác nhau. Hiến pháp năm
2013 không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân như ở Điều 50
Hiến pháp năm 1992 khi quy định quyền con người “…thể hiện ở quyền công
dân”. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng cả 2 thuật ngữ “quyền con người” và
“quyền công dân” với những nội dung được xác định rõ ràng, thể hiện các quyền
và tự do hiến định để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Quan
điểm khẳng định mạnh mẽ giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp năm 2013 là một quan điểm được đồng thuận cao trong
lần thảo luận để ban hành Hiến pháp lần này ở Việt Nam.
• Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chủ thể quyền là công dân thì Hiến pháp
năm 2013 quy định chủ thể quyền không chỉ là công dân mà quyền của con người,
của mọi người, quyền của mỗi người đều có chứ không chỉ công dân. Như vậy, với
những quyền này, không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả, mọi người, mỗi người
với tư cách thành viên xã hội, người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ Việt Nam…
cũng được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền con người. Hiến pháp
năm 2013 xác định rất rõ ràng về tính riêng biệt của quyền con người, quyền công
dân. Trong 36 điều của Chương II khi dùng “mọi người” tức là chủ thể của quyền
con người, bao gồm cả công dân. Quyền con người nói chung (bao gồm cả công
dân) được nhắc đến trong “mọi người”, trong tất cả những “không ai”, “tổ chức, cá
nhân”, “Người Việt Nam ở nước ngoài”, “người nước ngoài cư trú ở Việt Nam”.
Trong tất cả những điều khoản không nhắc đến chủ thể hoặc đối tượng cụ thể thì
đều được hiểu chủ thể của quyền không chỉ là công dân. Những quy định mới này
phù hợp với Luật nhân quyền quốc tế, các điều ước quốc tế về nhân quyền và với
chủ trương, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng, Nhà nước

Việt Nam.

5


• Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng ở Điều 50, thì Hiến
pháp năm 2013 đã mở rộng ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước là nghĩa vụ tôn
trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền con người. Quy định
này được thể hiện trong các Điều 3 và Điều 14 Hiến pháp năm 2013 tương ứng với
các quy định về nghĩa vụ quốc gia trong Luật nhân quyền quốc tế. Sự bổ sung mới
này của Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ bảo đảm sự hài
hòa giữa pháp luật Việt Nam với luật nhân quyền quốc tế mà còn tạo cơ sở hiến
định ràng buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những
nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước về quyền con người, quyền công dân trong
thực tế, đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm thực hiện chứ không chỉ là tôn
trọngchung chung như cách hiểu của Điều 50 Hiến pháp năm 1992.
• Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại
khoản 2 Điều 14 mà trong các Hiến pháp trước đây quy định chưa rõ. Đây là
nguyên tắc đã được nêu trong Luật nhân quyền quốc tế và trong Hiến pháp của một
số quốc gia, chẳng hạn tại Điều 29 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948, Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 và
một số điều trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
3/Đề xuất xây dựng tính phù hợp:
 Trong xã hội Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp khác nhau và lợi

ích của họ cũng khác nhau. Vì vậy để đảm bảo xã hội phát triển ổn định hơn thì đòi
hỏi pháp luật phải quy định một cách hài hòa, phù hợp với lợi ích của tất cả. Các
nhà làm luật phải quy định sao cho tương quan giữa lợi ích của các tầng lớp xã hội
khác nhau, phải làm sao cho lợi ích của giai cấp này không xung đột với lợi ích của
giai cấp khác.

 Vd: Trong các trường hợp thu hồi đất vì lợi ích chung của nhà nước, thì pháp
luật phải quy định các chính sách đền bù sao cho phù hợp và thỏa đáng với lợi ích
của người dân. Điều 54 Hiến pháp 2013- “ Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá
nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu
hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp
luật”. Nếu không có những đền bù thỏa đáng thì sẽ làm cho người dân xa rời nhà
nước và pháp luật.
 Trong xã hội ngoài pháp luật còn có các công cụ khác như đạo đức,phong tục
tập quán,tín điều tôn giáo,….. những công cụ này cùng pháp luật luôn có tác động
rất lớn lên các quan hệ xã hội Sự tác động của các quy phạm khác nhau lên các
quan hệ xã hội luôn không đơn giản, chúng có liên quan, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Do vậy, hệ thống pháp luật nhà đòi hỏi phải phù hợp với phong tục tập quán,
thuần phong mỹ tục của đất nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc phù hợp với giá
trị đạo đức văn hóa cao đẹp của đất nước.
6


