Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.41 KB, 26 trang )

1

NỘI DUNG
Mở đầu
I. Tổng quan về vị trí, vai trò của biển, đảo trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
1. Vùng biển Việt Nam
Khi nói về pháp lý biển trên thế giới, luôn dựa vào Công ước Liên hợp quốc về Luật biển
năm 1982 (UNCLOS).
Công ước Luật biển năm 1982 nêu mỗi quốc gia ven biển có 5 vùng biển, bao gồm:
-

Nội thủy
Lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng thềm lục địa.

Luật Biển Việt Nam: quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo
khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động
trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.


2


Nội thủy: của quốc gia ven biển chính là vùng biển có chiều rộng được xác định bởi
một bên là đường bờ biển, còn bên kia là đường cơ sở.

Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia là nội thủy (NT- từ điểm A đến điểm B) và lãnh hải
(LH- từ điểm B đến điểm C).



Đường màu đỏ nối 11 điểm từ hòn Nhạn đến Cồn Cỏ gọi là đường cơ sở, đường gạch đứt
quãng màu xanh gọi là biên giới quốc gia trên biển).


3

“Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, trong
trường hợp quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo đến một vùng gọi là lãnh hải. Chủ
quyền này được mở rộng đến vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. (Công ước 1982).
“Mọi quốc gia đều có ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12
hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. (Điều 3, Công ước 1982).
Tuyên bố năm 1977 của Chính phủ Việt Nam đã nêu rõ:
-

“Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài
đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra xa nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của
các đảo ven bờ của Việt Nam, tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất trở ra... Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với
lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của



lãnh hải”.
Vùng tiếp giáp lãnh hải
“Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
của lãnh hải” (Điều 33, Công ước 1982).
Tuyên bố 1977 của Chính phủ Việt Nam:
-


“Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển
tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt
Nam thành vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của
lãnh hải Việt Nam”.

Vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng không phải là một
bộ phận của biển quốc tế. Về bản chất, vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc quyền chủ
quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển. Trên vùng biển này, quốc gia ven biển ngăn
ngừa và trừng trị những vi phạm về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay
trong lãnh hải của mình.


4



Vùng đặc quyền kinh tế

Tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 xảy ra ở vùng biển cách mũi Đại Lãnh
thuộc tỉnh Phú Yên 116 hải lý, nghĩa là nằm ngay trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam)
“Vùng đặc quyền kinh tế của nước CHXHCNVN tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh
hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải Việt Nam” (Tuyên bố của Chính Việt Nam năm 1977).
Theo Công ước 1982: “Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp
liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và
quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy
định thích hợp của Công ước điều chỉnh”.


Thềm lục địa


Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh
hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần đất kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia
đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh


5

hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”. (Công ước
1982).
“Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt
Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng
ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó” (Tuyên bố của Chính phủ VN 1977).
Các quyền chủ quyền mà quốc gia ven biển có được trên thềm lục địa của mình xuất phát từ
chủ quyền trên lãnh thổ đất liền. Mặt khác, các quyền chủ quyền này mang tính “đặc quyền”,
nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò, khai thác tài nguyên sinh vật, vi sinh vật trên
thềm lục địa của mình thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động đó.
Trong nhiều năm qua, đặt biệt là từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, chúng ta
đã tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác các loại tài nguyên khoáng sản
và đặc biệt là dầu khí, cũng như thành lập các cụm khoa học, kinh tế và dịch vụ trên thềm lục
địa Việt Nam, đặt dây cáp, ống dẫn ngầm để chứng minh và khẳng định quyền chủ quyền đối
với thềm lục địa Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
-

Có thể nói rằng, Việt Nam là một trong số ít quốc gia có nhiều lợi thế về biển. Vùng
biển và ven biển Việt Nam là cửa mở lớn, là “mặt tiền” quan trọng của đất nước, nằm
án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật


-

Bản và các nước trong khu vực.
Biển Đông đóng vai trò là chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng, là điều kiện rất thuận lợi
để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc
biệt là các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế
năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Hầu hết các nước trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương đều có hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh trên
Biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất thế giới hiện nay, có năm

-

tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.
Biển Đông là một biển nửa kín, được bao bọc bởi lục địa Châu Á và bán đảo Malacca
về phía Tây, đảo Đài Loan, quần đảo Phillipine và đảo Kalimanta về phía Đông. Biển


6

Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 30 lên vĩ độ 260 Bắc và từ
kinh độ 1000 đến 1210 Đông và được bao bọc bởi chín nước là Việt Nam, Trung
Quốc, Phillipine, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và
một vùng lãnh thổ Đài Loan.
Việt Nam nằm ngay trên bờ Biển Đông, giáp với Biển Đông ở hướng Đông, Đông Nam và Tây
Nam. Bờ biển Việt Nam cong hình chữ S, kéo dài trên 3.260 km từ Móng Cái (Quảng Ninh)
đến Hà Tiên (Kiên Giang). Trong tổng số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, có 28 tỉnh, thành
phố giáp biển. Trung bình cứ 100 km2 đất liền có 1km bờ biển (mức trung bình trên thế giới là
600 km2/km bờ biển). Nơi gần biển nhất là Quảng Bình, cách biển khoảng 50km, nơi xa biển
nhất là Điện Biên, cách biển khoảng 500km. Vùng biển Việt Nam rộng lớn với hàng nghìn đảo

