1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực
hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước, quản lý ngân
sách nhà của Việt Nam cũng đã có những thành tựu đáng kể, góp phần quan
trọng để Việt Nam thực thi thành công quá trình đổi mới, đặc biệt là từ khi
Luật ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ hai thông qua
ngày 16/12/2002 và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu
và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý và điều hành ngân sách nhà
nước, phát triển kinh tế - xã hội; Đảm bảo các nhiệm vụ quốc phòng an ninh
và đối ngoại.
Nằm ở phía tây miền đất Tổ Hùng Vương, Phú Thọ trở thành thị xã
tỉnh lỵ, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh trong gần 6 thập kỷ, và
hiện nay đang là trung tâm văn hoá giáo dục của tỉnh, trung tâm kinh tế vùng
phía Tây, Tây Bắc. Ngày 31-12-2010 Bộ Trưởng Bộ Xây dựng đã ký Quyết
định công nhận thị xã Phú Thọ là đô thị loại III. Từ khi Luật Ngân sách Nhà
nước (NSNN) ra đời và có hiệu lực, cơ chế quản lý nguồn NSNN thị xã Phú
Thọ đã dần từng bước được hoàn thiện, tạo được những bước ngoặt trong lĩnh
vực quản lý thu ngân sách của các đơn vị thụ hưởng ngân sách các cấp. Tuy
nhiên, việc quản lý nguồn thu NSNN trong thời gian còn thiếu tập trung;
nhiều nguồn lực tài chính không được động viên vào NSNN; chính quyền cấp
xã và một số đơn vị có liên quan còn xem nhẹ công tác thu ngân sách và coi
đó là nhiệm vụ của riêng ngành Thuế; nguồn thu NSNN trên địa bàn vẫn còn
nhiều bất cập. Nguồn thu chủ yếu từ nguồn đấu giá quyền sử đất và các sắc
thuế, phí lệ phí.
Xuất phát từ thực tế trên tôi chọn đề tài "Hoàn thiện công tác quản lý
thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ” làm
đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý thu ngân sách thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ từ đó đề xuất giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác quản
lý thu ngân sách thị xã Phú Thọ, góp phần phát triển kinh tế xã hội của thị xã
Phú Thọ tỉnh Phú Thọ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý thu ngân
sách nhà nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu ngân sách thị xã Phú Thọ.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý
thu ngân sách tại thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn thị xã Phú Thọ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi thị xã Phú Thọ.
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2012.
- Về Nội dung: Việc nghiên cứu toàn diện việc quản lý thu NSNN bao
gồm rất nhiều vấn đề và rất rộng, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ
tập trung trình bày một số vấn đề về quản lý thu thuế và các khoản phí, lệ phí.
Đây là các khoản thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu NSNN.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết
thực, là tài liệu để nghiên cứu, tham khảo đối với công tác quản lý thu Ngân
sách Nhà nước trên địa bàn thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
Về mặt lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về
công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước nói chung.
3
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã phân tích và chỉ rõ thực trạng công tác
quản lý thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
qua đó chỉ rõ được những ưu, nhược điểm, nguyên nhân của thực trạng và rút
ra bài học kinh nghiệm về công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước cho thị
xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Luận văn đã đề xuất các giải pháp cơ bản, chủ yếu và khả thi nhằm
hoàn thiện công tác quản lý thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ phù hợp với điều kiện cụ thể của thị xã Phú Thọ. Ngoài ra,
luận văn còn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thiết thực cho quá trình quản lý
thu ngân sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
và đối với các địa phương có điều kiện tương tự.
5. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu Ngân sách Nhà nước.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Thực trạng quản lý thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn
thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
- Chương 4: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu
Ngân sách Nhà nước trên địa bàn thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Cơ sở lý luận về ngân sách nhà nước và quản lý thu ngân sách nhà nước
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù kinh tế khách quan, ra đời,tồn tại và phát triển
trên cơ sở sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Khái niệm chung về ngân sách như sau: Xét trên phương diện nội dung
bên trong có thể coi “Ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế phát
sinh gắn liền quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia
nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định” (Dương
Đăng Chinh (2005)).
Luật NSNN của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước” (Điều 1 luật NSNN số
01/2002 QH11 ngày 16/12/2002).
NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Quỹ này thể hiện lượng
tiền huy động từ thu nhập quốc dân để đáp ứng cho các khoản chi tiêu của
Nhà nước, có hai mặt đó là: mặt tĩnh và mặt động. Mặt tĩnh thể hiện các
nguồn tài chính được tập trung vào NSNN mà chúng ta có thể xác định được
vào bất kỳ thời điểm nào. Mặt động thể hiện các quan hệ phân phối dưới hình
thức giá trị gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung vào NSNN và từ NSNN phân bổ
các nguồn tài chính cho các ngành, các lĩnh vực, các địa phương của nền kinh
tế quốc dân.