 Ví dụ: Bộ luật Hình Sự nghiêm cấm các hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến
thân thể, nhân phẩm, danh dự,...
2.2 Ngành luật Dân Sự:
a. Những hạn chế cơ bản trong quy định tại Phần “Tài sản và quyền sở hữu”
- Thứ nhất, chưa bao quát hết các loại quyền đối với vật (vật quyền) đang tồn tại
một cách khách quan trong nền kinh tế nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ, trong
Phần này chỉ tập trung quy định về quyền sở hữu (với tư cách là loại vật quyền
trọng tâm, quan trọng và phổ biến nhất của hệ thống vật quyền) mà có ít quy định
về các loại vật quyền khác mà thế giới gọi là các vật quyền hạn chế, còn ở nước ta
thì gọi là quyền của người không phải là chủ sở hữu tài sản (Điều 173 Bộ luật dân
sự năm 2005);
- Thứ hai, việc xác định các hình thức sở hữu trong BLDS hiện hành là chưa khoa

học, tạo ra sự phức tạp không cần thiết trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các
hình thức sở hữu này. Theo Bộ luật hiện hành, ở nước ta có 6 hình thức sở hữu,
bao gồm: (1) sở hữu nhà nước; (2) sở hữu tập thể; (3) sở hữu tư nhân; (4) sở hữu
chung; (5) sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (6) sở hữu của tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Việc phân chia hình thức sở hữu dựa vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ của các
chủ thể như vậy là không hợp lý, cần phải thay đổi. Trên thực tế, ở Việt Nam cũng
như ở nhiều nước trên thế giới, chỉ có 3 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu nhà
nước, sở hữu riêng và sở hữu chung;
- Thứ ba, còn có sự không thống nhất trong việc đặt tên cho quyền sở hữu đối với
một số tài sản đặc biệt như đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý với tư cách là
tài sản công. Cụ thể là, theo BLDS hiện hành thì các tài sản này thuộc sở hữu nhà
nước (Điều 200), trong khi đó, theo Hiến pháp thì các tài sản này lại thuộc sở hữu
toàn dân, do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53);
- Thứ tư, một số hình thức sở hữu trên thực tế là không tồn tại, ví dụ, sở hữu tập
thể. Cần phải nghiên cứu để quyết định việc tiếp tục duy trì hay bỏ hình thức sở
hữu này trong BLDS mới;
- Thứ năm, BLDS hiện hành đã ghi nhận các hình thức sở hữu như sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể nhưng chưa quy định đầy đủ các cơ chế pháp lý cụ thể để thực
thi một cách hiệu quả các hình thức sở hữu này. Trên thực tế, mặc dù được quy
định trong BLDS nhưng các hình thức sở hữu này lại được ghi nhận và thực thi
thông qua một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác như pháp luật về
doanh nghiệp nhà nước; về hợp tác xã; về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; về đất
đai; về đầu tư... Hậu quả là, BLDS chưa đóng được vai trò là nguồn pháp luật cơ
bản về chế định sở hữu ở Việt Nam;

7



- Thứ sáu, tên gọi Phần thứ hai của BLDS hiện hành không tương ứng với nội
dung chứa đựng trong Phần này. Ngoài quyền sở hữu thì trên thực tế, BLDS đã
quy định về các loại vật quyền khác như quyền sử dụng đất, địa dịch, .... Do đó,
phải thay đổi tên gọi mới cho phù hợp, theo hướng, tên gọi của Phần thứ hai phải
là “Vật quyền” hoặc một tên gọi khác chứ không thể là “Tài sản và quyền sở hữu”
như hiện hành.
b. Một số hạn chế cơ bản trong phần “những quy định chung” của bộ luật hiện
hành thể hiện tính không phù hợp của pháp luật
chưa tạo được cơ chế pháp lý phù hợp để bảo đảm tính khái quát, tính dự báo và
tính khả thi trong quy định của Bộ luật dân sự, qua đó chưa bảo đảm được hài hòa
giữa yêu cầu về tính ổn định của Bộ luật và yêu cầu về đáp ứng kịp thời sự phát
triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật dân sự
chưa tạo được cơ chế pháp lý đầy đủ, phù hợp để kịp thời công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của người dân, nhất là cơ chế tôn trọng, bảo vệ
quyền dân sự khi không có quy định của Luật, trong áp dụng các phương thức bảo
vệ quyền dân sự và trong bảo vệ người yếu thế, người thiện chí, ngay tình trong
quan hệ dân sự
trong các quy định cụ thể nhiều nội dung còn chưa phù hợp với thực tiễn giao lưu
dân sự ở nước ta và yêu cầu về hội nhập quốc tế
Một số ví dụ cụ thể
+ Về người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 62
BLDS ): trong thực tiễn xét xử, có rất nhiều trường hợp người vợ hoặc người
chồng xin ly hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự, theo quy định tại
Điều này thì người vợ, người chồng đó lại là người giám hộ cho người mất năng
lực hành vi dân sự. Như vậy, người xin ly hôn có thể nói là “vừa đá bóng, vừa thổi
còi”, rất dễ gây thiệt hại cho người bị mất năng lực hành vi dân sự, quyền lợi của
người được giám hộ sẽ không được bảo đảm. Như vậy, điều luật này chỉ có ý nghĩa
đối với trường hợp người giám hộ thực sự vì quyền lợi của người được giám hộ
mất năng lực hành vi dân sự đối với người thứ ba mà không dự liệu được các quan

