Tải bản đầy đủ (.pdf) (267 trang)

thực tế hoạt động tình dục ở con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 267 trang )

Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Lời nói đầu
Chào mừng các bạn đến với thế giới hấp dẫn của tình dục học nghiên cứu khoa học về hoạt động tình dục ở con người. Bằng cách
lựa chọn đọc cuốn Thực tế về Hoạt động Tình dục ở Con người,
bạn đã chấp nhận thách thức tìm hiểu về các khía cạnh tình dục để
đưa ra những quyết định mang tính hiểu biết về tình dục. Chúng tơi
thực sự hi vọng rằng, những thơng tin được trình bày trong các
chương sau của cuốn sách sẽ giúp bạn làm được điều này.
Bạn có thể sẽ băn khoăn khơng biết lý do tại sao chúng tôi lại viết
cuốn sách này. Đã từng trải qua thời sinh viên và giảng viên đại
học, chúng tôi đã thấy rất nhiều tài liệu về giáo dục tình dục giành
cho người lớn, đặc biệt là những cuốn sách giáo khoa trong trường
đại học, những tài liệu đó ở chừng mực nào đó có thể rất cụ thể,
giản dị thái quá, mang tính chính trị, mang tính kinh nghiệm hay có
thể bị phản đối. Từ cách nhìn của chúng tơi thì hầu hết các tài liệu
về giáo dục giới tính hoặc là (1) quá mang tính học thuật, (2) đơn
giản một cách khiếm nhã, (3) thiên về tính chính trị, (4) q "sơi
nổi và thơ ráp," hay (5) "chỉ dành cho độc giả là người lớn." Chúng
tôi không đồng tình với tất cả năm cách tiếp cận trên. Thay vào đó,
chúng tơi tin rằng điều quan trọng đối với những tài liệu giáo dục
giới tính giành cho người lớn là cần phải dễ hiểu, thực tế và khoa
học, nhưng nó cũng cần trung tính trong cách thể hiện, trình bày.
Mục đích của chúng tơi là viết cuốn Thực tế về Hoạt động Tình
dục ở Con người một cách súc tích, dễ đọc, khơng mang sự thành
kiến về giới tính, khơng có những chi tiết thừa thãi, và khơng có
những bình luận xã hội chạy theo mốt. Nhằm mục đích khuyến
khích những suy nghĩ có tính phê phán và độc lập, chúng tôi đã giới
thiệu những chủ đề mang tính tranh cãi trên quan điểm có sự cân
nhắc, trình bày ý kiến của cả hai bên một cách bình đẳng và công
bằng. Chúng tôi cũng sắp xếp bài viết theo tính học thuật, xem xét


các nhân tố sinh lý, tâm lý và xã hội của các khía cạnh khác nhau
trong hoạt động tình dục ở con người. Sự khác biệt và ảnh hưởng
của văn hóa cũng được trình bày một cách cẩn thận. Chúng tôi chọn
việc tiếp cận tài liệu mang tính chỉnh thể luận; bạn sẽ thấy những
vấn đề về giới, toàn bộ những vấn đề liên quan đến xu hướng tình
dục, và sự đa dạng của các quan hệ yêu đương trước khi bắt đầu
đọc các tài liệu về hoạt động tình dục. Những chương nói về hành vi
tình dục được sắp xếp lại với nhau, nó bao quát những điều liên
quan đến tình dục và thách thức cá nhân trong suốt đời người. Điều
này rất phù hợp với khái niệm thảo luận về các hành vi tình dục
trên phạm vi rộng theo kinh nghiệm của con người. Sự đa dạng
trong các tương tác về tình dục ở cá nhân và cả xã hội được trình
bày ở những chương còn lại, những chương còn lại còn bao gồm cả
tài liệu về các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Cuốn sách này
được kết thúc bằng một chương sâu sắc về các vấn đề luật pháp,
đạo đức và quy phạm liên quan đến tình dục. Tóm lại, chúng tôi hi


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

vọng rằng quyển sách này sẽ đóng một vai trị hữu ích trong việc
giáo dục giới tính tồn diện cho các bạn.
Trong những trang tiếp theo đây, chúng tơi xin trình bày một cách
tổng quan những bài giảng tiêu biểu dành cho sinh viên về hoạt
động tình dục ở con người. Theo cách đó cuốn Thực tế về Hoạt
động Tình dục ở Con người có thể phục vụ cả hai mục đích, vừa
là sách hướng dẫn cho sinh viên đại học, những người muốn có tài
liệu bổ sung thêm cho các cuốn sách giáo khoa về tình dục mà họ
đã có, vừa là sách tham khảo thông tin cho các độc giả quan tâm.
Một lần nữa, chào mừng các bạn đến với thế giới tình dục học!

George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Hoạt động tình dục Và Quan điểm Tâm sinh lý xã hội
Người dịch: Nguyễn Hồng Trang
Tâm Sinh Lý Xã Hội
Hầu hết mọi người Mỹ đều có sự hiểu biết mang tính trực giác về
nghĩa của cụm từ hoạt động tình dục của con người. Đối với nhiều
người hoạt động tình dục đơn thuần là theo đuổi thú vui xác thịt.
Đối với những người khác, nó là chức năng sinh lý - một vấn đề liên
quan đến giới và sinh sản. Và đối với những người khác thì nó là sự
thân mật - một phương tiện để thể hiện tình yêu. Nếu bạn yêu cầu
10 người đưa ra định nghĩa của họ về tình dục thì bạn có thể nhận
được ít nhất 10 câu trả lời khác nhau.
Tất cả các nền văn minh đều xây dựng cho mình những định nghĩa
về tình dục và cách miêu tả những hành vi tình dục, cho dù những
cách này không phải lúc nào cũng nhất quán với các thuật ngữ và
cách miêu tả của Phương Tây. Từ sexual (tình dục) trong Tiếng Anh
bắt nguồn từ tiếng La Tinh sexualis và sexus, mỗi từ nói đến vấn đề
giải phẫu sinh sản ở người - dù cho là nam hay nữ. Đến thế kỷ 19,
từ sexuality (hoạt động tình dục) bao gồm cả các hành vi liên quan
đến cơ quan sinh dục phục vụ mục đích sinh sản. Khoảng 100 năm
trước sexuality (hoạt động tình dục) hay sex (tình dục, giới) khơng
chỉ được dùng để nói đến các hoạt động liên quan đến procreational
(sự sinh sản) (có nghĩa là sinh con), mà cịn được dùng để nói đến
recreational (sự tiêu khiển) (quan hệ tình dục vì mục đích vui thú)
và relational(quan hệ) (tận hưởng tình yêu và sự thân mật).

Vì sử dụng thuật ngữ sexual (tình dục) có thể gây nhầm lẫn nên
trong cuốn sách này chúng tôi sử dụng từ sex (tình dục, giới) để nói
đến các hành vi tình dục (ví dụ "quan hệ tình dục") và bản chất sinh
học ("Giới tính của đứa trẻ là nữ"), trừ khi trong bối cảnh của đoạn
viết từ sex được dùng như từ rút ngắn cho hai từ chuẩn tắc là
sexual (tình dục) và sexuality (hoạt động tình dục) ("giáo dục tình
dục", "nghiên cứu tình dục," và "trị liệu tình dục"). Chúng tơi cũng
sử dụng từ gender (giới) để nói đến việc giải phẫu tình dục của cá
nhân và các khía cạnh tâm lý của nam hay nữ; gender identity
(nhận dạng giới) được dùng để chỉ ý thức cá nhân của từng người
về việc bản thân là nam hay nữ; gender role (vai trò về giới) để chỉ
sự thể hiện bên ngoài về nhận dạng giới của một người đặt trong
bối cảnh văn hóa hay xã hội; và sexual orientation (xu hướng tình
dục) để nói đến sự hấp dẫn tình dục của một cá nhân đối với những
người cùng giới và/hay khác giới. Chúng tôi cũng sử dụng từ sexual
identity (nhận dạng tình dục) để nói về tất cả những điều này.
Với sự xuất hiện của các phương pháp nghiên cứu tinh vi, việc hiểu
biết về tình dục đã tăng lên một cách đáng kể trong những thập
niên gần đây. Nhiều chuyên gia bây giờ đã coi hoạt động tình dục
của con người là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học nghiêm túc . Và
mặc cho tính sẵn có của nhiều thơng tin mới thì rõ ràng rằng mơn
khoa học về hoạt động tình dục ở con người là thuộc chỉnh thể luận,


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

và do đó nó bao gồm nhiều quan điểm khác nhau. Việc tiếp cận
theo hướng chỉnh thể luận đối với các vấn đề về tình dục liên quan
đến những ảnh hưởng mang tính xã hội, tâm lý và sinh lý mà những
mặt này tác động qua lại với nhau, hình thành nên kinh nghiệm tình

dục của một người. Những ảnh hưởng tác động qua lại với nhau này
sẽ được đề cập cụ thể hơn ở phần sau của chương này và trong suốt
cuốn sách này.
Mọi người đều có liên quan đến tình dục từ lúc sinh ra cho đến khi
chết đi. Cho dù một số người chọn việc sống độc thân (không quan
hệ tình dục), nhưng họ vẫn là những thực thể tình dục. Hơn nữa,
con người là năng động và thay đổi khơng ngừng. Người càng có
nhiều trải nghiệm trong cuộc sống càng thay đổi thái độ của họ về
vấn đề tình dục.
Cho dù kinh nghiệm của từng người về tình dục là khác nhau nhưng
có các xu hướng và kiểu mẫu chung đối với kinh nghiệm về tình dục
của mọi người. Khả năng giải thích và hiểu những kiểu mẫu và xu
hướng tình dục này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về hoạt động tình
dục của người khác cũng như của chính bản thân mình. Nhiều người
qn mất rằng, sinh hoạt tình dục ở con người là một hiện tượng
mang tính tồn cầu chứ khơng phải là thú vui của chỉ người Mỹ.
Do đó, tình dục học là một mơn khoa học địi hỏi coi con người của
mọi nền văn hóa như thực thể tình dục trong q trình, nhận biết sự
tác động qua lại của các khía cạnh sinh lý, tâm lý và xã hội ảnh
hưởng đến quá trình này. Cái nhìn khái qt tồn diện về lĩnh vực
tình dục bao gồm các thảo luận về nghiên cứu tình dục, nhận dạng
giới, vai trị của tình dục, giải phẫu sinh lý và tình dục, việc gợi tình
và sự đáp lại, xu hướng tình dục, các quan hệ yêu đương và giao
tiếp, hành vi tình dục, hoạt động tình dục và sự bất lực, hoạt động
tình dục trong suốt quãng đời, thụ thai, mang thai, sinh đẻ, tránh
thai, phá thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, rối loạn tình
dục và phương pháp điều trị, sự khác biệt về tình dục, bn tình,
quấy rối tình dục, ngược đãi tình dục và những chuẩn mực luật
pháp, quy phạm liên quan đến tình dục.
Trong những chương tiếp theo, chúng tơi sẽ trình bày những điều

này và các chủ đề liên quan đến tình dục khác.
TẠI SAO CẦN NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC CỦA CON
NGƯỜI ?
Tại sao cần nghiên cứu hoạt động tình dục ở con người? Những
người tránh né việc suy nghĩ một cách nghiêm túc về những khía
cạnh quan trọng của cuộc sống, bao gồm cả sinh hoạt tình dục của
họ, là những người có khuynh hướng đưa ra những quyết định tồi
khi phải đối mặt với những tình huống rắc rối. Học cách đưa ra
những quyết định hợp lý, có hiệu quả về tình dục là mục tiêu đầu
tiên của việc nghiên cứu hoạt động tình dục ở con người. Chúng tơi
xin trích dẫn câu nói của Susan Walen (1985)1, "Tình dục là hồn
tồn tự nhiên, nhưng hiếm khi được hoàn hảo một cách tự nhiên"


