Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TẾ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ Ở CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH I NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.05 KB, 29 trang )

Thực tế hoạt động cho thuê ở công ty cho thuê tài
chính I Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam.
2.1.Thực trạng môi trờng kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính
thành viên của các Ngân hàng thơng mại Việt Nam.
2.1.1. Nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị.
Kể từ sau đại hội VI, nớc ta chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà nớc, thực hiện nền kinh tế mở. Lúc này các doanh
nghiệp Việt Nam buộc phải cạnh tranh để tồn tại. Giải pháp để cạnh tranh thắng
lợi đã quá rõ ràng: Các doanh nghiệp cần đổi mới máy móc thiết bị, tăng năng
suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, liên tục cải tiến và nâng cao chất lợng sản
phẩm. Tuy nhiên, việc thực hiện những giải pháp trên khó hơn việc chỉ ra nó rất
nhiều. Nguyên nhân có rất nhiều, từ khách quan đến chủ quan, nhng kết quả là
sau nhiều năm chuyển đổi, trình độ công nghệ Việt Nam vẫn thuộc dạng lạc hậu
nhất thế giới.
2.1.2. Vấn đề lãi suất.
Có thể nói, lãi suất cho vay của ngân hàng ảnh hởng đến cả việc huy động
và sử dụng vốn của các công ty cho thuê. Đơn giản bởi hai lý do:
Thứ nhất, nguồn vốn vay Ngân hàng đặc biệt từ các Ngân hàng mẹ luôn là
một nguồn quan trọng, nhất là trong thực tế hiện nay thị trờng vốn của Việt Nam
cha phát triển.
Thứ hai, nghiệp vụ cho thuê còn khá mới mẻ với khách hàng nếu so với
nguồn tài trợ bằng tiền vay từ ngân hàng. Các khách hàng luôn đặt cho thuê trong
mối quan hệ với vay tiền từ Ngân hàng, cụ thể qua việc so sánh phí thuê phải trả
và lãi suất cho vay của Ngân hàng. Xét về mặt lý thuyết, rõ ràng phí cho thuê phải
cao hơn lãi suất cho vay cùng kỳ hạn vì hoạt động cho thuê phát sinh nhiều chi
phí hơn. Tuy nhiên khi lãi suất cho vay trung dài hạn của Ngân hàng giảm xuống
thì không thể không giảm phí thuê. Nếu công ty giữ nguyên phí thuê thì khách
hàng sẽ tính toán để chuyển sang vay trung dài hạn từ các Ngân hàng. Tình hình
này có thể nhận thấy khá rõ trong thực tế hoạt động của các công ty cho thuê tài
chính trong những năm 1998 - 1999.