hệ liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ giữa người giám hộ và người được giám hộ bị
mất năng lực hành vi dân sự
+ Về giao dịch dân sự: Điều 130 BLDS quy định “khi giao dịch dân sự do người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện người
đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu…”, như vậy, khi xác lập giao dịch loại
này thì chỉ có người đại diện của người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân
sự mới có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch đó vô hiệu, điều này có vẻ không công
bằng đối với người đã xác lập giao dịch với người chưa thành niên, mất năng lực
8


hành vi dân sự, hoặc loại bỏ quyền của những người có liên quan khác đến giao
dịch này.
+ Về đại diện theo uỷ quyền: Điều 143 BLDS quy định “1. Cá nhân, người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự” điều luật chỉ giới hạn hai chủ thể của pháp luật dân sự là cá
nhân và pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác trong khi chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự ngoài hai chủ thể nêu trên thì còn nhiều chủ thể khác như hộ gia
đình, tổ hợp tác. Vậy đại diện theo pháp luật của các chủ thể này có thể uỷ quyền
cho người khác hay không? Phạm vi uỷ quyền chỉ trong việc xác lập và thực hiện
giao dịch dân sự. Ngoài việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì các việc khác
như thay đổi, chấm dứt giao dịch dân sự có được thực hiện hay không?
+ về quy định bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện:Theo quy định tại Điều 162 BLDS,
khi có một trong các căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 162
BLDS thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại. Tuy nhiên, do Điều luật không quy
định rõ khi hết thời hiệu mà xuất hiện các căn cứ tại các điểm a, b và c khoản 1
Điều 162 BLDS thì có tính lại hay không nên đã dẫn đến vướng mắc
c. Những hạn chế cơ bản trong quy định tại Phần thứ ba “Nghĩa vụ và hợp đồng”
Qua thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy, quy định tại Phần này còn có những bất

cập, hạn chế nhất định, như:
- Một số quy định còn làm thay các luật riêng trong điều chỉnh quan hệ dân sự cụ
thể hoặc thiếu quy định để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh đối với những vấn đề mới
phát sinh trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống nhân
dân, dẫn tới chưa bảo đảm được tính bao quát, ổn định trong quy định của Bộ luật;
- Một số quy định không phù hợp với thực tiễn giao lưu dân sự hoặc chưa đáp ứng
được yêu cầu của hội nhập quốc tế.
- Hiện nay nền kinh tế của nước ta đang hội nhập với khu vực và thế giới, vì vậy
hệ thống pháp luật về hợp đồng cần phải có tính tương đồng với pháp luật các
nước. Trong quy định về trách nhiệm dân sự do không chấp hành nghĩa vụ theo
hợp đồng không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường, vì thiệt hại
trong kinh doanh có thể là cơ hội kinh doanh bị mất và các loại thiệt hại khác có
thể xẩy ra. Trong khi đó PICC (Nguyên tắc hợp đồng trong thương mại quốc tế của
UNIDROIT) và CISG (Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế) Điều
7.4.2.PICC quy định: "Bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên kia bồi thường toàn
bộ những tổn thất gây ra do việc không thực hiện hợp đồng. Những tổn thất này
bao gồn tổn thất phải gánh chịu và những lợi ích đáng lẽ phải có từ việc thực hiện
hợp đồng có tính đến những chi phí tổn thất mà bên vi phạm tránh được".
- Trong Phần Nghĩa vụ và hợp đồng còn những quy định chưa phù hợp với thực
tiễn như quy định về lãi suất tại Điều 476 về lãi quá hạn bằng lãi suất cơ bản, quy
định này chưa phù hợp, bởi lẽ lãi trong hạn cho phép vượt 150% lãi suất cơ bản,
9