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

(trang 131). Mọi người đều có thể thu được lợi ích từ việc học thêm
về chủ đề quan trọng này.
Dưới đây là 10 trong số nhiều lý do tại sao mọi người nên học thêm
về hoạt động tình dục ở con người.
Để có thêm kiến thức
Kiến thức là sức mạnh. Nếu bạn có những thơng tin đúng đắn về
một chủ đề, bạn sẽ ở một vị thế vững chắc hơn để đưa ra những
quyết định đúng đắn, có hiệu quả trong cuộc sống. Bạn có thể chịu
trách nhiệm hơn với cuộc sống và hồn cảnh của mình, và có thể
lựa chọn cách để nâng cao chất lượng cuộc sống cho chính bạn và
người khác.
Để có được Sự sáng suốt Cá nhân
Vì niềm tin của bạn có ảnh hưởng đến cách cư xử của bạn và ngược
lại, nên sự sáng suốt cá nhân sẽ giúp bạn đưa ra những quyết định

đúng đắn về hành vi xư xử của mình. Có được sự sáng suốt đối với
bản thân và hiểu lý do tại sao bạn tin hay làm việc gì đó là bước đầu
tiên để hiểu thấu được người khác. Khi bạn hiểu và chấp nhận bản
thân mình, bạn sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc hiểu và chấp nhận
người khác, bao gồm cả những quyết định liên quan đến tình dục
mà họ có thể đưa ra.
Để trở nên Thoải mái hơn Đối với vấn đề Tình dục
Có kiến thức - và sự tơn trọng đối với - tình dục giúp bạn trở nên
thoải mái hơn với phần quan trọng này của cuộc sống. Nhiều người
thiếu tự tin vào bản thân trong quan hệ tình dục, sự khơng thoải
mái của họ bắt nguồn từ những thông tin sai lạc và quan niệm sai
lầm về tình dục. Đây là một trong những lý do cho thấy tại sao giáo
dục tình dục lại quan trọng như thế.
Để xây dựng Sự tự cơng nhận về Tình dục
Xây dựng sự tự cơng nhận về tình dục là một lợi ích của việc trở nên
thoải mái hơn với hoạt động tình dục của chính bản thân mình. Mọi
người thường nhầm lẫn giữa các từ tự nhận thức, lòng tự trọng và
tự công nhận. Tự nhận thức dùng để chỉ những quan điểm và ý kiến
mà bạn cho là của bản thân, cho dù chúng có tích cực hay tiêu cực.
Lòng tự trọng liên quan đến những cảm giác về sự tự giá trị, và
nghĩa rộng là đo lường những tiêu chuẩn bên trong hay bên ngồi.
Sự tự cơng nhận dùng để chỉ mức độ mà bạn chấp nhận bản thân
như nó vốn có bất kể ý kiến của người khác về hành vi cư xử của
bạn có như thế nào ( có nghĩa là "sự thể hiện" của bạn, sử dụng
tâm lý học nhận thức).
Albert Ellis và các nhà tâm lý học khác tranh cãi với nhau rằng sự tự
cơng nhận được ưa chuộng hơn lịng tự trọng. Lịng tự trọng liên
quan đến việc đánh giá bản thân dựa trên sự thể hiện của bạn, điều
này có thể dẫn đến cảm giác khơng thỏa đáng trong tình dục khi
bạn thể hiện "kém". Ngược lại, sự tự cơng nhận có nghĩa là chấp

nhận bản thân như nó vốn có, khơng quan tâm đến những lỗi lầm
hay điểm yếu của bạn. Khả năng tình dục của bạn, cho dù có thế
nào, cũng khơng ảnh hưởng đến cách bạn nhìn bản thân.


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Để Tối đa hóa việc Trao đổi và Sự thân mật
Nhiều người cho rằng nói những chuyện có liên quan đến tình dục
gây bối rối, suy nghĩ như vậy bắt đầu từ thời thơ ấu. Các kỹ năng
giao tiếp, một khi đã được học và áp dụng vào thực tế, có thể giúp
bạn cải thiện mối quan hệ của bạn với bạn tình của mình. Nói
chuyện về kinh nghiệm tình dục của bạn là cần thiết, trao đổi về các
vấn đề như thích, khơng thích, mong muốn, và sợ hãi, sẽ giúp quan
hệ tình dục an tồn hơn. Khi trao đổi cởi mở, sự thân mật xuất hiện
và tăng lên. Có khả năng chia sẻ bản thân toàn diện với người khác
là một trong những điều thú vị nhất của cuộc sống. Theo một khách
hàng:
Ghi chép Cá nhân (John, 66 tuổi)
Khi tôi trở nên già hơn, tơi chậm chạp hơn trong phịng
ngủ.Tơi cho đó là điều tự nhiên. Nhưng trong một thời gian
dài, tôi lo lắng không biết vợ tôi sẽ nghĩ gì. Ý tơi là, khơng
hiểu cơ ấy có cịn nghĩ rằng tơi là đàn ơng nữa khơng? Liệu
cơ ấy có cịn u tơi khơng? Và lo lắng đó khiến cho việc
quan hệ thậm chí khó khăn hơn. Cuối cùng, tơi đã thấy rằng
chúng tơi cần nói chuyện về vấn đề đó. Chúng tơi đã biến một
câu chuyện dài thành ngắn và đúng là có sự khác biệt. Cơ ấy
hiểu và sẵn sàng giúp đỡ tôi. Tôi đã quyết định rằng sẽ tốt
hơn khi sử dụng năng lượng của mình để nói chuyện về cảm
giác của mình thay vì cố gắng che giấu chúng. (Hồ sơ của

Tiến Sĩ Zgourides)
Trao đổi có thể rất có ích trong việc làm giảm hay loại bỏ những
xung đột trong các mối quan hệ chung. Mặc dù các cặp vợ chồng
thường phàn nàn về các vấn đề liên quan đến tiền nong và tình dục,
nhưng phần lớn thời gian vấn đề thực sự không được giải quyết
bằng các phương pháp trao đổi hiệu quả. Mọi người thường thấy vấn
của họ được giải quyết dễ dàng hơn khi họ sẵn sàng nói chuyện cởi
mở với người khác.
Để Tối đa hóa Khối lạc Tình dục
Đối với hầu hết mọi người, hoạt động tình dục mang lại niềm vui
thích mãnh liệt. Làm tăng hiểu biết của bạn về sự kích thích tình
dục ở con người và cách đáp lại có thể làm tăng thêm sự khối lạc
này. Ví dụ, biết cách làm thế nào để khích thích những điểm nhạy
cảm đặc biệt của bạn tình có thể tạo ra sự khác biệt cho dù cả hai
bạn đều có những trải nghiệm tình dục thú vị dịu dàng hay ở trạng
thái mê ly, ngây ngất, vui vẻ, hồ hởi. Như đã đề cập ở trên, trao đổi
đóng một vai trị rất quan trọng ở đây. Khi bạn tự do bày tỏ những
điều bạn thích và mong muốn của bạn thì sự ức chế có xu hướng
biến mất. Bạn và bạn tình của mình có thể hỏi về bất kỳ điều gì
khiến bạn cảm thấy thỏa mãn nhất.
Để Kiểm sốt được việc Sinh sản
Nghiên cứu về hoạt động tình dục ở con người cung cấp cho bạn
những thông tin thực tế về việc kiểm sốt sinh sản. Với những
thơng tin này, bạn có thể nâng cao hay làm giảm cơ hội thụ thai của


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

mình. Ít người có đủ những thơng tin thực tế có giá trị liên quan đến
việc sinh sản.

Để Tránh những Rối loạn Tình dục
Ở một chừng mực nào đó, hầu hết mọi người đều đã từng trải qua
những khó khăn trong hoạt động tình dục. Phần lớn những giai đoạn
khó khăn đó đều là tạm thời. Nhưng nếu những khó khăn đó trở
thành mãn tính thì rối loạn tình dục (vấn đề liên quan đến các cơ
chế gợi tình và sự đáp lại) có thể đã xuất hiện. Khi có những thơng
tin chính xác, các rối loạn tình dục thường có thể được tránh hay
loại bỏ ở giai đoạn đầu khi mới xuất hiện. Ví dụ, một người đàn ơng
có một giai đoạn bị bất lực (khơng có khả năng đạt được sự cương
cứng) có thể sẽ lo sợ mình sẽ bị bất lực mãi mãi đến nỗi anh ta
không thể cương cứng bất kỳ khi nào có quan hệ. Nếu điều này cứ
tiếp diễn, anh ta có thể sẽ phát triển nó thành bệnh rối loạn dương
cương. Tương tự như vậy, một người phụ nữ tập trung quá mức vào
việc làm thế nào để trở nên gợi tình có thể sao nhãng bản thân đến
mức việc gây hứng thú tình dục trở nên rất khó khăn hoặc khơng
thể làm được. Nếu tình trạng này tiếp diễn, cơ ta có thể sẽ mắc
chứng rối loạn ham muốn tình dục ở phụ nữ. Trong cả hai trường
hợp, những dạng thức của vòng luẩn quẩn là kết quả của việc dự
đốn sự hồn thành ước nguyện của mình, mà ở đó sự sợ hãi và kỳ
vọng của một người thực sự đã đi đến chỗ gay go.
Để Tránh những Bệnh Lây truyền qua đường Tình dục
Nghiên cứu về hoạt động tình dục ở con người phải bao gồm cả chủ
đề liên quan đến những bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiều
bệnh trong số những bệnh này đã phát triển thành bệnh dịch, có
thể gây chết người, có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh
ra những đứa trẻ khỏe mạnh của hai vợ chồng, và/hoặc có thể gây
những đau đớn phiền tối. Bởi vậy, trước khi có quan hệ tình dục,
mọi người cần phải xem xét nguy cơ bị nhiễm các bệnh lây truyền
qua đường tình dục. Vào "thời điểm nóng", nhiều người, đặc biệt là
các bạn trẻ thường quên không để ý đến các bệnh lây truyền qua