Nh đã biết Ngân hàng Nhà nớc thực hiện việc quản lý và điều hành chính
sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các tổ
chc tín dụng. Trong khuôn khổ trần lãi suất cho vay, tổ chức tín dụng đợc quy
định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung-
cầu về vốn trong từng giai đoạn, nhằm mở rộng tín dụng góp phần vào việc kích
thích tăng trởng kinh tế. Trong năm 1998, trần lãi suất cho vay bằng VNĐ của các
Ngân hàng thơng mại quốc doanh ở khu vực thành thị đợc quy định là 1,2 -1,25%/
tháng thì mức phí thuê của các công ty cho thuê trong thời kỳ này giao động từ
1,4-1,5%/ tháng. Kết quả tất yếu của sự chênh lệch này là hầu hết các công ty cho
thuê đều "vắng khách". Đến năm 1999, Ngân hàng Nhà nớc liên tục hạ trần lãi
suất để thực hiện kích cầu và đến ngày 25/10/1999 trần lãi suất cho vay trung dài
hạn của các Ngân hàng thơng mại quốc doanh chỉ còn 0,85%/ tháng. Các công ty
cho thuê đơng nhiên phải tiến hành hạ phí cho thuê theo, nhng vẫn luôn cao hơn
lãi suất cho vay từ 0,1- 0,2%/ tháng vì các công ty tính thuế bằng lãi suất cho vay
cùng kỳ hạn cộng với phí cho thuê, phí bảo hiểm...
Nh vậy, lãi suất cho vay nói riêng và việc điều hành chính sách tiền tệ qua
công cụ lãi suất của Ngân hàng Nhà nớc nói chung giống nh một sự rủi ro đối với
hoạt động của các công ty cho thuê tài chính. Các công ty cho thuê hiện nay đều
thụ động trong việc điều chỉnh phí cho thuê theo sự thay đổi lãi suất cho vay của
Ngân hàng Nhà nớc. Các công ty cho thuê đã xác định phí cho thuê bằng lãi suất
cho vay cùng kỳ hạn cộng với các chi phí liên quan đến hoạt động cho thuê là rất
bất hợp lý. Thực tế hoạt động cho thuê ở nhiều quốc gia phát triển thì giá của một
hợp đồng cho thuê thờng không cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay cùng kỳ
hạn. Khi một khách hàng tự vay vốn Ngân hàng để tiến hành đầu t máy móc thiết
bị thì phải chịu nhiều chi phí trung gian trong quá trình mua bán. Trong khi đó,
công ty cho thuê tài chính với thế mạnh trong hoạt động chuyên biệt của mình và
mối quan hệ với nhà cung cấp, có thể loại bỏ đợc chi phí này.
Do đó, việc xây dựng và xác định một chính sách lãi suất ( hay phí cho thuê
) dựa trên cơ sở lãi suất cho vay cùng kỳ hạn của các Ngân hàng của các công ty
cho thuê là rất cần thiết nhằm tạo khả năng cạnh tranh trên thị trờng vốn.

2.1.3. Tính cạnh tranh
Hiện nay ở Việt Nam có 9 công ty cho thuê tài chính. Nh vậy, khác với thời
kỳ 1995-1999 (thị trờng tín dụng cho thuê còn tơng đối mới mẻ, mức độ cạnh
tranh cha gay gắt), với sự tham gia của 9 công ty bao gồm 5 thành viên của bốn
Ngân hàng Quốc doanh lớn, 2 liên doanh và 2 công ty 100% vốn nớc ngoài, cuộc
chiến giành thị phần đã đến hồi gay gắt.
Có thể khái quát một số nét về hoạt động của các công ty cho thuê tại Việt
Nam trong hai năm 1999 - 2000 nh sau (Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc):
* Về tổng d nợ cho thuê:
D nợ cho thuê của các công ty cho thuê tài chính 100% vốn Việt Nam năm
1999 là 202,5 tỷ VND, chiếm 42% so với toàn khối và tăng 198% so với
31/12/1998. Sang năm 2000, con số này là 500 tỷ VND chiếm 62,5% so với toàn
khối và tăng 146,9% so với cùng kỳ 1999. Nh vậy số liệu cho thấy, mặc dù đợc
thành lập sau nhng d nợ của nhóm công ty này tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn
trong toàn khối.
D nợ cho thuê của các công ty cho thuê có vốn nớc ngoài năm 1999 là 284
tỷ VND, chiếm 58% so với toàn khối, giảm 46% so với 31/12/1998. Sang năm
2000, d nợ của nhóm công ty này là 299,9 tỷ USD, chiếm 37,5% so với toàn khối
và tăng 5,6%. Nguyên nhân chủ yếu là do hai công ty cho thuê tài chính có vốn
đầu t nớc ngoài phải hạn chế hoạt động trong năm do khó khăn của Ngân hàng mẹ
ở chính quốc.
* Về nợ quá hạn
Năm 1999, nợ quá hạn của các công ty 100% vốn Việt Nam bằng 0, giảm
100% so với mức d nợ quá hạn tại thời điểm 31/12/1998 (18 tỷ VND). Sang năm
2000, nợ quá hạn của các công ty này tăng lên 0,5 tỷ VND, chiếm 10,2% so với
toàn khối và tăng 100% so với 1999.
Còn đối với các công ty có vốn nớc ngoài, nợ quá hạn năm 1999 là gần 3,3
tỷ VND. Sang năm 2000, nợ quá hạn của các công ty này là 4,4 tỷ VND, chiếm
89,8% so với toàn khối và tăng 33,3% so với cùng kỳ 1999.
* Doanh số cho thuê:

Doanh số cho thuê toàn khối năm 2000 là 719,3 tỷ VND, tăng 47,85% so
với năm 1999, cụ thể:
Doanh số cho thuê của các công ty 100% vốn Việt Nam năm 2000 là 566,5
tỷ VND, chiếm 67,6% so với toàn khối và tăng 88,8% so với năm 1999 ( 300 tỷ
VND).
Trong khi đó doanh số cho thuê của các công ty có vốn nớc ngoài năm
2000 là 233,4 tỷ VND, chiếm 32,4% so với toàn khối và giảm 36% so với năm
1999 (364,8 tỷ VND).
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nớc, trong năm 1999, hầu hết các công ty
cho thuê đều có lợi nhuận trớc thuế (trừ Ngân hàng ngoại thơng Việt Nam) và
sang năm 2000, một số công ty đã tạo đợc lợi nhuận trích lập các quỹ.
Nh vậy, các công ty cho thuê thành viên của các Ngân hàng thơng mại Việt
Nam đã hoạt động hiệu quả hơn so với các công ty có vốn đầu t nớc ngoài ngay
khi mới thành lập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do có thời gian hoạt
động thí điểm trớc đây nên tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm và đã tạo lập đợc mối
quan hệ bớc đầu với khách hàng. Một số đã tranh thủ đợc mạng lới khách hầng
truyền thống từ Ngân hàng mẹ.
Đối với công ty có vốn nớc ngoài, hoạt động kém hiệu quả do tỷ lệ chi phí
vận hành còn cao, các chi phí quảng cáo tiếp thị lớn trong khi cha mở rộng đợc
hoạt động cho thuê.
Hiện nay các công ty cạnh tranh nhau rất quyết liệt thông qua phí cho thuê
và uy tín của Ngân hàng mẹ. Mỗi công ty luôn có khách hàng truyền thống và uy
tín của mình. Tuy nhiên, do dịch vụ cho thuê là mới và quy mô của các công ty t-
ơng đơng nhau (vốn tự có đều khoảng 55-70 tỷ VND) nên mỗi công ty phải tính
rất kỹ giá cả mà cụ thể là phí cho thuê của các công ty khác. Đến thời điểm đầu
tháng năm năm 2000, nhiều công ty đã hạ phí cho thuê với khách hàng truyền
thống xuống bằng sàn lãi suất cho vay trung dài hạn của ngân hàng mẹ.
Tóm lại, sự cạnh tranh trên thị trờng cho thuê sẽ ngày càng gay gắt. Mặc dù
đã có những thành công nhất định trong vài năm đầu hoạt động nhng các công ty
cho thuê thành viên của các Ngân hàng thơng mại quốc doanh tiếp tục bó hẹp thị