nhưng lãi quá hạn bằng lãi suất cơ bản. Điều này dẫn đến hậu quả người vay cố
tình không trả nợ đúng hạn để trả lãi suất thấp hơn lãi suất đi vay...
d. Những hạn chế cơ bản trong quy định tại Phần thứ tư” Thừa kế”
- Khoản 3 - Điều 642 BLDS quy định: “Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng,
kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối
nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế”. Quy định này rất khó áp dụng

vào thực tế vì thường các vụ tranh chấp về thừa kế khởi kiện là sau 06 tháng kể từ
ngày thừa kế mở. Lúc này thì mới phát sinh việc ai muốn hoặc từ chối nhận thừa
kế. Trong trường hợp nếu một người liên quan trong vụ án thừa kế có văn bản từ
chối nhận kỷ phần thừa kế của mình thì Tòa án áp dụng Điều 642 không chấp nhận
yêu cầu này với lý do đã quá thời hạn 06 tháng nên đương sự không được quyền từ
chối. Như vậy là không thuyết phục và can thiệp quá sâu vào quyền của đương sự.
- Khoản 2 - Điều 664 BLDS quy định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung,
thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một
người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần
tài sản của mình”. Trên thực tế, khi lập chung di chúc, vợ chồng thường định đoạt,
phân chia tài sản cho các thừa kế thường là không đều nhau như khi Tòa chia thừa
kế. Tài sản chung của vợ chồng là hợp nhất nên không thể xác định phần tài sản
của mỗi người (vợ/chồng) cụ thể là tài sản nào; tài sản của chồng là cho ai, tài sản
của vợ là cho ai. Do đó, nếu một người đã chết, người còn lại thay đổi di chúc thì
coi như toàn bộ di chúc không có giá trị pháp lý vì không thể xác định được di
chúc có hiệu lực ½ là như thế nào. Trong trường hợp nếu người còn sống có tài sản
riêng thì khi lập di chúc phần tài sản riêng của họ cũng sẽ được nhập vào phần tài
sản chung và được phân chia cụ thể. Do đó, nếu người còn sống được quyền thay
đổi di chúc đối với phần tài sản của mình thì nội dung di chúc sẽ không còn đúng
với ý chí, nguyện vọng, định đoạt của người đã chết.
- Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời
điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Quy định này
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người vợ / chồng còn sống, giúp cho tài sản chung
không bị phân chia ngay sau khi có một người chết trước. Tuy nhiên, qua thực tế
xét xử các vụ án tranh chấp thừa kế, nhận thấy quy định này cũng bộc lộ hạn chế.
Đó là, sau khi một người chết, người vợ (chồng) còn lại có thể còn sống 5 năm, 10
năm hoặc lâu hơn. Trong khi đó người sẽ được hưởng thừa kế đang có hoàn cảnh
rất khó khăn, chờ đến khi người còn lại chết rồi mới được hưởng phần di sản thừa
kế thì cũng bất cập. Thiết nghĩ, cần phải cân bằng lợi ích của các bên khi xét đến
quy định này.

e.Tính phù hợp trong luật Dân Sự:

Quy định thời hiệu về thừa kế trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi phù hợp
với thực tiễn xã hội
10


Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi có quy định mới về thời hiệu thừa kế được
dư luận đồng tình. Thay vì từ chối, tòa vẫn phải thụ lý, giải quyết và tuyên bố
đương sự được hưởng quyền dân sự hay miễn trừ nghĩa vụ dân sự…
Quyền thừa kế là vấn đề quan trọng trong cuộc sống, vì vậy trong thực tiễn
xã hội hiện nay, việc tranh chấp thừa kế phức tạp và dai dẳng hiện đang là vấn đề
pháp lý và xã hội đáng quan tâm, trong đó có nội dung liên quan đến thời hiệu về
thừa kế.
Quy định về thời thiệu thừa kế, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền
thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Theo quy định này, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời
điểm người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế
yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế
của người khác. Và sau thời hạn là 3 năm, cá nhân, tổ chức không còn quyền khởi
kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.
Quy định trên đang tồn tại một bất cập là có nhiều tài sản thừa kế bị tranh
chấp nhưng do hết thời hiệu khởi kiện nên bị "treo" và người thừa kế tài sản không
thể đăng ký quyền sở hữu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như
người thừa kế không nắm rõ các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia
thừa kế, xuất phát từ tình cảm gia đình, họ tộc, do điều kiện khách quan, trong đó
có nguyên nhân là xuất phát từ sự ràng buộc về đạo lý, truyền thống của dân tộc