đường tình dục. "Điều đó sẽ khơng bao giờ xảy đến với tơi. Tơi
khơng phải là đối tượng có nguy cơ cao. Tơi không phải là kẻ tiêm
ch ma túy." Hay "Tôi ghét sử dụng bao cao su. Dù sao đi nữa, cũng
chẳng phải là vấn đề gì lớn nếu ngày nào đó tôi bị mắc bệnh lậu.
Chỉ cần tiêm penicillin là xong." Cảm giác không thể bị đánh bại
thường là đặc điểm của những người trẻ tuổi. Hãy nhớ rằng những
bệnh lây truyền qua đường tình dục càng trở nên phổ biến thì nguy
cơ nhiễm bệnh lại càng cao nếu như một người khơng áp dụng các
biện pháp phịng tránh thích hợp.
Để Mang đến những Thay đổi Xã hội Tích cực
Bằng việc cải thiện bản thân và những mối quan hệ của mình, bạn
đang làm việc để cải tạo xã hội. Bất kỳ những thay đổi tích cực và
lành mạnh nào mà bạn làm đối với bản thân cũng sẽ ảnh hưởng đến
sự tương tác của bạn với những người khác. Ví dụ, bằng việc trang
bị những thông tin và với sự sáng suốt của bản thân bạn có thể làm


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

việc để phòng chống sự lan truyền của những bệnh lây qua đường
tình dục; bạn có thể giúp người khác hiểu hơn về những người thuộc
những chủng tộc, tôn giáo và những nền văn hóa khác họ; và bạn
có thể dạy người khác biết tôn trọng sự khác biệt về đức tin, giá trị,
quyền lợi và sự lựa chọn quan hệ. Bạn cũng có thể gánh những
trách nhiệm xã hội và chính trị để cung cấp thông tin khi tranh luận
liên quan đến những vấn đề về tình dục nảy sinh, chẳng hạn như
việc sử dụng bào thai trong nghiên cứu y học, việc sử dụng "thuốc
phá thai" RL-486 và những nỗ lực coi đồng tính nam và đồng tính
nữ là chuyện bình thường.
Suy nghĩ Cá nhân

(Trong suốt cuốn sách này, chúng tơi đã trình bày nhiều câu
hỏi gây suy nghĩ khác nhau để làm tăng nhận thức của bạn
về các vấn đề tình dục. Nhiều người thấy rằng việc giữ lại
những câu trả lời của họ đối với những câu hỏi khác nhau
"Suy nghĩ cá nhân" được nêu ra trong cuốn sách này là một
việc làm hữu ích - dưới dây là những câu hỏi mà chúng tơi
đưa ra.)
Bạn có dễ dàng nói chuyện cởi mở về tình dục với những
người bạn?Với gia đình? Với người hướng dẫn? Với bạn đời?
Với mục sư? Với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe của mình
khơng? Tại sao có? Hay tại sao khơng? Bạn dã học để biết về
tình dục từ đâu? Hay từ ai? Ảnh hưởng nào có tác động lớn
nhất trong việc hình thành các giá trị và thái độ của bạn đối
với vấn đề tình dục? Bạn cảm thấy những điều mình học được
là đúng đắn hay khơng đúng đắn?
Những điều tán thành và phản đối đối với giáo dục giới tính là
gì?Có nên giảng dạy mơn giáo dục giới tính ở trường phổ
thông của nhà nước, của tư nhân không? Nếu có thì nên
giảng ở lớp mấy? Vai trị của gia đình và tơn giáo trong q
trình giáo dục giới tính là gì? Những yếu tố nào là quan trọng
để có một chương trình giảng dạy giáo dục giới tính hay?
Những yếu tố nào cần tránh? Người hướng dẫn có thể giúp
hay gây cản trở suy nghĩ cá nhân hay thảo luận nhóm về vấn
đề tình dục như thế nào?
QUAN ĐIỂM TÂM SINH LÝ XÃ HỘI LÀ GÌ?
Định nghĩa về tình dục học được nêu ra ở trên nói đến mối tương
quan giữa các quan điểm về sinh lý, tâm lý và xã hội.Sự tác động
qua lại của ba yếu tố này hình thành nên bản chất quan điểm tâm
sinh lý xã hội của hoạt động tình dục ở con người, mà quan điểm
này quy những hiện tượng hay sự kiện phức tạp liên quan đến tình

dục là do nhiều nguyên nhân. Trái ngược với quan điểm tâm sinh lý
xã hội là quan điểm giản hóa luận, quan điểm này "làm giảm"
những sự kiện hay hiện tượng phức tạp liên quan đến tình dục, cho
nó là do một ngun nhân.
Xem xét ví dụ áp dụng mơ hình tâm sinh lý xã hội vào hoạt động
tình dục của con người. Một số phụ nữ thấy khó khăn hoặc khơng


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

thể đạt được sự cực khối khi quan hệ tình dục. Loại vấn đề liên
quan đến tình dục này có thể là do các nguyên nhân như: sự huấn
thị, hay những thông điệp nhận được từ thời thơ ấu - ví dụ như
quan hệ tình dục là tội lỗi và phụ nữ khơng được hưởng những khối
lạc do nó mang đến; sợ mang bầu; khơng trao đổi với người bạn
tình về nhu cầu và mong muốn của mình; khơng điều khiển được
các cơ xương chậu; và/hay chưa nhận đủ sự kích thích tự nhiên.
Một ví dụ thực tế về q trình tương tác của các yếu tố sinh lý, tâm
lý, xã hội gây ra vấn đề tình dục kinh niên: Sally được nuôi dạy với
niềm tin rằng phụ nữ "tốt" không được hưởng thụ thú vui từ quan
hệ tình dục hay khơng được có sự cực khối. Do trải nghiệm về việc
khơng được đạt đến cực khối khi quan hệ tình dục với chồng của
mình (có nghĩa là yếu tố tâm lý) nên cô tập trung quá nhiều vào
việc "thể hiện", điều này khiến cơ xao lãng khỏi việc đắm chìm bản
thân vào trong hoạt động tình dục (tâm lý). Trong lúc đó, hệ thống
thần kinh của cơ trở nên khuấy động đến nỗi việc đạt đến cực khối
là rất khó hoặc khơng thể (sinh lý). Nhiếc móc bản thân về việc
khơng đạt đến cực khối (tâm lý), cơ địi hỏi thái q ở người chồng
và tình cờ đã tạo nên mơi trường tình dục mang tính thù địch mà
điều này chỉ làm tăng thêm các vấn đề của cô (xã hội).

Phần cịn lại của chương này được dành để nói về từng quan điểm
trong ba quan điểm chính của mơ hình tâm sinh lý xã hội của hoạt
động tình dục ở con người, phần này cũng nói về những quan điểm
khác nhau được xếp vào trong từng nhóm.
CÁC QUAN ĐIỂM SINH HỌC VỀ HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC Ở CON
NGƯỜI
Điều được quan tâm đầu tiên trong những quan điểm sinh học là
ảnh hưởng của các quá trình sinh học và tự nhiên đến hoạt động
tình dục của một cá nhân. Những chủ đề về tình dục liên quan đến
phạm trù này bao gồm giải phẫu tình dục và sinh lý học nam và nữ,
sự gợi tình và việc đáp lại, thu thai, mang thai, sinh nở, tránh thai,
phá thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, và những ảnh
hưởng của chứng bất lực và bệnh tật đối với hoạt động tình dục.
Một lần nữa, các nhân tố tâm lý và xã hội lại có ảnh hưởng đến từng
lĩnh vực này. Ví dụ, mặc dù việc phá thai có liên quan đến những
can thiệp y học nhằm loại bỏ bào thai khỏi tử cung, nhưng có một
chuỗi các hành động phức tạp có liên quan đến việc phá thai như
những xem xét về thái độ, xã hội, luật pháp, quy tắc và đạo đức.
Những quan điểm sinh học bao gồm cả những quan điểm hóa sinh
và tâm thần học.
Quan điểm hóa sinh
Trọng tâm của quan điểm hóa sinh là tất cả những mặt chức năng
của con người - tình dục và những mặt khác - đều phản ánh các quá
trình sinh học và hóa học. Theo mơ hình này, những rối loạn tình
dục là do các bệnh tật trong cơ thể, những vấn đề về cấu trúc, hay
sự mất cân bằng hóa học. Những nhà trị liệu sinh học, chẳng hạn
như các bác Sĩ điều trị những vấn đề liên quan đến tình dục bằng