lớn nhỏ, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, có vị
trí chiến lược rất quan trọng.
+ Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ
độ 15o45'00''Bắc - 17ođộ15'00''Bắc và kinh độ 111o00'00''Đông - 113o00'00''Đông trên vùng
biển có diện tích khoảng 30.000km2, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi - Việt Nam) khoảng 120
hải lý. Đoạn biển từ Quảng Trị chạy tới Quảng Ngãi đối mặt với quần đảo Hoàng Sa luôn
hứng gió mùa Tây Nam hay Đông Bắc nên thường có nhiều thuyền bị hư hại khi ngang qua
đây vào mùa này. Các vua chúa Việt Nam thời xưa hay chu cấp cho các tàu thuyền bị nạn về
nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển Việt Nam để nhờ cứu giúp khi gặp nạn.
Chính vì thế, Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới và xác lập chủ quyền của mình.
Quần đảo Hoàng Sa chia làm hai nhóm An Vĩnh và Trăng Khuyết (hay còn gọi là Lưỡi Liềm).
An Vĩnh nguyên là tên một xã thuộc Quảng Ngãi, theo Đại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10:
"Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo
dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu. Hồi quốc sơ đầu triều
Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng
ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi...”.
Từ hàng nghìn năm nay, biển – đảo Việt Nam đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của dân tộc; biển gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội,
quốc phòng, an ninh, bảo vệ mội trường của mọi miền.


7

2. Cơ hội và thách thức
2.1 Cơ hội
Biển có ý nghĩa to lớn để Việt Nam phát triển kinh tế, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày
càng có vai trò to lớn trong tương lai.
Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam rất đáng kể và có ý nghĩa cực kì quan trọng đối
với sự phát triển của đất nước.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2000 – 2008, kinh tế biển đóng góp

khoảng 47% - 48% GDP, năm 2010 mặc dù các lĩnh vực kinh tế khác gặp khó khăn thì kinh tế
biển vẫn đảm bảo tăng trưởng khá. Các ngành kinh tế biển đóng góp lớn như: dầu khí 64%; hải
sản 14%; vận tải biển và dịch vụ cảng biển 11%; du lịch biển khoảng 9%.

Tiềm năng, lợi thế biển Việt Nam đa dạng và phong phú, gồm nhiều tài nguyên khác nhau,
như: nguồn lợi thủy sản, các hệ sinh thái biển, ven biển, các mỏ sa khoáng của các nguyên tố
hiếm và vật liệu xây dựng; các mỏ dầu khí ở vùng thềm lục địa, băng cháy ở vùng sườn lục địa,
kết hạch sắt… với bờ biển dài chạy dọc theo chiều dài đất nước đã tạo ra những lợi thế đặc biệt
để phát triển mạnh về lĩnh vực giao thông, vận tải, du lịch biển, đảo và xây dựng các công trình
đô thị ven biển. Phải nói, đây là những lợi thế hiếm có mà Việt Nam được thiên nhiên ban tặng.

-

Dầu khí
Có 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí.
Trữ lượng dầu khí Việt Nam chiếm khoảng 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông 
cho khả năng khai thác từ 30.000 - 40.000 thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít) khoảng 20

-

triệu tấn năm.
Tổng trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn quy

-

dầu; đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền công nhiệp dầu khí.
Bên cạnh dầu, có nhiều tiềm năng khí đốt với trữ lượng cho khả năng khai thác khoảng


-


3 nghìn tỷ m3/năm
Cảng và vận tải biển
Biển Việt Nam ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu vực cũng như
trên thế giới  giữ một vai trò quan trọng trong vận chuyển lưu thông hàng hóa thương

-

mại.
Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng, từ các hải cảng ven biển của Việt Nam:


8

+ Thông qua eo biển Malacca để đi đến Ấn Độ Dương, Trung Đông, Châu Âu, Châu
Phi;
+ Qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Đương đến các cảnh của Nhật Bản, Nga,
Nam Mỹ và Bắc Mỹ;
+ Qua các eo biển giữa Philipines, Indonesia, Singapore đến Australia và New
Zealand.... => Điều kiện rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển Việt Nam phát
triển, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam với các nước khác trong khu
-

vực và trên thế giới.
Hệ thống cảng biển của Việt Nam gồm các cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90
cảng lớn nhỏ



Thủy sản: gồm tài nguyên sinh vật biển, san hô, thủy hải sản nước mặn và nước lợ,


-

chim biển…
Về tài nguyên sinh vật, đến nay Việt Nam đã phát hiện hơn 11.000 loại sinh vật cư trú
trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc về sáu vùng đa dạng sinh học biển và

-

nhiều loại động vật quý hiếm khác.
Rạn san hô là hệ sinh thái biển nhiệt đới điển hình ở biển phía Bắc Việt Nam. Đây còn
là một trong những vùng biển có lượng san hô đa dạng cao trên thế giới, với khoảng
350 loài thuộc 72 giống san hô... Các thảm cỏ biển có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với

-

nhiều loài sinh vật biển.
Về nguồn lợi hải sản, có khoảng 2.040 loài cá, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng
110 loài. Trữ lượng cá toàn vùng biển Việt Nam ước tính khoảng 42 triệu tấn, với
ngưỡng khai thác bền vững 1,4 - 1,7 triệu tấn/năm. Biển Việt Nam có khoảng trên 1500

-

loài nhuyễn thể, riêng tôm có 100 loài.
Nuôi thủy sản nước lợ cũng là một thế mạnh, đem lại nguồn lợi cũng như tạo việc làm
(tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh bắt thủy hải sản trực tiếp và 50 vạn lao

-

động dịch vụ liên quan) cho dân cư sống ở biển.

Về chim biển, các loại chim biển ở Việt Nam cũng phong phú, gồm hải âu, bồ nông,
chim rẽ và hải yến. Theo tính toán của các nhà khoa học thì phân chim tích tụ từ lâu đời
trên các đảo cho trữ lượng phân bón tới chục triệu tấn.