Việt Nam.
Bởi, theo đạo lý, truyền thống dân tộc Việt Nam thì con cái không dám yêu
cầu chia thừa kế khi cha hoặc mẹ còn sống hoặc cha, mẹ qua đời trong thời gian
ngắn vì sợ rạn nứt tình cảm gia đình hoặc dư luận xã hội chê trách khi đề cập đến
vấn đề chia thừa kế trong gia đình, dòng họ. Tuy nhiên, theo quy định của pháp
luật thì việc chia thừa kế phải tuân theo thời hiệu do pháp luật quy định.
Chính vì Bộ luật Dân sự hiện hành quy định thời hiệu khởi kiện thừa kế quá
ngắn (10 năm) nên buộc các con phải lựa chọn: Yêu cầu giải quyết thừa kế trong
thời hiệu và mang tiếng con, em bất hiếu tranh giành của cải cha mẹ, làm sứt mẻ
tình cảm gia đình hoặc chấp nhận có thể mất quyền khởi kiện vì hết thời hiệu theo
quy định.
Khắc phục những khiếm khuyết này, dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi quy
định thời hiệu về thừa kế theo hướng xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam
kết thỏa thuận. Vì vậy, việc hết thời hiệu khởi kiện không có nghĩa là mất quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án như trước đây. Đây chính là điểm mới, tiến bộ,
tiếp cận theo xu hướng hội nhập về thời hiệu nói chung và thời hiệu về quyền thừa
kế nói riêng.
Theo dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, đối với việc xác định thời hiệu liên
quan đến sở hữu bất động sản là 30 năm, còn động sản là 10 năm, trừ trường hợp
11


pháp luật khác có quy định riêng. Điểm mới đáng lưu ý trong thời hiệu về thừa kế
là quá thời hạn trên, nếu di sản đang thuộc người thừa kế quản lý thì thuộc quyền
sở hữu của họ.
Nếu người quản lý di sản không phải là người thừa kế thì phân thành 2
trường hợp: Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu hoặc được lợi
một cách ngay tình, liên tục, công khai và phù hợp pháp luật thì họ trở thành chủ
sở hữu; nếu không có người khác chiếm hữu hoặc được lợi về di sản thì di sản
thuộc về Nhà nước.

Với quy định này, sẽ giải quyết được nhiều vướng mắc trong giải quyết
tranh chấp thừa kế hiện nay. Đồng thời, quy định này cũng hạn chế tình trạng Tòa
án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết sự việc, góp phần cụ
thể hóa và triển khai thi hành Khoản 3, Điều 102 Hiến pháp năm 2013, theo đó,
"Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân".

Việc quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong dự thảo Bộ luật
Dân sự là phù hợp.
Bộ luật Dân sự hiện hành quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao
gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác… Thực tiễn áp dụng đã cho thấy,
quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong Bộ luât Dân sự hiện hành đã
bộc lộ nhiều vấn đề bất cập.
Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự là cá nhân và pháp nhân; đồng thời, có một số quy định riêng về việc tham gia
quan hệ pháp luật dân sự của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, các tổ chức
khác không có tư cách pháp nhân (từ Điều 119 đến Điều 121); một số quy định
riêng về việc tham gia quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan
Nhà nước ở Trung ương và ở địa phương (từ Điều 115 đến Điều 118).
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau về quy định chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự, nhưng xét trên bình diện tổng thể thì việc quy định chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi là phù hợp nhất, có thể lý
giải ở các khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, các thành viên của hộ gia đình thường xuyên có sự thay đổi (do
tách, nhập, sinh, tử, kết hôn...) nên việc xác định thành viên của hộ gia đình khi có
tranh chấp để xác định quyền và nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn. Việc xác định "tài
sản chung", "lợi ích chung" của hộ gia đình khi tham gia quan hệ dân sự là rất khó
khăn; nhất là, việc xác định trách nhiệm dân sự của cá nhân hay trách nhiệm dân sự

của hộ gia đình…

Theo đó, không nên ghi nhận hộ gia đình là một chủ thể độc lập của quan hệ
pháp luật dân sự vì đặc tính thiếu ổn định và bền vững của hộ gia đình cũng như
khó xây dựng các quy định để điều chỉnh các quan hệ nội bộ giữa các thành viên
trong gia đình. Mặt khác, khi tham gia quan hệ dân sự cũng như thực tế trách
nhiệm dân sự của hộ gia đình cũng phải thông qua cá nhân (đại diện của hộ gia
12


đình) thực hiện. Trên thực tế, hộ gia đình vừa tồn tại khối tài sản chung, vừa tồn tại
khối tài sản riêng của các thành viên hộ gia đình (như tài sản của vợ hoặc tài sản
của chồng hay của các con)... Chính vì thế, Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật số
52/2014/QH13) đã dành một mục, với 23 điều (từ Điều 28 đến Điều 50, Mục 3,
Chương III) quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; trong đó, có quy định về tài
sản chung và tài sản riêng của vợ hoặc của chồng.