Thực tế hoạt động tình dục ở con người


cách cố gắng sửa chữa hay đảo lộn những quá trình sinh học bị suy
yếu. Ví dụ, liệu pháp sinh học điều trị chứng bất lực có thể bao gồm
việc sử dụng thuốc và việc cấy dương vật giả. Hai phạm trù nhỏ phổ
biến của quan điểm hóa sinh là quan điểm vơ tính và quan điểm di
truyền. Theo quan điểm vơ tính, tất cả các mặt thuộc chức năng của
con người (bao gồm cách cư xử, suy nghĩ và tình cảm) có cơ sở nằm
trong hoạt động của hệ thống thần kinh. Mặc dù các q trình vơ
tính được hiểu một cách khá rõ, nhưng hoạt động của hệ thống thần
kinh nói chung trong việc điều khiển hành vi tình dục thì lại chưa
được hiểu nhiều. Những người đưa ra quan điểm di truyền cho rằng
tất cả các mặt thuộc chức năng con người đã được quyết định bởi
yếu tố di truyền trước khi được sinh ra. Hầu như tất cả các tế bào
trong cơ thể người có đều có 23 cặp nhiễm sắc thể, những cấu trúc
mang yếu tố di truyền. Trong mỗi một cặp, một nhiễm sắc thể được
di truyền từ bố, và một nhiễm sắc thể được di truyền từ mẹ. Các
nhiễm sắc thể mang gien, thông tin "lên kế hoạch" về cấu trúc và
chức năng của cơ thể, bao gồm cả chức năng tình dục
Quan điểm Tâm thần học
Quan điểm tâm thần học có cơ sở từ quan điểm hóa sinh, và từ
một hay nhiều quan điểm tâm lý.Đối với các chuyên gia về tâm thần
học sử dụng mơ hình của Freud thì những rối loạn về tình dục là kết
quả của sự mất cân bằng hóa sinh và những mong muốn bị kìm nén
hoặc những xung đột. Do đó việc điều trị các rối loạn này phải bao
gồm cả việc sử dụng thuốc để điều chỉnh sự mất cân bằng hóa học
và cả liệu pháp phân tâm học để giúp bệnh nhân tháo gỡ những kìm
nén của họ. Mặc dù ngày nay các chuyên gia về tâm thần học nhìn
chung đều cho rằng thuyết nguyên nhân (các căn nguyên gây bệnh)
về sinh học, phân tâm học và tâm lý xã hội là quan trọng như nhau,
nhưng tâm thần học truyền thơng vẫn cịn dựa q nhiều vào học

thuyết cổ điển của Freud. Mọi người thường nhầm lẫn quan điểm
tâm thần học với một hay nhiều quan điểm tâm lý học. Khác biệt
chủ yếu của quan điểm tâm thần học với quan điểm tâm lý học là
tâm thần học tập trung vào cả quá trình sinh học lẫn quá trình tinh
thần.
NHỮNG QUAN ĐIỂM TÂM LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC Ở CON
NGƯỜI
Những người ủng hộ quan điểm tâm lý về hoạt động tình dục ở
con người xem xét xem những suy nghĩ, thái độ, tình cảm và hành
vi được tích lũy từ những trải nghiệm trong cuộc sống có ảnh hưởng
đến thái độ và chức năng tình dục như thế nào? Những quan điểm
này có liên quan đến thái độ đối với tình dục (ví dụ "Tơi tin rằng
quan hệ tình dục trước hơn nhân là việc làm trái với đạo đức"), sự
cởi mở trong việc thảo luận về cảm giác ("Vợ tơi có thể sẽ từ chối
tơi nếi tơi nói cho cơ ý biết tơi muốn gì"), các dạng khác biệt về
hành vi tình dục, những người có hoạt động tình dục bất thường
mong muốn gì, rối loạn tình dục phát triển như thế nào, và các
phương pháp gây ảnh hưởng đến những lĩnh vực này. Những quan


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

điểm tâm lý bao gồm tâm lý động học, nhận thức-hành vi, tồn tạichủ nghĩa nhân văn, các hệ thống, và quan điểm phát triển.
Quan điểm Tâm lý động học
Dựa trên học thuyết của Freud, quan điểm tâm lý động học là
việc xem xét những động cơ vô thức và mong muốn của một cá
nhân và quyết định xem anh ta hay cô ta sẽ tương tác với thế giới
như thế nào. Quan điểm này gần giống với quan điểm của tâm thần
học truyền thống, nhưng điểm khác biệt là ở chỗ nó tập trung hơn
vào những ảnh hưởng tâm lý học so với ảnh hưởng sinh học. Ví dụ

phương pháp điều trị tâm thần học truyền thống đối với bệnh
vaginismus (đau khi co thắt ở phần ngoài âm đạo khiến cho dương
vật khơng thể hoặc rất khó có thể vào được bên trong) là sử dụng
thuốc trong khi điều trị bằng liệu pháp tâm lý động học không dùng
thuốc. Tuy nhiên, cả hai hướng tiếp cận có thể cho thấy các phương
pháp chung liên quan đến cách giải thích học thuyết của Freud. Một
chuyên gia về tâm thần học theo thuyết Freud và một nhà trị liệu
tâm lý động học có thể coi người phụ nữ bị bệnh vaginismus có
những xung đột thầm kín liên quan đến những mong muốn tình dục
"không thể chấp nhân" và điều này dẫn đến "triệu chứng" ngăn cản
khiến cơ khơng nói ra những mong muốn của mình.
Quan điểm Nhận thức - Hành vi
Quan tâm đầu tiên của những người theo quan điểm hành vi là vai
trò của hành vi và kiến thức trong chức năng tổng thể của một cá
nhân. Chúng dựa trên vị trí của họ về học thuyết kiến thức, mà học
thuyết này nói rằng những thay đổi thường trực (hay khá thường
xuyên) trong hành vi xuất hiện là do những trải nghiệm. Những
người theo quan điểm hành vi rất nghiêm khắc như B. F. Skinner đã
khẳng định rằng hoạt động nhận thức (suy nghĩ) tương đối không
quan trọng khi nghiên cứu về hành vi. Trong những thập niên gần
đây, những nhà nghiên cứu như David Barlow không thừa nhận
quan điểm này, điều này dẫn đến việc một số nhà khoa học hành vi
đã dán mác "cuộc cách mạng nhận thức" - công nhận một cách
rộng rãi vai trị của q trình nhận thức gây ảnh hưởng đến hành vi
và cảm giác.
Trung tâm của học thuyết nhận thức là ý kiến cho rằng q trình tư
duy có ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống hàng ngày. Hay như nhà
triết học Hi Lạp cổ đại Epictetus đã nói "Con người khơng bị đảo lộn
bởi những sự việc, mà họ bị đảo lộn do cách nhìn nhận sự việc của
mình." Nói một cách đơn giản, nhận thức của một cá nhân về sự

kiện là rất quan trọng chứ nhất thiết không phải là bản thân sự kiện
đó.
Nhiều chuyên gia tin rằng quan điểm về kiến thức sẽ là khơng hồn
thiện nếu như khơng quan tâm đến vai trò của nhận thức.Điều này
làm tăng quan điểm nhận thức - hành vi, mà quan điểm này kết
hợp với cả học thuyết kiến thức lẫn học thuyết nhận thức. Một ví dụ
về mơ hình tồn diện của nhận thức - chủ nghĩa hành vi là ví dụ về
liệu pháp hành vi - cảm xúc - lý trí của Albert Ellis, một loại liệu


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

pháp dùng để xóa bỏ những niềm tin vơ lý. Ngồi ra, liệu pháp hành
vi - cảm xúc - lý trí cịn được áp dụng một cách thành công trong
việc chữa trị nhiều vấn đề bệnh lý lâm sàng bao gồm cả rối loạn
tình dục và lo lắng.
Quan điểm Tồn tại - Chủ nghĩa nhân văn
Quan điểm Tồn tại - Chủ nghĩa nhân văn nhấn mạnh tầm quan
trọng của trải nghiệm tức thì, sự tự chấp nhận và sự thể hiện đầy
đủ tiềm năng của mình. Nhận thức được cảm giác là một mặt quan
trọng của quan điểm này. Trên phương diện của tình dục, việc tập
trung quá nhiều vào quá khứ hay tương lai làm giảm những khối
lạc tình dục hiện tại là nguyên nhân thường xuyên gây ra các vấn
đề về tình dục. Ngược lại, tự chấp nhận và thoải mái với hoạt động
tình dục rất có tác dụng trong việc thúc đẩy sự hồn thành ước
nguyện của chính mình trong quan hệ yêu đương.
Quan điểm Hệ thống
Phần lớn con người tồn tại như những thành viên của một hay nhiều
nhóm hay hệ thống xã hội. Quan điểm hệ thống quan tâm đến
việc những hệ thống xã hội khác biệt tương tác và gây ảnh hưởng

đến các cá nhân, các cặp vợ chồng và các gia đình như thế nào. Hệ
thống xã hội phổ biến nhất là gia đình, trường học, cơng sở, cộng
đồng và tơn giáo.
Con người có thể nhận được những thông điệp mâu thuẫn hay
không lành mạnh về tình dục từ cha mẹ, nhà trường và/hay tơn
giáo của họ. Biết được hệ thống nào đưa ra những thơng điệp nào
vừa giúp có thêm kiến thức và vừa có ích đối với việc chống lại
những thơng điệp này. Hơn nữa, việc nhận biết và phân tích xem
những hệ thống xã hội cụ thể tương tác như thế nào là cơ sở để
hiểu về hành vi tình dục. Hãy xem một đứa trẻ hành động mang
tính nhục dục ở trường học. Cậu bé hành động như vậy có thể là để
phản ứng lại với những vấn đề mà nó gặp phải ở gia đình, chẳng
hạn như những rắc rối do khơng hịa hợp được với anh chị em ruột
hay cậu bé là nạn nhân của việc lạm dụng tình dục.
Quan điểm phát triển
Tình dục là một quá trình năng động, thậm chí nhiều kiểu mẫu tình
dục được hình thành từ thời thơ ấu. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết
đi, con người là những thực thể tình dục. Con người tiếp tục học,
thay đổi và phát triển. Quan điểm phát triển xử lý những vấn đề
liên quan đến những thay đổi khác nhau, bao gồm cả tình dục, mà
những thay đổi này xuất hiện trong suốt cuộc đời. Những chuyên
gia về phát triển đối đầu với những câu hỏi như: Liệu trẻ con có
hoạt động tình dục khơng? Tuổi dậy thì có ảnh hưởng như thế nào
đến quan điểm của một cá nhân về thế giới? Cái gì là nhu cầu tình
dục đáng chú ý ở người già?
Suy nghĩ Cá nhân
Hãy viết ra một số thông điệp liên quan đến tình dục mà bạn
nhận được từ thời thơ ấu và thời niên thiếu.Nếu có thì kiểu
mẫu nào là rõ ràng?