trờng của mình trên cơ sở khách hàng truyền thống của ngân hàng mẹ thì sẽ gặp
rất nhiều khó khăn trớc các công ty có vốn đầu t nớc ngoài. Hiện nay, do mới hoạt
động trong thời gian ngắn, các công ty có vốn đầu t nớc ngoài chấp nhận chịu lỗ
và chỉ phục vụ đợc các doanh nghiệp có vốn nớc ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Nhng trong tơng lai không xa, họ sẽ vơn tới thị trờng của các công ty cho thuê tài
chính thành viên của 4 Ngân hàng thơng mại quốc doanh. Với lợi thế quan hệ
rộng rãi với các nhà sản xuất nớc ngoài, họ có thể đánh bật các công ty cho thuê
tài chính thành viên của các Ngân hàng ra khỏi thị trờng truyền thống. Vấn đề này
đòi hỏi các công ty thuộc tứ đại Ngân hàng Việt Nam phải có những chiến lợc
kinh doanh đúng đắn để đảm bảo đứng vững và mở rộng thị phần.
2.1.4. Khách hàng khó tính.
Các khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của các công ty cho thuê
tài chính đều rất khó tính. Tại sao lại nh vậy? Để có đợc một câu trả lời chính xác,
chúng ta sẽ xem xét hoạt động cho thuê dới góc độ khách hàng.
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị cũng
nh thay mới hoàn toàn công nghệ tại các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn. Trong
khi đó, các doanh nghiệp đều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn huy
động vốn nh vốn tự có, vay trung dài hạn từ các Ngân hàng,...
Thứ hai, vấn đề phí cho thuê gần nh đã đợc các công ty cho thuê giải quyết
ổn thoả khi phí cho thuê đợc giảm xấp xỉ sàn lãi suất cho vay trung dài hạn mà
Ngân hàng Nhà nớc quy định.
Thứ ba, các doanh nghiệp cũng đã nhận thấy nhiều lợi thế của cho thuê nh
vấn đề thuế thu nhập, khấu hao nhanh, không cần tài sản thế chấp,...
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp, hiện tại vẫn coi cho thuê chỉ là hình
thức tài trợ cuối cùng khi họ đa ra phơng thức tài trợ vốn. Qua nhiều phân tích, có
thể tóm gọn một số nguyên nhân sau:
+Một là, các doanh nghiệp hiện nay đa phần đều cha thực sự hiểu đúng về
nghiệp vụ cho thuê. Rất nhiều giám đốc doanh nghiệp không phân biệt đợc cho
thuê tài sản và mua trả góp. Họ cho rằng tài sản đi thuê chỉ đem lại lợi ích cho họ
từ khoảng thời gian khấu hao còn lại. Bên cạnh đó, họ không thấy đợc bản chất

của vấn đề phí đi thuê tài sản. Trong nhận thức của các doanh nghiệp, phí thuê
luôn luôn đợc so sánh với lãi suất cho vay cùng kỳ hạn của các Ngân hàng thơng
mại. Nhìn về danh nghĩa, phí cho thuê tuy có cao hơn lãi suất cho vay bằng tiền
một chút nhng thực chất lại thấp hơn nhiều nếu đầu t vào tài sản để thế chấp vay
vốn Ngân hàng.
+ Hai là, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có tâm lý thích sử dụng vốn của
Ngân hàng. Sở thích trên bắt nguồn từ cơ chế cho vay hiện nay cho phép việc gia
hạn nợ thậm chí đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ đối với các khoản cho vay quá hạn.
Các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nớc kinh doanh trong các
ngành chủ đạo làm ăn không hiệu quả, rõ ràng coi đây nh là một lợi ích quan
trọng khi vay tiền từ các Ngân hàng thơng mại quốc doanh. Hơn nữa, các doanh
nghiệp phần lớn đều thiếu vốn lu động, do đo họ muốn mua để sở hữu qua đó có
thể thế chấp để vay tiền từ Ngân hàng.
Chính những hạn chế trên dẫn đến sự khó tính của khách hàng khi tiến
hành giao dịch với các công ty cho thuê tài chính. Và sự khó tính này phần nào
tạo ra sự thiếu sôi động trên thị trờng cho thuê.
2.2. Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam (Agriculture Leasing Company I - ALC I)
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trờng của Việt Nam đặt ra trớc mắt rất nhiều vấn đề cần đợc giải quyết. áp lực đòi
hỏi phải có sự tăng trởng kinh tế với tốc độ cao phát sinh từ nhiều phía: nguy cơ
tụt hậu, tỷ lệ tăng dân số cao, nạn thất nghiệp trầm trọng...
Điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nớc ta phải đề ra những phơng hớng, chiến
lợc cụ thể trớc mắt và lâu dài trong công cuộc đổi mới đất nớc, đa đất nớc phát
triển theo hớng kinh tế thị trờng có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc. Để làm đợc
điều này, nhu cầu tiêu dùng của ngời dân phải tăng lên, đi cùng với nó là sản xuất
phát triển.
Song hiện nay, Việt Nam mới chủ yếu phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nhu cầu vốn lại rất lớn. Nếu chỉ dựa hoàn toàn vào các Ngân hàng thơng mại
hay sử dụng phơng pháp chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp sản