9

-

Du lịch biển
Dọc bờ biển có hàng trăm bãi tắm, trong đó có hàng trăm bãi tắm lớn có chiều dài từ 15
- 18km, còn lại có chiều dài trung bình từ 1 - 2km, rất có điều kiện để khai thác phát

-

triển du lịch biển.
Một số địa danh du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn cầu như:
+ Vịnh Hạ Long, 2 lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
+ Vịnh Nha Trang được coi là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh.
+ Bãi biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes bầu chọn là một trong sáu bãi biển quyến rũ

nhất hành tinh.
-

Dọc các tỉnh thành phố có biển đều có thể phát triển ngành du lịch với quy mô khác


-

nhau.

Khoáng sản khác
Các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn ở vùng ven biển là than, sắt, cát thủy

-

tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.
Ngoài ra còn phải kể đến; thiếc, titan, dirricon, thạch anh, nhôm, mangan, đồng, kẽm và



các loại đất hiếm. Muối ăn chứa trong nước biển bình quân 3.500g/m2.
Nguồn năng lượng
Việt Nam có thể thu được năng lượng từ sóng biển, dòng hải lưu, thủy triều để làm
nguồn năng lượng phục vụ đời sống con người. Tuy nhiên muốn khai thác được nguồn
năng lượng này cần có vốn và kỹ thuật cao. Nguồn phát triển năng lượng sức gió, thủy
triều và sóng rất có tiềm năng, nhưng do việc đầu tư của Việt Nam còn hạn chế nên đến


-

nay mới đang ở giai đoạn thử nghiệm và làm thí điểm.
Nguồn lực con người
Hiện nay, có trên 31% dân số cả nước sinh sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển.
Đa số các thành phố, thị xã ở Trung Bộ nằm sát ven biển, có đường quốc lộ 1A chạy

-

qua.
Khu vực ven biển cũng là nơi tập trung các trung tâm công nghiệp lớn.
Các tỉnh thành phố ven biển có các cảng, cơ sở sửa chữa, đóng tàu, đánh bắt hoặc chế

biến hải sản, làm muối,... Thu hút hơn 13 triệu lao động, giả quyết công ăn việc làm,
góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh - quốc
phòng.

2.2 Thách thức


10

Với vị trí đắc địa và có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng, điề kiện tự nhiên thuận lợi, tài
nguyên đa dạng phong phú của biển của nước ta sẽ là những tiềm năng và cơ hội quan trọng
trước mắt cũng như lâu dài cho phát triển kinh tế biển để làm giàu. Tuy nhiên, để biến tiềm
năng, lợi thế thành hiện thực và phát triển kinh tế biển Việt Nam bền vững đang là những cơ
hội song cũng đầy thách thức.
-

Một là:
Quy mô kinh tế biển Việt Nam chưa thực sự xứng với tiềm năng,
Giá trị tổng sản phẩm hàng năm còn nhỏ bé. Tính trung bình trên 1km2 biển,
Việt Nam mới chỉ đạt bằng 1/20 của Trung Quốc; 1/94 của Nhật Bản; 1/7 của Hàn

-

Quốc và 1/20 kinh tế biển của thế giới.
• Hai là:
Tình hình sử dụng biển và hải đảo còn thiếu bền vững do khai thác tự phát, đa dạng

-

sinh học biển và nguồn lợi thủy sản, hải sản đang giả sút khá nghiêm trọng.

Chất lượng nước biển nước ta cũng đang có xu hướng suy giảm, nhiều vùng bị ô nhiễm



nặng. Cùng với tràn dầu, ô nhiễm từ các hoạt động vận tải trên biển, các nguồn thải từ
-

đất liền cũng đang đe dọa nhiều vùng biển Việt Nam.
Khi đẩy mạnh khai thác dầu khí, phát triển kinh tế hàng hải, nuôi trồng thủy sản, phát
triển du lịch biển, xây dựng hệ thống các cảng ven biển, phát triển nhiều khu kinh tế,
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị ven biển, tác động của biến đổi khí hậu, mực
nước biển dâng cao sẽ gia tăng mạnh và áp lực lên nguồn tài nguyên ưu đãi này và làm
suy kiệt các hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường biển là những vấn đề lớn cần quan tâm
giải quyết trong quá trình tiến ra biển và lớn mạnh từ biển. Những điều đó cũng đồng

-

nghĩa với sự hạn chế cạnh tranh, mất đi thu hút đầu tư của Việt Nam.
• Ba là:
Các ngành kinh tế liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản phẩm dầu, khí; chế
biến thủy, hải sản; đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các dịch
vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin tìm kiếm cứu nạn hàng hải, dịch vụ viễn
thông công cộng biển trong nước và quốc tế, nghiên cứu khoa học công nghệ biển, xuất

-

khẩu thuyền viên,...), chủ yếu mới đang bắt đầu xây dựng, hình thành quy mô còn nhỏ.
• Bốn là:
Vấn đề bảo đảm cuộc sống cho cư dân ven biển: Đời sống của bộ phận cộng đồng dân
cư ven bờ biển, hải đảo gặp nhiều khó khăn do rủi ro thiên tai, mức độ an sinh thấp. Sự

tham gia của cộng đồng địa phương vào quản lý còn thụ động, chưa làm rõ vấn đề sở
hữu, sử dụng đất ven biển và mặt nước biển ven bờ cho người dân.


11

Năm là:
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn ở Việt Nam nhưng ngành du lịch biển vẫn


-

chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc

-

tế. Việt Nam cũng chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt quy mô và trình độ quốc tế.
• Sáu là:
Về cơ sở hạ tầng, Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối
liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế

-

biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo còn nhỏ bé.
• Bảy là:
Thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao cho phát triển kinh tế biển.