Điều đó cho thấy, tính đa dạng, phức tạp của chế định tài sản của hộ gia đình
và hộ gia đình gắn với các quan hệ dân sự; đồng thời, phản ánh sự cần thiết phải
thể chế hóa chế định tài sản của hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự sửa đổi như thế
nào để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn áp dụng.

Thứ hai, chúng ta đều phải thừa nhận vai trò quan trọng của tổ hợp tác trong
nền kinh tế, nhưng hiện nay có gần 80% tổ hợp tác không đăng ký chứng thực và
các quy định về tổ hợp tác hiện hành, gây nhiều khó khăn trong việc xác định tư
cách pháp lý của tổ hợp tác và phân định trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác cũng
như trách nhiệm dân sự của từng thành viên tổ hợp tác.

Thứ ba, việc quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự trong Bộ luật Dân sự hiện hành đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt

động áp dụng pháp luật; đặc biệt, việc giải quyết các tranh chấp tại Tòa án hầu như
không có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác – với tư cách là nguyên đơn dân
sự hay bị đơn dân sự.

Thứ tư, việc quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, gồm: Cá nhân
và pháp nhân là phù hợp thông lệ quốc tế; nhất là, trong xu thế Việt Nam đã và
đang hội nhập sâu rộng vào các lĩnh vực của đời sống Quốc tế.

Thứ năm, Dự thảo Bộ luật Dân sự không quy định tổ hợp tác với tư cách là
chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự, nhưng tại Mục 7, Chương XVI của
Dự thảo Bộ luật đã quy định về hợp đồng hợp tác; trong đó, tổ hợp tác được điều
chỉnh bởi các quy định tại Mục này. Ngoài ra, Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)
quy định cụ thể địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, việc tham gia quan hệ dân
sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan Nhà nước ở Trung ương và ở địa
phương.

Có thể nói, việc quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong Dự
thảo Bộ luật Dân sự là một trong những điểm mới, tiến bộ và phù hợp với thực tiễn
áp dụng; giảm thiểu những phiền hà không chỉ cho chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự, mà còn ngay cả đối với các cơ quan thực hiện pháp luật, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.3 Ngành luật Hình Sự:


XÃ HỘI:

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các quốc gia khác nhau trên thế
giới, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta. Việc một người nào đó cố
13



ý đưa hối lộ công chức nước ngoài hay tổ chức quốc tế để dành các ưu thế trong
các hoạt động nêu trên cũng đã xảy ra trong thực tiễn. Vì vậyđảm bảo sự cạnh
tranh lành mạnh, sự công bằng xã hội và giữ gìn quan hệ, hợp tác với các nước,
việc bổ sung hành vi đưa hối lộ của công chức nước ngoài hay công chức của tổ
chức quốc tế là cần thiết => đáp ứng nhu cầu cấp thiết phòng chống tội phạm ở
nước ta.
Hiện nay thì UNCAC yêu cầu các quốc gia phải tăng cường đấu tranh tham nhũng
tuy nhiên thì luật Việt Nam lại có nhiều điểm chưa phù hợp với công ước.

Với việc hội nhập nhưng BLHS 1999 chưa phù hợp với thực tiễn. Cần có
sự thay đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
• NHÂN QUYỀN:
Điều 258 Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích của nhà
nước , quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân .
“ ... Các quyền tư do dân … dân chư khác…” là các quyền con người, quyền
công dân được ghi nhận trong hiến pháp. Công dân có quyền sử dụng các quyền tự
do dân chủ của mình để bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ chính quyền, nhà nước …
hoặc bày tỏ sự bất bình, phàn đối, phê phán chính quyền nhà nước khi có các chính
sách đường lối không phù hợp, xâm phạm đến lợi ích nhân dân.
Bởi vì các chính sách, pháp luật của chính quyền nhà nước không bao giờ đảm bảo
lợi ích hoàn toàn cho nhân dân. Chắc chắn sẽ có một bộ phận tiểu số nào đó trong
xã hội bị ảnh hưởng khi đó sẽ sử dụng các quyền tự do của mình để bày tỏ sự bất
bình phản đối chính quyền nhà nước.
Tất cả mọi người dan chỉ sử dụng quyền tự do dân chủ của họ đã được hiến pháp
quy định không có công dan nào bị lợi dụng chính các quyền hiến định của mình.
Điều này sẽ bóp chết quyền tư do dân chủ của nhân dân, bóp chết các tiếng nói
phản biện của xã hội => Không thúc đẩy sự phát triển lành mạnh minh bạch của xã
hội => Cản trở tiến hành dân chủ hóa và kiềm hãm sự phát triển của đất nước.