xuất, dịch vụ thì: thứ nhất, nhu cầu vốn vẫn không đủ; thứ hai, đây mới chỉ là giải
pháp tạm thời, mang tính tình huống. Do đó, các doanh nghiệp để phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, họ luôn phải tìm kiếm những nguồn vốn ổn
định và lâu dài với chi phí vốn thấp.
Nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã cho thấy sự cần thiết
khách quan và tiềm năng phát triển của hoạt động cho thuê tài sản ở Việt Nam.
Và trên thực tế, hoạt động này đợc chính thức thừa nhận ở nớc ta từ năm 1991
(theo thông t số 34/TC DN ngày 31/7/1991). Xuất phát từ tình hình thực tế trên,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã xúc tiến nghiên
cứu hoạt động này và áp dụng vào thực tế. Công ty thuê mua và t vấn đầu t của
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đợc thành lập theo
quyết định số 130/QĐ - NHNo ngày 28/9/1994 và qui chế tổ chức hoạt động của
công ty thuê mua và t vấn đầu t cũng đã đợc xác định tại quyết định số 501/QĐ -
NHNo ngày 4/11/1994 của tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn Việt Nam. Các qui định đó nh sau:
- Công ty thuê mua và t vấn đầu t trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn Việt Nam . Công ty chỉ là đại diện pháp nhân và hạch toán
kinh tế nội bộ.
- Công ty thuê mua và t vấn đầu t có các nhiệm vụ sau:
+ Đợc uỷ quyền tập trung các nguồn vốn đầu t.
+ Góp vốn liên doanh, liên kết theo uỷ quyền của tổng giám đốc
NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê.
- Mô hình tổ chức bộ máy của công ty bao gồm hai phòng: phòng kế toán
và phòng nghiệp vụ kinh doanh.
Sau khi có Nghị định 64 /CP của Chính phủ cùng với thông t 03/TT - NH5
của Ngân hàng Nhà nớc và qua kinh nghiệm của một số công ty cho thuê trong và
ngoài nớc khác thì công ty thuê mua và t vấn đầu t phải đợc tổ chức lại để có thể
hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Do đó, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn Việt Nam đã quyết định thành lập công ty cho thuê tài chính trực

thuộc.
Theo quyết định thành lập số 238/QĐ - NHNN 5 ngày 14/7/1998 của thống
đốc Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam, hai công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đợc thành lập bao gồm:
+ Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam đặt trụ sở tại thành phố Hà Nội.
+ Công ty cho thuê tài chính II - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam đặt trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh.
Riêng công ty cho thuê tài chính I, theo giấy phép kinh doanh số 112447 do
sở kế hoạch và đầu t Hà Nội cấp ngày 7/9/1998 với mức vốn điều lệ 65 tỷ VNĐ,
công ty hoạt động theo các văn bản về hoạt động cho thuê tài chính trớc đó và
điều lệ hoạt động theo qui định số 492 - QĐ/ HĐQT do thống đốc Ngân hàng Nhà
nớc Việt Nam qui định; tổ chức và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nớc và
các luật về Ngân hàng và công ty tài chính, các qui định của pháp luật hiện hành,
điều lệ của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
- Hoạt động chủ yếu của Công ty cho thuê tài chính I bao gồm: cho thuê
máy móc, thiết bị và các động sản khác ( gọi chung là tài sản cho thuê ) phục vụ
sản xuất kinh doanh và các dịch vụ của các ngành kinh tế, u tiên phục vụ phát
triển kinh tế nội ngành, các ngành nông - lâm - ng nghiệp, nhất là đối với các
khách hàng truyền thống.
- Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và các
chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty là một pháp nhân, có con dấu riêng, có
tài khoản mở tại Ngân hàng Nông nghiệp, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài
chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh và những cam kết của
mình.
- Địa bàn hoạt động của Công ty cho thuê tài chính I từ Huế trở ra, đợc
thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các khu vực khi đợc hội đồng
quản trị Ngân hàng Nông nghiệp phê duyệt và đợc Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam
chấp thuận.
- Thời hạn hoạt động của công ty là 70 năm kể từ ngày đợc cấp giấy phép