II. Chủ trương phát triển kinh tế biển Việt Nam
1.


Khái niệm kinh tế biển
Kinh tế biển bao gồm:










(hiểu theo nghĩa hẹp) Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biền, bao gồm:
kinh tế hàng hải (vận tải biển và du lịch cảng biển)
hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản)
khai thác dầu khí ngoài khơi
du lịch biển
làm muối
dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn
kinh tế đảo
(hiểu theo nghĩa rộng) Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy
không diễn ra trên biển, nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc









trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm:
đóng và sửa chữa tàu biển
công nghiệp chế biến dầu khí
công nghiệp chế biến thủy hải sản
cung cấp dịch vụ biển
thông tin liên lạc biển
nghiên cứu khoa học công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế

biển, điều tra cơ bản về tài nguyên- môi trường biển
2. Quá trình hình thành chiến lược phát triển kinh tế biển của Đảng
Việt Nam là quốc gia có hơn ba nghìn hòn đảo lớn nhỏ và bờ biển dài hơn 3.260km bao bọc
lãnh thổ ở cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam, với chỉ số biển (khoảng 0,01), cao gấp 6 lần giá


12

trị trung bình của thế giới. Chính vì vậy, Việt Nam không những được xác định có vị trí chiến
lược, là cửa ngõ của Đông Nam Á mà biển, đảo còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế của đất nước khi hầu hết các ngành kinh tế mũi nhọn đều gắn kết với biển.
Phát triển kinh tế biển có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp cho tăng trưởng và phát triển
chung của nền kinh tế nước ta. Ý thức rõ điều đó, trong những năm đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta
đã đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng nhằm quản lý, bảo vệ, khai thác
biển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011)
tiếp tục chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh; quốc phòng - an ninh với kinh
tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng
địa bàn”. Để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm 2008 Chính phủ đã ban hành và phê
duyệt nhiều nghị quyết và quyết định, như: Một số giải pháp cấp bách trong quản lý nhà nước về
tài nguyên và môi trường biển; đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát
triển bền vững biển và hải đảo; quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020... Và

ngày 6-9-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt Chiến
lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030.
Nghị quyết 03NQ/TW ngày 0651993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
khẳng định đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và
lợi ích quốc gia; bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển; phấn đấu trở thành một nước
mạnh về biển vào năm 2020. Thực hiện Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ thị
triển khai như Chỉ thị 399 ngày 0581993 về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những
năm trước mắt và Chỉ thị 171/TTg năm 1995 triển khai Nghị quyết 03NQ/TW.
Ngày 2291997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xác định: “Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những tiến bộ khoa học, công nghệ làm động
lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài
nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực”; “… tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa
học biển, tìm kiếm thăm dò dầu khí, khoáng sản biển, nguồn lợi hải sản và năng lượng biển,
nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển, tiếp tục hiện đại hoá khí tượng thuỷ văn”.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, một loạt kế hoạch về phát triển kinh tế biển đã được thông
qua như: Chiến lược phát triển thuỷ sản 2010; Chiến lược phát triển du lịch 2010; Chiến lược phát


13

triển giao thông vận tải 2010… Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) khẳng định mục
tiêu: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn
1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế biển. Đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò, khai thác
và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở mang du lịch; bảo vệ môi
trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai
thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các
vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát

triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”. Những nội dung nêu trên tiếp tục được khẳng định tại
Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006).
Những quan điểm, biện pháp nêu trên tiếp tục nhấn mạnh chủ trương xây dựng Việt Nam trở
thành một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết
với yêu cầu bảo vệ đất nước, đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương
tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nhận thức về
vai trò, vị trí của biển, sự quan tâm phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển của một số cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp, các ngành, cả Trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp bách là Đảng và Nhà nước ta cần nâng các quan điểm chỉ đạo nêu
trên lên tầm của một văn bản chiến lược. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Khóa X đã thông qua Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết 09NQ/TW ngày 09 022007). Quan điểm chỉ đạo của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là
"nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm
năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc
độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn". Phấn đấu đến năm 2020, kinh
tế biển đóng góp khoảng 53 55% GDP, 55 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.
Nhiệm vụ chiến lược kinh tế "làm giàu từ biển" được xác định: kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế xã hội với bảo đảm quốc phòng an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường. Kết hợp
chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (năm 2011) khẳng định chủ trương:
“Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị trí và tiềm năng biển nước ta, gắn phát triển kinh
tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số


14

khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, … Phát triển kinh tế đảo phù hợp với tiềm năng và lợi thế
của từng đảo.” Những chủ trương, biện pháp nêu trên từng bước được cụ thể hóa trong các lĩnh
vực kinh tế biển. Nhờ đó, các lĩnh vực kinh tế biển nước ta đã có bước chuyển biến đáng kể và đạt
được những kết quả quan trọng./.

III. Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển
3.1 Định hướng
Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển, phát triển
khoa học – công nghệ biển, xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch
vụ, xây dựng tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc
trên biển. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để ra
biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh
trên biển, khả năng tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và phòng, chống thiên tai. Nâng cao đời sống dân
cư vùng ven biển, trên các đảo và những người hoạt động trên biển. Đẩy mạnh công tác quản lý
nhà nước và quan hệ quốc tế về biển đảo.
Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển như sau:
-

Khai thác, chế biến dầu, khí

-

Kinh tế hàng hải

-

Khai thác và chế biến hải sản

-

Du lịch biển và kinh tế hải đảo

-

Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với


phát triển các khu đô thị ven biển
Sau năm 2020, thứ tự phát triển kinh tế biển có sự thay đổi:
-