Thực tế hoạt động tình dục ở con người

CÁC QUAN ĐIỂM XÃ HỘI VỀ HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC Ở CON
NGƯỜI
Kiểu mẫu của một nhóm người cụ thể là gì? Đây chính là một trong
những khía cạnh mà quan điểm xã hội quan tâm. Quan điểm xã
hội quan tâm đến những ảnh hưởng và giá trị về văn hóa và xã hội.
Những chủ đề liên quan đến hoạt động tình dục ở con người nằm
trong phạm trù này bao gồm: nhận dạng và vai trị của giới, hoạt
động tình dục trong suốt đời sống con người, xu hướng tình dục,
bn bán tình dục, ngược đãi tình dục, pháp luật, đạo đức và tôn
giáo. Tất nhiên, yếu tố sinh học và tâm lý có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến những quan điểm này. Ít nhất, một giải thích hiện tại đang
dùng về xu hướng tình dục cũng thừa nhận sự có mặt của cả yếu tố
xã hội và sinh học đứng trước. Quan điểm xã hội bao gồm các quan
điểm về sự so sánh giữa các loài, sự so sánh giữa các nền văn hóa,
thống kê, lịch sử, luật pháp và đạo đức, và tơn giáo.
Quan điểm so sánh giữa các lồi
Quan điểm so sánh giữa các loài xem xét những tương đồng và
khác biệt giữa hành vi tình dục của con người và hành vi tình dục
của những lồi động vật khác. So sánh hành vi tình dục giữa các
lồi với nhau có thể mang đến sự hiểu biết có giá trị về bản chất
hoạt động tình dục ở con người. Ví dụ, ngoài con người ra hành vi
thủ dâm và đồng tính luyến ái cũng xuất hiện ở một số động vật có
vú khác nữa.
Quan điểm so sánh giữa các nền văn hóa
Nghiên cứu về hoạt động tình dục ở con người cũng cần phải đề cập
đến những vấn đề và sự khác biệt về văn hóa. Những nghiên cứu và
điều tra xã hội đã xác định rằng những giá trị, tập quán và niềm tin

về tình dục ở các nền văn hóa khác nhau là khác nhau. Điều được
chấp nhận ở nhóm này có thể khơng được chấp nhận ở nhóm khác.
Do đó cụm từ tính tương đối giữa các nền văn hóa được dùng để chỉ
tính chất tương đối của phong tục và các chuẩn mực hành vi. Cảnh
báo đối với sự khác biệt văn hóa làm tăng cơ hội để phủ nhận
những khn mẫu vai trị - tình dục, hay niềm tin trong một xã hội
về việc các thành viên của từng giới nên ăn mặc và hành động như
thế nào. Do đó quan điểm so sánh giữa các nền văn hóa quan
tâm đến sự khác biệt tồn tại trong những nền văn hóa khác nhau.
Suy nghĩ Cá nhân
Đâu là những ích lợi của cảnh báo đối với các vấn đề về văn
hóa khi nghiên cứu hoạt động tình dục ở con người? Hãy
phỏng vấn những người thuộc nền văn hóa khác với bạn để
xem xét thái độ của họ đối với hoạt động tình dục của con
người. Điều gì được xem là bình thường và bất thường ở
những nền văn hóa đó? Những người thuộc nền văn hóa đó
có tự do nói chuyện cởi mở về các vấn đề liên quan đến tình
dục khơng? Những người thuộc nền văn hóa đó có nhạy cảm
đối với những chuẩn mực của các nền văn hóa khác khơng?
Quan điểm Thống kê


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Quan điểm thống kê được xây dựng dựa trên tần suất xuất hiện
của thái độ hay thông lệ trong một xã hội. Cho dù ở bất kỳ nhóm
nào cũng có những thái cực được ghi nhận nhưng khuôn khổ thống
kê chỉ quan tâm đến những đặc điểm của số đông nhất các thành
viên, nói cách khác là "sự trung bình" đặc điểm của các thành viên.
Ví dụ, nghiên cứu chỉ ra rằng việc thủ dâm ở nam giới là rất phổ

biến, đặc biệt là ở các nam thanh niên.
Quan điểm Lịch sử
Quan điểm lịch sử quan tâm đến những vấn đề và chủ đề liên
quan đến tình dục trên góc độ những bối cảnh, tập quán, giá trị,
thái độ mang tính lịch sử. Sẽ dễ dàng hơn trong việc làm rõ những
vấn đề phức tạp liên quan đến hoạt động tình dục của con người khi
ta xem xét vai trò mà những vấn đề đó đã từng đóng trong lịch sử.
Lấy ví dụ, nhiều quan điểm xã hội ngày nay liên quan đến đồng tính
luyến ái phản ánh những chuẩn mực của người Do thái, có lẽ lần
đầu tiên được giải thích là vào khoảng năm 1400 trước công
nguyên.
Quan điểm Luật pháp và Đạo đức
Như tên của quan điểm đã ngụ ý, quan điểm luật pháp và đạo
đức quan tâm đến những ảnh hưởng của chuẩn mực về luật pháp
và đạo đức lên các cá nhân. Những thành viên của xã hội bầu ra
những nhà lãnh đạo, những người phê chuẩn luật pháp cho phép
hay ngăn cấm những loại hành vi cụ thể nào đó. Luật pháp cho
phép xã hội nói chung được quy định hành vi cư xử của các thành
viên trong xã hội đó.
Đạo đức là những nguyên tắc chỉ đạo tự điều chỉnh. Các cá nhân sử
dụng đạo đức để định hướng những quyết định trong cuộc sống
hàng ngày của họ. Họ cũng sử dụng đạo đức xác định những tổ
chức mang tính chun nghiệp của mình và xác định hành vi có thể
của các thành viên khác. Có rất nhiều tổ chức như thế chẳng hạn
như Hiệp hội Tâm lý học Mỹ, Hiệp hội những nhà Giáo dục, Tư vấn
và Trị liệu Tình dục Mỹ, những Hiệp hội này đã xây dựng các quy
tắc đạo đức nhằm hướng dẫn những người đang hành nghề để họ tự
điều chỉnh hành vi của mình với mục đích khơng gây hại đến người
khác bằng việc đảm bảo sử dụng những phương pháp và kỹ năng
một cách thích hợp.

Quan điểm Tơn giáo
Quan điểm tôn giáo quan tâm đến những ảnh hưởng của các học
thuyết, kinh thánh và sự duy linh lên các cá nhân và xã hội. Đối với
những người lớn lên trong môi trường tôn giáo, những lời dạy, bài
học và các giá trị được tơn giáo có tổ chức đưa ra có thể đóng một
vai trị lớn trong cuộc sống, nó có thể lành mạnh, có hại hoặc trung
tính. Khơng đâu có nhiều trường hợp như tình dục.
Một phạm trù nhỏ cụ thể của quan điểm tôn giáo là quan điểm siêu
nhiên, quan điểm này cho rằng những thế lực siêu nhiên (Ví dụ như
Chúa, các thiên thần, ác quỷ, và/hay linh hồn) có thể gây ảnh
hưởng đến suy nghĩ và hành vi của con người. Ngày nay, quan điểm


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

siêu nhiên vẫn cịn được nhiều nhóm ủng hộ, quan điểm siêu nhiên
là phương pháp nguyên thuỷ dùng để giải thích những bệnh tật của
con người, những quan điểm này thịnh hành nhất từ thời xa xưa cho
đến tận thế kỷ 18.
Quan điểm cá nhân
Trong chừng mực nào thì quan điểm tơn giáo đóng một vai
trị quan trọng trong cách nhìn cá nhân của bạn đối với hoạt
động tình dục ở con người?
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
1. Từ sexual (tình dục) ban đầu được dùng để chỉ giới tính của một
người, là nam hay nữ. 100 năm trước đây sexuality (tình dục), hay
sex (tình dục, giới) bắt đầu được dùng để chỉ các hoạt động liên
quan đến procreational (sự sinh sản), recreational (sự tiêu khiển),
và relational (quan hệ).
2. Sexology (Tình dục học) là một mơn khoa học địi hỏi coi con

người của mọi nền văn hóa như thực thể tình dục trong q trình,
nhận biết sự tác động qua lại của các khía cạnh sinh lý, tâm lý và xã
hội ảnh hưởng đến quá trình này.
3. Có nhiều lý do để nghiên cứu hoạt động tình dục ở con người.
Một số lý do phổ biến là để có thêm kiến thức, để có được sự sáng
suốt cá nhân, để trở nên thoải mái hơn đối với vấn đề tình dục, để
xây dựng sự tự chấp nhận về tình dục, để tối đa hóa sự trao đổi và
thân mật, để tối đa hóa khối lạc tình dục, để kiểm sốt được việc
sinh sản, để tránh những rối loạn tình dục, để tránh những bệnh lây
truyền qua đường tình dục, để mang đến những thay đổi xã hội tích
cực.
4. Đọc những cuốn sách viết về tình dục là một cách để giáo dục
tình dục, mục tiêu đầu tiên của nó là học cách đưa ra những quyết
định có lý và hiệu quả về những vấn đề liên quan đến tình dục.
5. Lĩnh vực liên quan đến hoạt động tình dục của con người thuộc
chỉnh thể luận và nó bao gồm rất nhiều quan điểm khác nhau. Sự
tương tác giữa các quan điểm sinh học, tâm lý học và xã hội hình
thành nên bản chất quan điểm tâm sinh lý xã hội về hoạt động tình
dục ở con người.
6. Những quan điểm sinh học gồm có quan điểm hóa sinh và quan
điểm tâm thần học, nó quan tâm đến ảnh hưởng của các quá trình
sinh học và tự nhiên lên hoạt động tình dục.
7. Những quan điểm tâm lý gồm tâm lý động học, nhận thức-hành
vi, tồn tại-chủ nghĩa nhân văn, các hệ thống, và quan điểm phát
triển quan tâm đến những vai trò mà các suy nghĩ, thái độ, tình
cảm, hành vi đóng vai trị trong hoạt động tình dục.
8. Những quan điểm xã hội bao gồm các quan điểm về sự so sánh
giữa các loài, sự so sánh giữa các nền văn hóa, thống kê, lịch sử,
luật pháp và đạo đức, và tôn giáo quan tâm đến ảnh hưởng của
những sức mạnh văn hóa và xã hội lên hoạt động tình dục.



Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Nghiên Cứu Về Tình Dục Là Gì?
Người dịch: Nguyễn Hồng Trang
Nghiên cứu về tình dục là một phương thức khoa học thu thập
thơng tin về những khía cạnh khác nhau của tình dục nhằm mục
đích thu được những hiểu biết có thể ứng dụng được cho các cá
nhân và xã hội. Những phương pháp sớm nhất nghiên cứu về tình
dục là xem xét những trường hợp lịch sử của các bệnh nhân và
phỏng vấn rất nhiều người. Những phương pháp gần đây là quan
sát những phản ứng tình dục của các tình nguyện viên ở trong
phịng thí nghiệm và tiến hành các thử nghiệm. Tình dục học đã có
nhiều tiến bộ trong những thập niên gần đây vì các nhà nghiên cứu
về tình dục
đã sử dụng những phương pháp tinh tế và vì mọi người đã trở nên
cởi mở hơn đối với quan điểm thuộc hình thức này của nghiên cứu.
Suy nghĩ Cá nhân
Tại sao bạn nghĩ rằng nghiên cứu tình dục là một lĩnh vực
được quan tâm ít nhất cho đến tận thế kỷ 20?
TÌNH DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
Định nghĩa về tình dục học được trình bày ở Chương 1 đã sử dụng
cụm từ một môn khoa học. Khoa học là gì? Và nghiên cứu tình dục
như một mơn khoa học là thế nào?
Một số người không nghĩ rằng các môn khoa học "xã hội" chẳng hạn
như xã hội học và tâm lý học là những môn khoa học "thực sự"
giống như vật lý hay hoá học. Trong khi có những khác biệt cố hữu
giữa các khoa học "mềm" và "cứng", thì những nguyên tắc cơ bản
chung của khoa học vẫn được áp dụng. Từ khoa học bắt nguồn từ

tiếng La Tinh scire, nó có nghĩa là "hiểu biết." Qua nhiều thế kỷ,
khoa học gần như bao gồm tất cả các lĩnh vực. Chỉ trong vòng
khoảng vài trăm năm trước, từ này đã bắt đầu được dùng để chỉ
những giá trị và phương pháp nghiên cứu cụ thể nào đó. Ngày
nay, một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể được gọi là một môn khoa học
nếu như các nhà nghiên cứu nó sử dụng phương pháp khoa học một hướng tiếp cận có hệ thống để nghiên cứu những câu hỏi và
các vấn đề bằng việc quan sát một cách khách quan và chính xác,
tiến hành thực nghiệm trực tiếp, thu thập và phân tích thơng tin, và
tái tạo những q trình này. Nói cách khác, các nhà khoa học nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc thu thập thông tin một cách cẩn
thận, không thiên vị khi đánh giá các số liệu, quan sát các hiện
tượng, tiến hành thử
nghiệm, ghi chép các bước và kết quả một cách chính xác. Các nhà
khoa học cũng quan tâm đến việc những phát hiện của họ được các
nhà khoa học khác công nhận.


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Nghiên cứu tình dục có phải là một khoa học? Đúng như vậy. Theo
như định nghĩa thì tình dục học là một mơn khoa học nghiên cứu về
tình dục. Nhưng tại sao tình dục học là khoa học? Bởi vì những
người nghiên cứu về tình dục (có nghĩa là những nhà nghiên cứu về
tình dục chuyên nghiệp, những nhà giáo dục, những nhà trị liệu)
dựa vào các phương pháp khoa học để nghiên cứu. Giống như các
nhà khoa học khác, những nhà nghiên cứu về tình dục nhấn mạnh
vào việc thu thập và phân tích số liệu một cách chính xác, khơng
thiên vị, quan sát một cách có hệ thống, tiến
hành thực nghiệm, và hoài nghi về những phát hiện của họ. Nói tóm
lại, một mơn cụ thể nào đó có phải là khoa học hay không phụ

thuộc nhiều vào phương pháp nghiên cứu được sử dụng chứ không
phải là lĩnh vực nghiên cứu cụ thể nào đó.
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC
Trước khi thảo luận về những phương pháp nghiên cứu tình dục,
chúng ta nên xem xét một số khái niệm nghiên cứu cơ bản. Những
điều tra viên thường bắt đầu nghiên cứu sau khi tìm được những ý
tưởng cho việc nghiên cứu của họ từ một học thuyết cụ thể nào đó,
hay từ những phát biểu kết hợp nhằm giải thích những hiện tượng
khác nhau. Bởi vì một học thuyết là quá chung chung hay mơ hồ để
có thể kiểm tra một nghiên cứu nên các nhà nghiên cứu tạo ra một
giả thuyết, hay một suy luận có thể kiểm chứng cụ thể từ học
thuyết, và kiểm tra nó thay vì kiểm tra học thuyết. Kết
quả của việc nghiên cứu hoặc chứng minh giả thuyết đưa ra là sai
hay là đúng. Nếu kết quả bị chứng minh là sai, những nhà nghiên
cứu không thể đưa ra những dự báo và phải đặt câu hỏi về tính
chính xác của học thuyết. Còn nếu kết quả được chứng minh là
đúng, những nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự đốn căn cứ trên giả
thuyết.
Mục đích trước tiên của việc nghiên cứu về tình dục là phát hiện ra
những khác biệt, xu hướng và kiểu mẫu liên quan đến tình dục của
những thành viên trong một cộng đồng dân cư, hay một nhóm là
đối tượng của nghiên cứu. Đối tượng là các thành viên của một cộng
đồng dân cư, những người tham gia vào trong nghiên cứu. Những
nhà nghiên cứu hi vọng rằng các đặc điểm của những ví dụ tiêu biểu
của họ lấy trong cộng đồng dân cư là đại diện cho những đặc tính
của tồn bộ tất cả các cộng đồng. Nếu như vậy, họ có thể khái quát
hóa, hay áp dụng kết
quả của họ vào cộng đồng. Ví dụ đại diện tiêu biểu nhất nhìn chung
là ví dụ ngẫu nhiên, ở đó mỗi thành viên của một cộng đồng dân cư
có cơ hội như nhau trong việc được lựa chọn là đối tượng của nghiên

cứu.


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Những nhà nghiên cứu sử dụng một bài kiểm tra hay một bảng câu
hỏi thăm dò trong nghiên cứu, họ quan tâm đến độ tin cậy của bài
kiểm tra, hay khả năng cung cấp những kết quả nhất quán khi áp
dụng vào những trường hợp khác nhau của bài kiểm tra đó. Họ cũng
quan tâm đến căn cứ vững chắc của bài kiểm tra, hay khả năng đo
lường những cái mà họ muốn đo lường của bài kiểm tra đó. Trong
nghiên cứu định tính, thơng tin được thu thập từ các đối tượng, có
thể được lấy từ việc miêu tả bằng lời về các sự kiện cụ thể nào đó,
chẳng hạn như cảm thấy thế nào khi quan hệ
tình dục, hay từ việc quan sát trực tiếp các sự kiện, chẳng hạn như
quan sát hành vi tình dục của các động vật thuộc lồi linh trưởng.
Trong nghiên cứu định lượng, thơng tin được thu thập từ các đối
tượng (ví dụ: tình trạng hơn nhân của đối tượng) có thể được lấy từ
dạng hay được chuyển sang các con số (độc thân = 1; đã có gia
đình = 2). Mặc dù những miêu tả bằng lời và những quan sát có thể
hữu ích trong và đối với bản thân, nhưng nhiều nhà khoa học vẫn
thích những thơng tin được thu thập dưới dạng số hơn vì chúng tạo
điều kiện dễ dàng cho việc phân tích
số liệu.
Những nhà nghiên cứu sử dụng số liệu thống kê, hay các bước toán
học để miêu tả và rút ra kết luận từ các số liệu. Có hai loại số liệu
thống kê: mang tính miêu tả, sử dụng để miêu tả số liệu (ví dụ:
"72% phụ nữ trong nghiên cứu này có những ý nghĩa kỳ quặc về
tình dục khi quan hệ"), và mang tính suy luận, sử dụng để đưa ra
dự báo về một số lượng lớn hơn dân số dựa trên những khác biệt

đáng kể được thấy giữa các cá nhân hay các nhóm ("Đàn ơng thể
hiện hành động khiêu dâm một cách bạo lực có xu hướng coi việc sử
dụng bạo lực với phụ nữ là chấp nhận được
nhiều hơn so với những người đàn ông không thể hiện hành động
khiêu dâm một cách bạo lực"). Những nhà nghiên cứu sử dụng cả
hai loại thống kê để rút ra những kết luận chung về những ví dụ và
dân số của họ.
ĐÁNH GIÁ NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC
Các nguồn tài liệu nghiên cứu tình dục - những tạp chí và sách học
thuật, những khảo sát mang tính quốc gia của các tạp chí, và
"những tin vắn trên truyền hình" - rất đa dạng về chất lượng thơng
tin được xuất bản. Bởi thế sẽ là khôn ngoan nếu ta khơng chấp
nhận giá trị bề ngồi của tất cả các nghiên cứu về tình dục. Khả
năng đánh giá nghiên cứu và những khám phá của nó là rất quan
trọng khi nghiên cứu hoạt động tình dục ở con người (hay bất kỳ
chủ đề nào khác liên quan đến vấn đề này). Mặc dù có khá nhiều
thơng tin chính xác, nhưng cũng có khơng ít những thơng tin khơng
chính xác.


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Thật khơng may khi những nghiên cứu có ý đồ tồi hay được thực
hiện một cách kém cỏi có xu hướng mang lại những quan niệm sai
lầm về tình dục cho xã hội.
Những tạp chí chuyên ngành và tạp chí xuất bản định kỳ có thể là
những nguồn thơng tin quan trọng cung cấp những thơng tin khoa
học về tình dục vì những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và những
bác sĩ lâm sàng là những người đóng góp số lượng lớn tài liệu cho
các tạp chí này, và cũng vì ban biên tập xem xét lại những tài liệu

mà họ gửi, do đó những nghiên cứu được xuất bản có chất lượng
cao hơn. Một số tạp chí đứng đầu về tình dục là Tạp Chí Thường
Niên Về Nghiên Cứu Tình Dục, Những Tài Liệu Lưu Trữ Về Hành Vi
Tình Dục, Nhà Giáo Dục Cuộc Sống Gia Đình, Những Quan Điểm
Quy Hoạch
Gia Đình, Tạp Chí Về Đồng Tính Luyến Ái, Tạp Chí Về Hơn Nhân Và
Gia Đình, Tạp Chí Về Tâm Lý Học Và Hoạt Động Tình Dục ở Con
Người, Tạp Chí Về Tình Dục Và Liệu Pháp Hơn Nhân, Tạp Chí Về
Giáo Dục Giới Tính Và Liệu Pháp, Tạp Chí Về Nghiên Cứu Tình Dục,
Những Khía Cạnh Y Học Về Tình Dục ở Con Người, Và Tạp Chí Về Kế
Hoạch Hóa Gia Đình. Những tạp chí thơng thường và truyền hình
nhìn chung khơng cung cấp những nguồn thơng tin khoa học chính
xác về tình dục, bởi vì những nghiên cứu được thơng báo trên các
phương tiện truyền thơng này có xu hướng thuộc phong cách gây
xúc động
mạnh và được xây dựng một cách kém cỏi.
Các độc giả nên suy nghĩ về một số các vấn đề chung khi quyết
định xem một nghiên cứu có giá trị hay khơng. Hỏi những câu hỏi
dưới đây có thể có tác dụng:
• Liệu những nhà nghiên cứu đó có trình độ để thực hiện những
nghiên cứu liên quan đến tình dục? Những giấy tờ, bằng cấp chứng
minh trình độ của họ? Họ có liên hệ gì với bệnh viện, viện nghiên
cứu hàn lâm hay phịng thí nghiệm khơng?
• Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là gì? Lợi thế và bất lợi của
phương pháp nghiên cứu đó là gì? Liệu những nhà nghiên cứu đó có
thừa nhận những hạn chế đi kèm với các phương pháp cụ thể của
họ khơng?
• Liệu những bảng câu hỏi hay bài kiểm tra được sử dụng có đáng
tin cậy hay có căn cứ vững chắc khơng?
• Liệu các nhà nghiên cứu có đưa ra sự khái quát hóa dựa trên số

đơng khơng? Nếu có thì đại diện nào của số đơng được dùng làm ví
dụ tiêu biểu của họ?