hoạt động. Việc gia hạn thời hạn hoạt động của công ty do hội đồng quản trị Ngân
hàng Nông nghiệp quyết định và phải đợc thống đốc Ngân hàng Nhà nớc chấp
thuận bằng văn bản.
- Nghiệp vụ hoạt động của công ty theo qui định của nghị định 16/CP của
Chính phủ bao gồm:
+ Đợc phép huy động vốn từ các nguồn sau:
* Đợc nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo qui
định của Ngân hàng Nhà nớc.
* Đợc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác có kỳ hạn
trên một năm để huy động vốn của tổ chức cá nhân trong và ngoài nớc khi đợc
thống đốc Ngân hàng Nhà nớc chấp thuận.
* Đợc vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nớc.
* Đợc nhận các nguồn vốn khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nớc.
+ Cho thuê tài chính đối với khách hàng theo qui định của pháp luật hiện
hành về cho thuê tài chính.
+ T vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những hoạt động, dịch vụ có liên
quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.- Thực hiện các nghiệp vụ khác do tổng
giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp giao và phải đợc Ngân hàng Nhà nớc và các cơ
quan chức năng của Nhà nớc cho phép.
- Vốn vay:
+ Vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
+ Vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nớc theo qui
định của pháp luật hiện hành.
+ Phát hành trái phiếu và giấy tờ có giá khác khi đợc Ngân hàng Nông
nghiệp chấp thuận và đợc thống đốc Ngân hàng Nhà nớc cho phép.
+ Tổng nguồn vốn đi vay so với vốn tự có không đợc vợt quá tỷ lệ qui định
hiện hành của Ngân hàng Nhà nớc.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý:
Công ty chịu sự quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp về chiến lợc phát
triển, tổ chức và nhân sự, chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nớc về nội dung và

phạm vi hoạt động và chịu sự thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nớc và các
cơ quan chức năng Nhà nớc có thẩm quyền.
- Tổ chức bộ máy của công ty đợc thể hiện qua sơ đồ sau:
- Tính cho đến thời điểm hiện tại, tại trụ sở chính công ty có 4 phòng và 32 biên
chế. Công ty có giám đốc, phó giám đốc, 4 trởng phòng, 4 phó phòng; tại chi
nhánh ở Hải Phòng có 12 biên chế. Mặc dù đợc Ngân hàng Nhà nớc cấp giấy
phép hoạt động ngày 14/7/1998 nhng công ty chỉ ổn định tổ chức, đào tạo nghiệp
vụ, nghiên cứu nhu cầu cho thuê và khả năng đáp ứng của công ty và chỉ thực tế đi
vào kinh doanh kể từ đầu năm 1999.
2.3 Quá trình thực hiện một giao dịch cho thuê tại công ty cho thuê tài chính
I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
2.3.1/ Tiếp nhận thông tin:
Ban Giám đốc
Bộ phận
k.toán
nội bộ
Phòng
tổng hợp
Phòng
kinh
doanh
Phòng
t.chính
kế toán

×