Kinh tế hàng hải

-

Khai thác, chế biến dầu, khí và các loại khoáng sản

-

Khai thác và chế biến hải sản

-

Du lịch biển và kinh tế hải đảo


15
-

Các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển

các khu đô thị ven biển
Trước mắt, tập trung đầu tư phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp
đóng tàu, xây dựng đội tàu mạnh, phát triển những ngành dịch vụ mũi nhọn như vận tải biển,
các khu kinh tế ven biển, tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho những người
dân hoạt động trên biển, đảo, người dân sinh sống ở những vùng thường bị thiên tai, đồng thời

xây dựng các cơ sở bảo vệ môi trường biển.
Tại Đại hội XI của Đảng (2011) , trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011 – 2012, Đảng
xác định: “ Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta,
gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát
triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công
nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi măng, chế biến thủy sản chất lượng cao...Đẩy nhanh tốc độ đô
thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa
dạng các ngành dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận
tải...Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông – biển; phát triển các đội tàu, công
nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển...Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và
lợi thế của từng đảo”.
3.2 Giải pháp
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong
đó nhấn mạnh “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”.
Nghị quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo của Đảng về định hướng chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020. Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở
phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú,
hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng – an ninh, hợp tác
quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển
vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


16

Ba là khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần
chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp
tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Mục tiêu cơ bản của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 với Mục

tiêu tổng quát: đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh.
Mục tiêu cụ thể: xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công
nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn
lực cho phát triển kinh tế biển; phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp
khoảng 53-55% tổng GDP và 55 – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven
biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả
nước. Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập
đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ven biển; xây dựng cơ quan quản lý
tổng hợp và thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực
về biển
Do đó để phát triển kinh tế biển bền vững, chúng tôi cho rằng cần tập trung vào 6 nhóm giải pháp
sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng
ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây là ba mặt của một
vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau..
Hai là, xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền
chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý, tập trung của
trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện
đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội


17

dung mới gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ thống cảng
biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch, khai thác nuôi trồng thủy
hải sản, … đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ,

hiện đại hóa các doanh nghiệp, các hợp tác xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút
đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển...
Ba là, khẩn trương xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển, bảo vệ môi trường sinh
thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực như: Vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản,
trồng trọt, chăn nuôi, … có sự tham gia của đại diện các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ
thuật, các tổ chức quần chúng, các hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu
giữ nước ngọt, áp dụng cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên
cộng đồng. Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển
rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng và nước mặn lấn
sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng
thủy hải sản, … để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần...
Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ
thống thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và dự báo thời tiết, phát triển hệ
thống rừng và rừng ngập mặn, trước mắt triển khai sớm hệ thống đê biển ở vùng thấp và vùng
ngập nước. Ưu tiên giải quyết di dời cơ sở hạ tầng, dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước,
bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cho huyện đảo và quần đảo.
Năm là, khẩn trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực: tuyển chọn, lai tạo
giống cây lương thực, cây công nghiệp, giống nuôi thủy, hải sản, … Đổi mới cơ cấu nghề nghiệp,
phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ
mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các
sản phẩm của biển,… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa
học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp
của các nước...


18

Sáu là, gấp rút đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng
đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng phó với biến
đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt

trên 80%. Đồng thời đề nghị Chính phủ giao cho các ngành chức năng đưa nội dung giáo dục về
kinh tế biển, biến đổi khí hậu, bảo vệ chủ quyền biển đảo và chương trình giảng dạy ở các cấp học
phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học thuộc hệ chính quy về không chính quy.
Trong tương lai gần, ngành kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống
của nhân dân, đảm bảo cho dân tộc ta giàu mạnh và phát triển
7 giải pháp của TS. Trương Minh Tuấn

Theo TS. Trương Minh Tuấn, Nguyên Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Thứ trưởng
Bộ Thông tin và truyền thông, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo bền
vững và đưa kinh tế nước ta tăng trưởng từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, trong
thời gian tới cần tập trung triển khai thực hiện một số nhóm giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh,
hợp tác quốc tế. Cùng với việc tiếp tục khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán
quốc gia, chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để bảo đảm về quốc phòng - an ninh, kiên quyết
bảo vệ vững chắc các vùng biển và hải đảo của Việt Nam, cần tiếp tục mở rộng và tăng cường
hợp tác hữu nghị với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng như với các tổ chức quốc
tế về các vấn đề có liên quan đến biển, đảo trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, lợi ích quốc gia và
pháp luật quốc tế; cùng nhau xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Triển
khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí dân cư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ chủ
quyền biển, đảo; ban hành chính sách và tạo điều kiện để người dân định cư sinh sống ổn định
lâu dài trên đảo và làm ăn trên biển dài ngày. Các địa phương có biển, đảo cần xây dựng và
triển khai các chương trình, giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng cường phát triển kinh tế
theo điều kiện thực tế, thậm chí liên kết giữa các địa phương và giữa các địa phương với các


19

ngành để đầu tư, khai thác các lợi ích từ biển, đảo một cách quy mô, hiệu quả; gắn phát triển
kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh.


Thứ hai, cần chú trọng quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và luật
pháp về lĩnh vực biển, đảo và có cơ chế phù hợp để hỗ trợ phát triển kinh tế biển, đảo. Trên cơ
sở chủ trương, định hướng phát triển chung của cả nước, cần có quy hoạch tổng thể chung cũng
như đối với từng khu vực, địa phương, ngành nghề phát triển. Cần tránh tình trạng “mạnh ai
nấy làm” dẫn đến sự phân tán, nhỏ lẻ thiếu tập trung giữa các địa phương với cả vùng, giữa địa
phương với từng ngành, mà cần có sự liên kết, phối hợp với nhau. Hệ thống cơ chế chính sách
đồng bộ và tổ chức thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần quản lý tài nguyên, môi trường biển và
khai thác có hiệu quả các nguồn lợi từ biển đảo cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Nhân
rộng các mô hình, kinh nghiệm hay trong tổ chức sản xuất trên biển, đảo; đồng thời có biện
pháp hỗ trợ ngư dân khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản, xây dựng các mô hình tổ chức sản
xuất tiên tiến trên biển, đảo, phát triển du lịch kết hợp với việc triển khai các dịch vụ công ích
trên biển và thiết lập quan hệ sản xuất kinh doanh giữa biển, đảo với các địa bàn khác trên bờ
và trong nội địa. Mặt khác, ở mức độ phù hợp cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, doanh
nghiệp ngoài nước để thu hút nguồn vốn đầu tư, hình thành những dự án phát triển kinh tế liên
hoàn, tăng cường trao đổi, xuất khẩu.