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

• Liệu ví dụ tiêu biểu của họ có sự thiên vị về giới, có nhiều nam
giới hơn phụ nữ hay ngược lại nhiều phụ nữ hơn nam giới khơng?
Liệu ví dụ tiêu biểu đó có mang tính thiên vị ở bất kỳ cách nào khác
khơng? Nó có tính đến nhóm thiểu số khơng? Ví dụ tiêu biểu đó chỉ
được dành riêng cho đơ thị hay nơng thơn khơng?
• Nếu nghiên cứu là một thử nghiệm thì liệu có một nhóm chỉ đạo
không cho phép tiết lộ những điều kiện thực nghiệm so sánh với
nhóm thử nghiệm khơng?
• Liệu những nhà nghiên cứu có sử những các bài kiểm tra thống kê
phù hợp nhất để phân tích số liệu khơng? hay họ chỉ đơn giản đưa
ra nhận xét về cái có vẻ như là kiểu mẫu thơi.
• Liệu những kết luận được rút ra từ các số liệu có biểu thị theo
cách thừa nhận những khả năng khác khơng?
• Có những nghiên cứu được xuất bản ủng hộ hay phản đối phương
pháp nghiên cứu hay những khám phá của các nhà nghiên cứu này
không?
Bất kỳ nhà nghiên cứu dày dạn kinh nghiệm nào cũng sẽ chứng
thực rằng danh sách những câu hỏi này đã bao quát hết các mặt.
Các trường cao đẳng và đại học có đưa ra tồn bộ chương trình về
nghiên cứu thống kê và các phương pháp nghiên cứu, nội dung của
các chương trình đó khơng nằm trong phạm vi của cuốn sách này.
Tuy nhiên, đọc và suy nghĩ về những chương đó sẽ cung cấp cho
bạn ý niệm chung về các loại vấn đề giúp bạn đánh giá các bài
nghiên cứu khác nhau.

Suy nghĩ Cá nhân
Đâu là những lý lẽ tán thành và phản đối việc chọn trở thành
một nhà nghiên cứu tình dục? Bạn dã bao giờ từng suy nghĩ
đến việc chọn nghiên cứu tình dục là nghề nghiệp của mình?
Tại sao có hay tại sao khơng?
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC
Các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để
nghiên cứu về tình dục. Dưới đây là 6 phương pháp nghiên cứu phổ
biến nhất: Nghiên cứu trường hợp, khảo sát, quan sát, so sánh giữa
các nền văn hóa, tương quan, và thực nghiệm.
Nghiên cứu Trường hợp


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

Trong nghiên cứu trường hợp, các nhà nghiên cứu thực hiện
nghiên cứu tập trung vào một cá nhân, hay trong một số trường
hợp là một nhóm nhỏ các cá nhân. Cá nhân tiêu biểu có điều kiện
hiếm hay có phản ứng thuận lợi với phương pháp điều trị mới. Do
đó, nghiên cứu trường hợp thường mang tính đơn giản về bản chất.
Người nghiên cứu (thường là bác sĩ, nhà tâm lý học, nhân viên xã
hội, nhà tư vấn, hay nhà giáo dục) có thể sử dụng hoặc khơng sử
dụng bản tự báo cáo và bảng câu hỏi để có được những số liệu có
thể xác định số lượng về người bệnh. Giống như nghiên cứu thực
nghiệm, nghiên cứu trường hợp có thể được tiến hành trong hàng
tuần, hàng tháng hay thậm chí hàng năm giữa nhà nghiên cứu và
đối tượng.
Một báo cáo trường hợp điển hình tn theo 4 phần sau:
• Trình bày vấn đề: Điều kiện hay vấn đề khiến người bệnh đi chữa
trị, bao gồm cả những đánh giá về vấn đề.

• Hồn cản lịch sử: Tóm tắt lịch sử xã hội liên quan điều kiện của
người bệnh.
• Điều trị:Miêu tả quá trình chữa trị, bao gồm các bước và chi tiết
mỗi buổi chữa.
• Các kết quả điều trị: Miêu tả hiệu quả của việc điều trị, nếu có.
Những nghiên cứu trường hợp rất có giá trị vì chúng cung cấp thơng
tin hữu ích về các cá nhân, những điều kiện hiếm, và các liệu pháp
chữa trị mới. Nhiều thông tin về lạm dụng tình dục, sự cưỡng hiếp,
và các rối loạn tình dục đã được phát hiện theo cách này. Mặt tiêu
cực của phương pháp nghiên cứu này là, các nghiên cứu trường hợp
có xu hướng tập trung vào bệnh lý học, và kết quả của nó chỉ được
áp dụng cho những cá nhân có các điều kiện tương tự thay vì được
áp dụng đại chúng. Sác xuất thiên kiến cao của người phỏng vấn
ảnh hưởng đến các phản ứng của người bệnh đối với việc chữa
trị cũng hạn chế sự tổng quát của phương thức nghiên cứu này.
Hai trong số những nhà nghiên cứu tiên phong nổi tiếng nhất sử
dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp để nghiên cứu về tình
dục là Kraft-Ebing và Freud.
Kraft-Ebing. Richard von Kraft-Ebing (1840-1902) là bác sĩ sống
dưới triều đại của nữ hoàng Victoria, ông chủ yếu làm việc với
những bệnh nhân mắc các chứng bệnh liên quan đến rối loạn tình
dục. Những bài viết của ơng về tình dục dựa trên 200 nghiên cứu
trường hợp. Kraft-Ebing ủng hộ quan điểm phổ biến của triều đại nữ
hồng Victoriavề tình dục. Trong tác phẩm nổi tiếng của ơng có tựa


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

đề Psychopathia Sexualis (Tình dục Tâm thần) (1886/1978)2, KraftEbing đã tranh luận rằng hoạt động tình dục vì bất kỳ mục đích gì
ngồi mục đích sinh sản đều là

lầm đường lạc lối. Tập trung vào những hành vi tình dục kỳ dị đơi
khi xảy ra của bệnh nhân của mình, Kraft-Ebing đã giúp việc duy trì
chuyện hoang đường ở thời đại Victoria về tình dục, coi nó như "căn
bệnh" và do đó có gì đấy thật đáng sợ.
Freud. Giống với người người đồng nghiệp Kraft-Ebing của mình,
những bài viết của Sigmund Freud (1856-1939) về tình dục dựa
trên cơng việc khám và điều trị những bệnh nhân mắc các bệnh liên
quan đến rối loạn tình dục, mặc dù hầu hết các bệnh nhân ban đầu
đến với Freud đều phàn nàn về những vấn đề đủ loại, khơng liên
quan đến tình dục. Freud được đào tạo thành bác sĩ ở Đại học
Vienna, nhưng sau đó ơng quyết định cống hiến sức lực của mình
cho việc nghiên cứu các q trình tinh thần vơ thức và có ý thức.
Kết quả là Freud đã xây dựng một học thuyết toàn diện về hành
vi của con người được biết đến dưới tên học thuyết phân tâm học.
Freud tin rằng con người là những thực thể tình dục từ lúc sinh ra
cho đến khi chết đi, và hầu hết những rối loạn tâm thần là do những
mâu thuẫn tình dục vơ thức nảy sinh trong các giai đoạn phát triển
nhạy cảm. Ví dụ học thuyết của Frued cho rằng một cậu bé 6 tuổi bị
phạt vì đã sờ mó vào vùng sinh dục có thể xây dựng những mâu
thuẫn về việc nghịch ngợm với vùng sinh dục và sau này trở nên bất
lực. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Freud viết về tình dục là Ba bài
Tiểu luận về Học thuyết Tình dục (1905)3.
Những nghiên cứu trường hợp gần đây hơn. Kraft-Ebing và
Freud không phải là hai nhà khoa học duy nhất sử dụng phương
pháp nghiên cứu trường hợp. Các nhà nghiên cứu ngày nay thường
công bố những báo cáo về phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân
với các điều kiện bất thường. Hầu hết các tạp chí hàng đầu về tình
dục học đều xuất bản những nghiên cứu trường hợp. Nhiều sách về
tình dục cũng có một hay nhiều báo cáo trường hợp dùng để minh
họa các hướng tiếp cận mang tính đổi mới đối với phương pháp điều

trị. Ví dụ cuốn Các Nguyên tắc và Thực hành Trị liệu Tình dục
4
do Sandra Leiblum và Raymond chủ biên là một tập hợp các
chương và các báo cáo trường hợp về những rối loạn tình dục khác
nhau và cách điều trị được các chuyên gia về tình dục viết.
Nghiên cứu Khảo sát
Một phương pháp thu thập thông tin về chủ đề quan tâm là hỏi mọi
người về các trải nghiệm tình dục của họ. Nghiên cứu khảo sát là
phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu tình
dục, liên quan đến việc phỏng vấn hay thực hiện những khảo sát
bằng văn bản đối với rất nhiều người. Những nhà nghiên cứu phân