Điều 79: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
Theo điều 2 Hiến Pháp 2013 “ Nhà nước Việt Nam là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân ... nhà nước do nhân dân làm chủ. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”
Nhân dan có quyền lựa chọn chính quyền thông qua bầu cử tự do, công bằng.
Nhân dân có quyền phế truất chính quyền khi chính quyền đó đi ngược với lợi ích
của nhân dân hay không thực hiện đúng lời hứa với nhân dân.
Việc phế truất chính quyền được thông qua việc thực hiện quyền con người quy
định trong Hiến Pháp: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí,...
Việc phế truất chính quyền được thực hiện bằng biện pháp ôn hòa, phi vũ trang.
14


Quy định tại điều này là xâm phạm đến quyền làm chủ của nhân dân, xâm phạm
đến quyền lực của nhân dân. Cản trở việc thực hiện quyền con người của nhân dân
( vi phạm Điều 2 Hiến Pháp 2013).
• QUỐC PHÒNG – NGOẠI GIAO:
Chẳng hạn trong ( Khoản 2 Điều 5)có quy định:
“ Đối với người nước ngoài phạm tội những lãnh thổ nước CHXHCNVN thuộc đối
tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi và miễn trừ về lãnh
sự ... Theo các điều ước quốc tế mà nước CHXHCNVN ký kết hoặc tham gia hoặc
theo tập quán quốc tế . Thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng
con đường ngoại giao”.
 Theo điều luật trên thì trách nhiệm hình sự của họ sẽ giải quyết bằng con đường
ngoại giao và Việt Nam sẽ không thể truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó
rơi vào trường hợp là điều ước quốc tế đó hoặc tập quán quốc tế đó .
Theo ( Khoản 2 Điều 6)
Người nước ngoài ... có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của bộ
luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước
quốc tế mà nước CHXHCNVN ký kết hoặc tham gia.

 Vậy Việt Nam sẽ không thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ
luật mình nếu điều ước quốc tế đó Việt Nam không ký kết hoặc tham gia người đó
đã xâm hại đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc lợi ích của
nươc CHXHCNVN
• KINH TẾ:
Tội cho vay nặng lãi Điều 163:
Không phù hợp với thực tế bởi việc cho vay với lãi xuất cao hơn mức pháp luật
quy đinh không hẳn là phạm tội , bởi vì phải chứng minh được cho vay đó có tính
chất bóc lột mới có thể kết tội. Nhưng chứng minh thế nào thì đó là điều vô cùng
khó có thể làm được trên thực tế. Mặt khác, bên cho vay đưa ra lãi suất cao mà bên
vay đồng ý với mức lãi suất đóthì hợp đồng vẫn giao kết bình thường, do có sự ưng
thuận của hai bên.
Đề xuất: Để khắc phục và phù hợp với tình hình thực tế , trong điều này cần quy rõ
cách thức xác định thế nào là cho vay có tính chất chuyên bóc lột đồng thời đổi lại
là “ người nào cho vay với mức lãi suất cao...”
Điều 157: Tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa
bệnh , thuốc phòng bệnh .
Sỡ dĩ điều luật này chưa phù hợp là bởi vì cách dùng từ chưa nêu lên rõ cụ thể
người phạm tội và thiếu tính chính xác. “ Tội sản xuất hàng giả đương nhiên là
phải chịu tội. Nhưng việc “ buôn bán hàng giả” quy định là phàm tội thì không phù
15


hợp. Bởi vì có nhiều trường hợp người bán không hề biết hàng mình bán là hàng
giả họ không có đủ phương tiện thiết bị kỹ thuật để kiểm tra và thế họ không thể
biết được hàng hóa mình bán là hàng giả, trái pháp luật.
Đề xuất: Cần sửa đổi lại cho phù hợp điều luật này là: Tội sản xuất cố ý buôn bán
hàng giả là lương thực , thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh ...”
• VĂN HÓA:
Văn hóa, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng

đồng, một dân tộc, do đó, văn hóa chính là cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống. Quá trình hình thành văn hóa là một quá trình tự nhiên và
khách quan. Từ xưa đến nay, con người luôn sống và hành động theo những lẽ phải
của tâm hồn mình, tức là nhận thức về "cái tất yếu", kết quả là tạo ra thành tựu.
Những thành tựu đó, cùng với thời gian, đã kết tinh lại và trở thành văn hóa. Một
nền văn hóa hình thành tự nhiên như vậy là một nền văn hóa lành mạnh. Tuy
nhiên, điều quan trọng hơn cần phải thấy là, chất xúc tác cho quá trình hình thành
của văn hóa không gì khác chính là tự do, vì nếu không có tự do thì đời sống tinh
thần của con người không phát triển. Đời sống tinh thần của con người không phát
triển thì không có đời sống văn hóa lành mạnh. Vậy tiêu chuẩn để phân biệt giữa
một nền văn hóa lành mạnh và một nền văn hóa không lành mạnh là gì? Đó chính
là tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống.
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự, chúng tôi nhận thấy các khái niệm
định tính được dùng làm căn cứ định tội hoặc để xác định mức độ nghiêm trọng
thuộc hậu quả của tội phạm, như: phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng; hàng
phạm pháp có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn...
khá phổ biến trong các điều luật như: Điều 86. Tội phá hoại việc thực hiện các
chính sách kinh tế, xã hội; Điều 87 Tội phá hoại chính sách đoàn kết; Điều 120.
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật; Điều 127. Tội làm sai lệch kết quả bầu cử; Điều 131. Tội xâm
phạm quyền tác giả; Điều 151. Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; Điều 154. Tội vận chuyển trái
phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Điều 155. Tội sản xuất tàng trữ, vận chuyển
buôn bán hàng cấm và các tội xâm phạm môi trường...
• CHÍNH TRỊ:
Điều 154 BLHS quy định về các tình tiết định tội trong mặt khách quan của tội
“Vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới” trong cấu thành cơ bản của
tội phạm chưa xác định rõ hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá hoặc hàng

cấm qua biên giới. Theo quy định của Luật biên giới quốc gia, thì biên giới được
phân định thành ba khu vực, gồm: vành đai biên giới, đường biên giới, khu vực
16


biên giới, tuy nhiên trong quy định của Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 không
quy định việc vận chuyển qua khu vực nào là cấu thành tội phạm.
Trong thực tiễn xét xử thì nếu việc làm giả giấy chứng nhận của cơ quan, tổ chức,
làm giả con dấu hay sử dụng các giấy tờ giả mạo làm phương tiện, điều kiện để
thực hiện hành vi trốn đi nước ngoài, trốn ở lại nước ngoài… thì chỉ xử lý về tội tổ
chức cho người khác trốn đi nước ngoài… (tức là chỉ xử lý một hành vi mà thôi).
Như vậy, các hành vi làm giả, sử dụng giấy tờ giả… không bị xử lý. Do vậy, cần
bổ sung vào các Điều 274, 275 các hành vi này như là các tình tiết tăng nặng của
khung hình phạt. Nếu điều này được chấp nhận thì đương nhiên, Điều 274 Bộ luật
hình sự sẽ không thể cơ cấu thành một cấu thành cơ bản như hiện nay mà có thể sẽ
được cấu thành thêm một khoản nữa để quy định những tình tiết tăng nặng cho các
tội của điều luật này.
Điều 78, luật hình sự năm 1999 quy định:
Tội phản bội Tổ quốc
“1. Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc
phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm.”
3. Đề xuất để nâng cao tính phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam:
Ngoài những đề xuất trong từng ngành luật riêng biệt biệt thì nhóm có một đề xuất
chung là cần có một địa chỉ nào đó tiếp thu các ý kiến phản hồi trực tiếp về các
vướng mắc và tính không phù hợp của từng ngành luật Việt Nam do người dân
phản ánh trực tiếp. Bởi vì nhân dân là những chủ thể trực tiếp chịu sự tác động của

từng ngành luật lên đời sống hàng ngày của họ sẽ hiểu hơn và trực tiếp chịu sự tác
đọng của chúng hơn. Vì thế hơn ai hết họ sẽ hiểu rõ được là ngành luật hay những
điều luật nào đó có phù hợp với xã hội chưa có sát với tình hình xã hội bấy giờ hay
không và hướng giải quyết như thế nào.
KẾT LUẬN CHUNG:
Nhìn chung hệ thống pháp luật Việt Nam đã phát triển và đạt đến một trình độ nhất
định nào đó. Nhưng bất cự thứ gì kể cả con người không thể hoàn hảo hết được thì
hệ thống pháp luật cũng còn những khúc mắc cần có tiến trình để có thể quan sát
rút kinh nghiệm và ngày càng hoàn thiện hơn.
17


Phần thuyết trình của nhóm đến đây là hết cám ơn quý thầy cô và các bạn đã chú
ý lắng nghe!

18



×