Thứ ba, hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của vùng đảo như:
du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng hải sản. Chuyển hướng mạnh mẽ cơ cấu sản xuất
từ nghề cá gần bờ, ven đảo sang nghề cá xa bờ, gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Tăng
cường năng lực khai thác xa bờ cho các đảo có điều kiện thuận lợi, đồng thời, khai thác tối đa
các điều kiện tự nhiên thuận lợi vào nuôi trồng hải sản, dịch vụ hàng hải, dịch vụ nghề cá. Các
cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng, bến cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tránh bão cho
tàu, thuyền và hạ tầng nuôi trồng hải sản cũng cần được đầu tư xây dựng đồng bộ, có quy mô
lớn. Phát triển du lịch cũng là một trong những hướng trọng điểm, mang tính đột phá trong phát
triển kinh tế biển, đảo cần được đầu tư. Một số khu du lịch sinh thái biển, đảo lớn, chất lượng


20


cao tầm cỡ khu vực và thế giới được hình thành sẽ tạo bước đột phá cho du lịch biển, đảo nói
riêng và du lịch cả nước nói chung.

Thứ tư, cần tổ chức phát triển hợp lý không gian kinh tế - xã hội vùng biển và ven biển. Phát
triển vùng ven biển nhằm tạo động lực lan tỏa, biến vùng ven biển thành hậu phương, hỗ trợ
cho các hoạt động trên biển thông qua các trung tâm kinh tế hải đảo. Tập trung xây dựng nhanh
hệ thống kết cấu hạ tầng trên các đảo và vùng ven biển, đảm bảo an sinh xã hội để người dân ra
định cư lâu dài trên các đảo, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền
vùng biển, đảo. Dọc theo vùng ven biển phải kiến tạo các trung tâm phát triển, thậm chí hình
thành nên các đô thị lớn ven biển, có bán kính ảnh hưởng rộng, có khả năng cạnh tranh với các
mô hình, trung tâm phát triển lớn trong khu vực. Tạo ra các hành lang kinh tế ven biển với sự
liên kết và mang sức lan tỏa rộng. Có chính sách thích hợp để hình thành các doanh nghiệp
mạnh, đồng thời huy động các thành phần kinh tế trong nước và nguồn lực quốc tế để khai thác
có hiệu quả các tiềm năng từ biển và hải đảo.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về quản lý và phát triển kinh tế
biển, đảo nhằm khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển,
đảo. Có biện pháp kịp thời ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, giảm thiểu tối đa sự suy
thoái tài nguyên biển và hải đảo, đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái biển. Khẩn trương
triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực, đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát
triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ
hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các
sản phẩm của biển… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu
khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư
trực tiếp của các nước.

Thứ sáu, xây dựng và mạnh dạn cho tiến hành tái cơ cấu ngành kinh tế biển, đảo, các cơ chế,
chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương, có sự quản
lý, tập trung của Trung ương, tạo nên bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện
đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội



21

dung mới gắn phát triển kinh tế biển, đảo; đầu tư cơ sở hạ tầng cho các đảo, hệ thống cảng
biển, đô thị ven biển, giao thông liên lạc… đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành,
các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, xây dựng các thương hiệu
biển quốc gia, thu hút đầu tư có chọn lọc trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát
triển kinh tế biển, đảo.

Thứ bảy, cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền về biển, đảo, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền
quốc gia, công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, các quy định của quốc tế về
bảo vệ nguồn lợi thủy sản không chỉ với cư dân biển, đảo mà còn với toàn xã hội. Có thể mở
các lớp huấn luyện, tuyên truyền giáo dục cho ngư dân hiểu và chấp hành các điều khoản của
các hiệp ước, công ước đã ký giữa Việt Nam và các nước khác cũng như các quy định của pháp
luật để người dân nâng cao ý thức trong khai thác, hoạt động bảo vệ môi trường.

IV. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân
Thành tựu
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra những chủ trương biện pháp quan trọng nhằm quản lý,
bảo vệ, khai thác biển và đạt được một số thành tựu quan trọng. Quy mô kinh tế biển và vùng
ven biển trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể, cơ cấu ngành, nghề chuyển dịch theo
hướng phục vụ cho xuất khẩu. Công tác diều tra cơ bản và quản lý tài nguyên, môi trường biển
được quan tâm hơn và đạt được những kết quả ban đầu. Trong quá trình phát triển kinh tế hình
thành một số trung tâm phát triển để ra biển. Năm 2005, kinh tế biển và vùng ven biển đóng
góp khoảng 48% GDP cả nước, trong đó, riêng kinh tế trên biển chiếm khoảng 22%; các ngành
kinh tế biển quan trọng như dầu khí, hàng hải, thủy sản, du lịch biển đều tăng trưởng với nhịp
độ cao.