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

tích số liệu thu thập được từ các khảo sát và quyết định các xu
hướng, sự tương đồng và khác biệt. Sau đó họ rút ra kết luận về các
kiểu mẫu dân số điều tra.
Thực hiện nghiên cứu khảo sát vừa có ưu điểm vừa có nhược điểm.
Ưu điểm nằm ở chỗ thông tin thu thập từ nhiều đối tượng, linh hoạt
trong thời gian phỏng vấn (ví dụ, thực hiện phỏng vấn cá nhân khi
nào đối tượng thấy thuận tiện) và phương tiện sử dụng để phỏng
vấn (qua điện thoại), và khá tiết kiệm chi phí. Khảo sát "bằng thư"
có lợi thế đặc biệt vì nó đảm bảo tính bí mật, khơng có tên và do đó
khiến cho các đối tượng trả lời một cách trung thực.
Những nhược điểm của phương pháp này là sự bóp méo, thiên kiến
của người phỏng vấn, và thiên kiến của người tình nguyện. Sự bóp
méo xuất hiện khi một đối tượng, vì bất kỳ lý do gì, khơng trả lời
các câu hỏi một cách trung thực. Thiên kiến của người phỏng vấn
liên quan đến những kỳ vọng của người phỏng vấn hay những điệu

bộ cử chỉ khơng có nghĩa, chẳng hạn như cười hay nhăn mặt, gây
ảnh hưởng một cách không cố ý đến các phản ứng của đối tượng
theo cách này hay cách khác. Thiên kiến của người tình nguyện
xuất hiện khi người tình nguyện được chọn khơng phải là đại diện
cho dân số nói chung. Những người tình nguyện nói về các vấn đề
tình dục có thể phản ứng một cách khác đối với khảo sát so với
những người khơng tình nguyện.
Có một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả của bất kỳ nghiên
cứu, khảo sát. Yếu tố đầu tiên là người được chọn làm ví dụ, đó là
đại diện cho dân số được nghiên cứu. Một yếu tố khác là khống chế
những biến số bên ngoài, chẳng hạn như nhiệt độ trong phòng hay
mức độ tiếng ồn, những điều này có thể làm thay đổi kết quả
nghiên cứu. Vẫn cịn một thiên kiến nữa đó là thiên kiến của người
nghiên cứu, đó là những kỳ vọng của người nghiên cứu về cái gì nên
hay khơng nên diễn ra trong nghiên cứu, điều này gây ảnh hưởng
đến kết quả.
Ellis. Một nhân vật quan trọng trong thời kỳ đầu nghiên cứu về tình
dục là Henry Havelock Ellis (1859-1939), ơng là một trong những
người nghiên cứu đầu tiên sử dụng phương pháp khảo sát tình dục.
Là một nhà tâm lý học người Anh, Ellis đã làm việc để nâng cao hiểu
biết và sự chấp nhận của xã hội về tình dục bằng việc thu thập
thông tin từ những cá nhân đúng mực chứ không phải từ những cá
nhân lúng túng. Nhiều đức tin của ơng về tình dục - chẳng hạn như
việc thủ dâm không gây ra bệnh điên, rằng trẻ em cần được học về
tình dục từ khi cịn nhỏ, rằng hành vi tình dục của các nền văn hóa
khác nhau là khác nhau - là "đi trước thời đại lúc đó" và đi ngược lại
với những niềm tin chung được chấp nhận thời bấy giờ. Tác phẩm
nổi tiếng nhất của Ellis về tình dục là một loạt các tập sách có tiêu
đề Các nghiên cứu về Tâm lý học Tình dục (1896-1928/1936)5 và
Tâm lý học Tình dục: Sách giáo khoa dành cho Sinh viên (1933)6.

Kinsey. Phải nói chắc chắn rằng những khảo sát về tình dục trên
diện rộng nổi tiếng nhất là những khảo sát của Alfred Kinsey (1894-


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

1956), một nhà sinh vật học có kiến thức về các quá trình tiến hóa.
Năm 1937, khi được u cầu dạy một khóa học về hoạt động tình
dục ở con người tại Đại học Indiana, Kinsey đã không thể kiếm đủ
số lượng những thông tin đáng tin cậy về chủ đề này. Trong suốt 16
năm tiếp theo Kinsey và những cộng sự của ông đã thu thập số liệu
bằng cách phỏng vấn và lấy tư liệu lịch sử tình dục của 5.300 nam
giới và 5.940 phụ nữ Mỹ ở các lứa tuổi và trình độ học vấn khác
nhau. Nghiên cứu của ơng phát triển đến cực điểm khi các tác phẩm
Hành vi Tình dục ở Namgiới (1948)7 và Hành vi Tình dục ở Nữ giới
(1953)8 được xuất bản, hai cuốn sách này được phổ biến rộng rãi ở
trên cả các tạp chí khoa học lẫn các phương tiện thông tin. Đến giữa
thập kỷ 60, nghiên cứu của Kinsey là thông tin về tình dục duy nhất
thuộc loại này có giá trị đối với các nhà khoa học xã hội.
Kinsey bắt đầu xua tan đi những chuyện hoang đường về tình dục.
Với hứng thú đặc biệt về thị trường tình dục của người Mỹ, Kinsey
đã tích lũy những số liệu về các chủ đề như thủ dâm, những quan
hệ ngồi hơn nhân, và đồng tính luyến ái. Cố nhiên, một số phát
hiện của ông đã (và vẫn) gây tranh cãi. Ví dụ, những bị đơn trong
các vụ kiện ly hôn theo báo cáo có quan hệ tình dục ngồi hơn nhân
nhiều hơn so với những gì mà các nhà nghiên cứu nghi ngờ. Điều
tương tự cũng đúng đối với những bị đơn có quan hệ đồng tính
luyến ái.
Mặc dù, khảo sát của Kinsey được cho là khảo sát lớn và toàn diện
nhất về tình dục cho đến ngày nay, nhưng nghiên cứu của ông đã bị

lấy làm ví dụ cho một số vấn đề cố hữu thường gặp trong các
nghiên cứu khảo sát. Những báo cáo của ông được lập dựa trên
những thông tin từ các tình nguyện viên, những người có thể có
hoặc có thể khơng nói ra động cơ tham dự vào nghiên cứu của họ
(nghĩa là thiên kiến của tình nguyện viên). Báo cáo ghi lại những
điều mà các đối tượng nói là họ đã làm, chứ khơng nhất thiết là điều
mà họ thực sự đã làm (sự bóp méo). Và những đối tượng của
Kinsey hầu hết là những người có học vấn, cư dân thành thị, là
người da trắng (không phải là đại diện tiêu biểu). Trong khi hầu hết
các nhà tình dục học đều tơn trọng các tác phẩm của Kinsey, coi các
tác phẩm của ông là khảo sát có quy mơ lớn đầu tiên về thái độ và
hành vi tình dục của người Mỹ, ghi nhận sự xuất sắc về khả năng
thực hiện nghiên cứu tình dục của ơng, thì một số người khác lại
khẳng định rằng, nhiều trong số các phương pháp của ông là không
khoa học - và nó trở thành nguồn gốc của một số thơng tin sai lầm
về tình dục ngày nay.
Hunt. Đầu những năm 1970, Tổ chức Playboy (Những kẻ ăn chơi)
uỷ nhiệm cho Research Guild, một tổ chức nghiên cứu độc lập, tiến
hành một khảo sát trên quy mô lớn về thói quen tình dục của người
Mỹ. Nhà báo Morton Hunt đã viết ra những phát hiện của mình
trong một loạt bài báo trên tạp chí Playboy. Tổ chức Playboy rất
quan tâm đến những phát hiện mới của Kinsey, trong đó bao gồm
cả nghiên cứu về những nhóm người mà Kinsey không tiến hành


Thực tế hoạt động tình dục ở con người

khảo sát, cũng như so sánh kết quả của Kinsey và Hunt để thấy
xem có gì thay đổi trong kiểu mẫu tình dục từ những năm 40 đến
những năm 50. Trên thực tế Hunt đã phát hiện ra những thói quen

tình dục nhất định như quan hệ tình dục trước hơn nhân, điều này
xảy ra phổ biến hơn so với thời kỳ của Kinsey. Ơng cũng thấy một
số ít khác biệt trong vai trò về giới. Những phát hiện của Hunt sau
này xuất hiện trong cuốn Hành vi Tình dục ở thập niên 1970
(1974)9.
Ví dụ của Hunt được thu thập bởi sự chọn lựa ngẫu nhiên từ danh
bạ điện thoại trên khắp nước Mỹ, bao gồm 982 nam giới và 1.044
phụ nữ. Chỉ có 20% trong số những người được liên lạc lúc đầu
đồng ý tham gia vào nghiên cứu, nghiên cứu này bao gồm những
cuộc thảo luận nhóm nhỏ được tiến hành nhờ các bảng câu hỏi tự
thực hiện. Hunt sau đó cũng thực hiện một số cuộc phỏng vấn. Ví
dụ của Hunt được cho là đã đại diện cho dân số của tồn nước Mỹ
trên phương diện giới tính, tuổi tác, chủng tộc, trình độ học vấn,
nghề nhiệp, cư dân thành thị, nông thôn. Bảng câu hỏi tự thực hiện
bao gồm 1.000 đến 1.200 hạng mục bao quát các chủ đề như thói
quen, trải nghiệm và thái độ đối với tình dục.
Những nhà phê bình nghi ngờ báo cáo của Hunt bởi một số lý do. Vì
chỉ có 20% trong số các đối tượng tiềm năng đồng ý tham gia vào
nghiên cứu, và tỷ lệ từ chối là 80% nên con số này làm tăng khả
năng thiên kiến của người tình nguyện, gây ảnh hưởng đến kết quả.
Hơn nữa, đối tượng của Hunt được lấy từ danh bạ điện thoại, vậy
cịn những người mà số điện thoại khơng được liệt kê hay khơng có
điện thoại thì sao, họ đã bị loại ra khỏi nghiên cứu.
Hite. Shere Hite công bố kết quả khảo sát của bà về tình dục của
phụ nữ trên cuốn Báo cáo của Hite (1976)10. Bà đã gửi qua đường
bưu điện bảng câu hỏi mang phong cách bài luận đến 100.000 cá
nhân và các tổ chức của phụ nữ từ năm 1972 đến năm 1976, nhiều
người trong số những người đó đã trả lời các quảng cáo của Hite
trên những tạp chí như Phụ nữ, Tiếng nói Làng quê, và Tiểu thư.
Hite đã nhận được 3.019 bài trả lời hồn thiện cho bảng câu hỏi của

mình từ những người phụ nữ, những người này đã bày tỏ quan điểm
và cảm xúc của mình về các chủ đề tình dục khác nhau, từ sự cực
khối, thủ dâm đến tình dục đồng giới. Hite cũng đã tiến hành khảo
sát 7.000 nam giới để lấy thông tin cho cuốn Báo cáo của Hite về
Tình dục Nam giới (1981)11.
Liệu các báo cáo của Hite có đại diện cho quan điểm tình dục của
đàn ơng và phụ nữ Mỹ nói chung khơng? Rõ ràng là khơng. Trên
thực tế, những nhà phê bình vẫn nhắc lại các nghi vấn của mình đối
với phương pháp nghiên cứu và kết luận đưa ra của bà, vì tính thiên
kiến của đối tượng được chọn, tỷ lệ hồi âm đối với bảng câu hỏi
được gửi đi thấp, và dấu hiệu mang tính vặt vãnh của dạng thức bài
luận chứ khơng phải phân tích thống kê số liệu.
Các khảo sát của Tạp chí. Khoảng 30 năm trước, có một số tạp
chí đã tiến hành các khảo sát trên quy mô lớn về thái độ và hành vi


×