22

Công tác đối ngoại đạt được một số kết quả quan trọng, quốc phòng, an ninh trên biển được
đảm bảo; các lực lượng bảo vệ biển đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, tạo điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trên biển, đảo; ý thức của nhân dân
bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển được nâng lên. Nước ta đã đàm phán giải quyết phân định
ranh giới vùng biển với một số nước có biển trong khu vực.
Trong thời gian qua, dựa trên lợi thế về tài nguyên biển, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những
chủ trương, biện pháp quan trọng để thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu
của Việt Nam và đã đạt được những thành tựu cơ bản, tạo đà cho các giai đoạn phát triển tiếp
sau. Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng lên rõ rệt, có bước phát triển mạnh, đạt tốc độ
tăng trưởng trên 10%. Ngoài các ngành kinh tế biển truyền thống như thủy sản, hàng hải, du
lịch, điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, diêm nghiệp,... vừa qua cơ cấu
ngành, nghề cũng thay đổi cùng với sự xuất hiện ngành/lĩnh vực kinh tế mới. Đáng kể là các
lĩnh vực, như: khai thác dầu khí, kinh tế đảo, kinh tế ven biển, kinh tế bảo tồn, tìm kiếm cứu hộ
và cứu nạn, quản lý nhà nước về biển, lĩnh vực đối ngoại và biên giới lãnh thổ trên biển; chế
biến dầu khí, chế biến thủy sản,...
Ngoài đội tàu, ngành hàng hải đã có hệ thống khoảng 90 cảng biển lớn nhỏ với tổng năng lực
hàng hóa thông qua gần 100 triệu tấn/năm. Các ngành vận tải biển, đóng và sửa chữa tàu biển,
xuất khẩu thuyền viên,... bước đầu cũng đã đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Ngành du lịch biển cũng phát triển khá mạnh, hàng năm thu hút khoảng gần 15 triệu lượt
khách, trong đó có hơn 3 triệu khách nước ngoài, bằng 73% số khách du lịch nước ngoài của cả
nước, đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm; giải quyết việc làm cho hơn 15 vạn lao động. Hoạt
động khai thác dầu khí được duy trì tại các mỏ ở thềm lục địa phía nam. Sản lượng dầu thô khai
thác ở nước ta tăng hàng năm 30%. Tuy nhiên, sản lượng khai thác dầu khí trong nước thời
gian tới sẽ chững lại và sẽ giảm đến mức 13 triệu tấn (năm 2025).
Vùng biển và ven biển có đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ, chủ yếu từ lĩnh vực dầu
khí và thủy sản. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa
chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy, hải sản, thông tin liên lạc,... bước đầu phát triển,
nhưng hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% của kinh tế biển), dự kiến tăng

trong tương lai. Đặc biệt, trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng mở, bước đầu đã hình
thành 15 khu kinh tế (KKT) ven biển - là các trung tâm phát triển kinh tế hướng biển (Bảng 1).


23

Đây là những khu vực phát triển tổng hợp các ngành, nghề biển như hậu cần nghề cá, công
nghiệp gắn với cảng biển và vận tải biển, du lịch biển, đô thị hóa và nghiên cứu khoa học về
biển,... Để tăng cường và tập trung đầu xây dựng các KKT ven biển trọng điểm, tháng 8/2012
Chính phủ đã ra quyết định chọn 5 nhóm KKT ven biển để ưu tiên đầu tư: Nhóm Đình Vũ - Cát
Hải (Hải Phòng), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Chu Lai - Dung Quất (Quảng
Nam - Quảng Ngãi) và Phú Quốc (Kiên Giang).
Ở một số hải đảo, đã có bước phát triển mới, vai trò kinh tế của các đảo tăng lên rõ rệt và tạo ra
một lĩnh vực kinh tế đảo đầy triển vọng. Hiện nay, trong 12 huyện đảo thì 66 đảo có dân sinh
sống với tổng số trên 240.000 người, mật độ dân số trung bình trên các đảo là 95 người/km 2 ,
kết cấu hạ tầng được tăng lên rõ rệt, hình thành hệ thống giao thông trên đảo, nhiều đảo gần bờ
có điện lưới, đảo xa bờ có máy phát điện, điện mặt trời và cơ sở cung cấp nước ngọt. Có nhiều
đảo sẽ phát triển thành những trung tâm kinh tế hướng biển như Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo,
Phú Quốc,...
Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên, môi trường biển được triển khai định kỳ 5 năm
đã cung cấp những hiểu biết khái quát các đặc trưng về điều kiện tự nhiên và tài nguyên biển.
Đặc biệt, Việt Nam đã chú ý thực hiện các cam kết quốc tế, đẩy mạnh công tác bảo tồn biển,
hướng tới phát triển kinh tế sinh thái biển. Đến nay, khoảng 13/28 vườn quốc gia, 22/55 khu
bảo tồn thiên nhiên, 17/34 khu rừng văn hóa lịch sử và môi trường nằm ở vùng ven biển và trên
các hải đảo ven bờ. Các khu dự trữ sinh quyển thế giới được công nhận đến nay đại đa số nằm
ở vùng bờ biển, như: rừng ngập mặn Cần Giờ, vùng quần đảo Cát Bà, vùng cửa sông Hồng và
sông Cửu Long,… Quy hoạch hệ thống 16 khu bảo tồn biển (KBTB) được Chính phủ phê
duyệt năm 2010. Năm 1994 vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới, năm
2003 vịnh Nha Trang và năm 2009 vịnh Lăng Cô được công nhận là một trong những vịnh đẹp
của thế giới. Ngoài ra, các khu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới như khu phố cổ Hội An,

khu thành cổ Huế, Thánh địa Mỹ Sơn và động Phong Nha đều nằm ở vùng ven biển. Du lịch
lặn bắt đầu phát triển ở Nha Trang dựa trên cơ sở khai thác các giá trị dịch vụ của HST biển.
Lĩnh vực quản lý nhà nước về biển và hải đảo mới được thiết lập từ năm 2008. Đây là lĩnh vực
mới tập trung vào quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất đối với biển và hải đảo. Kéo theo
đó, hệ thống quản lý nhà nước về biển và hải đảo ở nước ta đã được hình thành từ Trung ương
xuống địa phương. Nghị định số 25/2009/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 06 tháng 3


24

năm 2009 về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo được xem là văn
bản chính sách đầu tiên đề cập (tuy chưa đầy đủ) đến cách tiếp cận quản lý tổng hợp và thống
nhất về biển và hải đảo. Ngày 02/7/2012, Chủ tịch nước đã ký lệnh Công bố Luật Biển Việt
Nam.
Công tác đối ngoại và biên giới lãnh thổ liên quan đến biển cũng có thể xem là một lĩnh vực
quản lý nhà nước mang tính đặc thù ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.
Thời gian vừa qua chúng ta đã ký kết được một số thỏa thuận phân định và hợp tác trên biển
với các nước láng giềng nhằm duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực
Biển Đông. Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia ký kết các văn kiện mang tính chất quốc tế và
khu vực về Biển Đông như Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển Đông (DOC), Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; Công ước về Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO, các công ước
Nghề cá, bảo tồn sinh vật biển; triển khai một số dự án hợp tác song phương và đa phương về
biển với các nước liên quan.
Hạn chế
Nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp,
các ngành và nhân dân chưa đầy đủ; cho đến nay, nước ta vẫn chưa có chương trình phát triển
cụ thể, mạnh mẽ để phát huy toàn diện tiềm năng tài nguyên biển. Quy mô kinh tế biển còn nhỏ
bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý; mới phát triển một phần ở
vùng biển quốc gia, chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế; phương thức khai
thác kinh tế biển chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ. Công trình hạ tầng kỹ thuật biển còn yếu kém và

chưa đồng bộ, chưa có những cảng biển lớn, năng lực vận tải biển còn nhỏ bé, các tuyến đường
ven biển chưa được xây dựng hoàn chỉnh; chưa có những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ
biển mạnh và các cơ sở dự báo thiên tai từ biển; một số lĩnh vực xã hội đang bộc lộ nhiều yếu
kém, trình độ dân trí ở nhiều nơi còn thấp; cuộc sống của số đông nhân dân, nhất là vùng bãi
ngang còn nhiều khó khăn và chịu nhiều rủi ro; công tác đối ngoại, quốc phòng và an ninh liên
quan đến biển còn nhiều hạn chế, bất cập.
Như đã phân tích ở các phần trên, biển Việt Nam có tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế, tuy
nhiên chúng ta chưa khai thác biển một cách có hiệu quả. Biển là mênh mộng và rộng lớn,
nhưng hoạt động kinh tế biển nước ta vẫn xoay quanh và bó hẹp ở ven bờ, chưa tham gia hoặc


25

mở rộng hoạt động ra khỏi hải phận quốc gia và tiến ra “biển lớn”. Giá trị dịch vụ ngoài biên
giới quốc gia (vùng biển quốc tế, hoạt động viễn dương và khai thác đại dương...) của nền kinh
tế biển thế giới chiếm phần rất quan trọng. Theo đánh giá của các nhà hoạch định chính sách,
đối với các nước phát triển, chỉ 1 km biển họ có thể khai thác thu về 100.000 USD, trong khi
Việt Nam chỉ kiếm được 20.000 USD. Sở dĩ có sự chênh lệch lớn như thế là vì các nước phát
triển tập trung khai thác “chức năng biển”, trong khi đó Việt Nam mới tập trung khai thác “giá
trị vật chất biển”. Biển có giá trị vật chất và giá trị chức năng nhưng từ trước đến nay chúng ta
chủ yếu khai thác giá trị vật chất. Thực tế ấy khiến cho chúng ta không những không khai thác
được hết giá trị của biển mà còn dẫn đến hệ quả là sự phát triển của kinh tế biển trong những
năm qua diễn ra một cách tự phát, manh mún, tác động xấu đến tính bền vững của vùng biển và
ven biển nước ta.
Nguyên nhân
Những yếu kém nêu trên, trước hết, là do công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận
thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai trò của biển chưa đầy đủ, nên chưa tích
cực tổ chức triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ liên quan đến biển. Các cơ quan quản lý nhà
nước về biển chưa làm tốt vai trò của mình, nhất là xây dựng chiến lược, hoạch định chính
sách. Vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng biển và phát triển ngành, nghề biển còn ít, chưa đáp

ứng yêu cầu. Hợp tác quốc tế về biển còn nhiều hạn chế, trong khi tranh chấp giữa các nước ở
Biển Đông còn phức tạp.
Theo đánh giá của các chuyên gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng trên là do trình độ kỹ thuật của các ngành kinh tế biển ở nước ta còn rất thấp.
Hầu hết, các ngành, nghề mới được trang bị kỹ thuật, công nghệ thông thường và lạc hậu xa so
với những nước đã có kinh tế biển phát triển. Bên cạnh đó, nền khoa học công nghệ biển nước
ta còn yếu; tiềm lực khoa học công nghệ về biển chưa được xây dựng đủ mức, đủ tầm; công tác
nghiên cứu khoa học biển chưa có quy hoạch, kế hoạch và thiếu sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước; chất lượng nghiên cứu khoa học còn ở mức độ thấp, chưa đủ cơ sở để làm căn cứ xác
định chiến lược phát triển dài hạn và điều chỉnh, bổ sung các chính sách phát triển kinh tế biển.
Thời gian gần đây, môi trường biển và vùng biển ven bờ ở nhiều nơi bị ô nhiễm, đặc biệt ở các
vùng biển tập trung phát triển công nghiệp, vận tải biển và công nghiệp ven bờ. Hiện tượng


×