5
NSNN là một phạm trù kinh tế tài chính, được coi là một hệ thống
quan hệ kinh tế tồn tại khách quan. Hệ thống các quan hệ kinh tế này được
đặc trưng bởi quan hệ tiền tệ phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài
chính và bằng các quan hệ kinh tế đó mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
được tạo lập và sử dụng.Hệ thống các quan hệ kinh tế này bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với khu vực doanh nghiệp.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị hành chính sự nghiệp.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính.
Như vậy đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của NSNN là một loại
quỹ tiền tệ của Nhà nước với các khoản thu và các khoản chi của nó thì
NSNN lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối, thể hiện
các quan hệ phân phối và các quan hệ lợi ích kinh tế gắn với một chủ thể đặc
biệt, đó là Nhà nước nhằm tạo lập và sử dụng nguồn tài chính quốc gia để giải
quyết các nhiệm vụ về KT-XH.
1.1.1.2. Đặc điểm của NSNN
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực
kinh tế - chính trị của nhà nước, và việc thực hiện các chức năng của nhà
nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;
Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài
chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và chi của nhà nước;
Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa
đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng;
Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác.
Nét khác biệt của ngân sách nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó
mới được chi dùng cho những mục đích đã định;
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên
tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
6
1.1.1.3. Vai trò của NSNN
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng,
vai trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo
từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước
đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
Một là: NSNN có vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu
cầu chi tiêu của NSNN, cung cấp nguồn tài chính để duy trì bộ máy quản lý
NSNN, đồng thời NSNN thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các khoản
chi (bằng tiền) của Nhà nước, đây là vai trò lịch sử của NSNN mà trong bất
cứ thời đại nào, cơ chế nào Nhà nước cũng phải thực hiện.
Hai là: Xuất phát từ điều kiện cụ thể trong giai đoạn hiện nay, NSNN
là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Cơ chế thị trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vĩ mô từ phía Nhà
nước, song Nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện thành công khi có nguồn tài
chính đảm bảo, tức là khi Nhà nước sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ
ngân sách để tác động vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội - thị trường.
Ba là: NSNN góp phần định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, kích thích phát triển sản xuất - kinh
doanh và chống độc quyền.
NSNN đảm bảo cung cấp kinh phí để đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng,
hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế khác, nhằm định hướng cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát
triển sản xuất, kinh doanh và chống độc quyền, thông qua việc thực hiện
chính sách thu, NSNN củng cố vai trò định hướng đầu tư, kích thích phát
triển kinh doanh, hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh đối với từng lĩnh vực,
ngành nghề trong nền kinh tế.
7
Bốn là: Bằng công cụ thuế và chính sách chi tiêu, NSNN có khả năng
tác động đến quan hệ cung - cầu, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, sự mất cân đối quan hệ cung - cầu, tác
động mạnh mẽ đến giá cả, để bình ổn giá cả, Nhà nước phải tác động đến quan
hệ cung - cầu thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ hoặc chính sách giảm thuế
suất cho một số mặt hàng thiết yếu mà Nhà nước cần khuyến khích sản xuất.
Kiềm chế lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều
chỉnh thị trường. Về lĩnh vực NSNN, thu - chi được sử dụng đúng mục đích,
có hiệu quả thì sẽ có tác dụng rất lớn đến ổn định thị trường. Trong trường
hợp ngược lại, sẽ gây ra bất ổn định và thúc đẩy lạm phát tăng lên, bên cạnh
đó việc lựa chọn giải pháp bù đắp, thâm hụt NSNN là nguyên nhân ảnh hưởng
trực tiếp đến tình hình lạm phát. Nếu dùng biện pháp phát hành thêm tiền thì
trực tiếp làm cho tình hình lạm phát gia tăng, ngược lại biện pháp vay dân sẽ
góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, tạo ra sự cân đối tiền hàng và làm giảm tốc độ lạm phát.
Năm là: NSNN có khả năng điều tiết thu nhập, điều chỉnh tiêu dùng
đảm bảo thu nhập chính đáng, và nhất là đảm bảo sự công bằng xã hội thông
qua các chính sách thu - chi NSNN.
Nhà nước sử dụng ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội, trợ
cấp xã hội, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề,
phòng, chống các tệ nạn xã hội….
1.1.1.4. Chức năng của NSNN
Qua phân tích về bản chất của ngân sách nhà nước và tính tất yếu khách
quan của ngân sách nhà nước có thể thấy ngân sách nhà nước xét về chức
năng bao gồm các khía cạnh chủ yếu sau: Ngân sách nhà nước là công cụ thực
hiện việc huy động và phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội, đằng sau hoạt
động thu chi ngân sách bằng tiền là sự thể hiện quá trình phân bổ các yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.
8
Ngân sách nhà nước là bộ phận tài chính nhà nước nên nó có chức năng
phân phối, chức năng giám đốc. Trong nền kinh tế thị trường việc phân bổ
nguồn lực xã hội được thực hiện chủ yếu theo hai kênh: Kênh của các lực
lượng thị trường và kênh của Nhà nước thông qua hoạt động thu chi tài chính
nhà nước nói chung và ngân sách nói riêng từ đó nó còn có chức năng điều
chỉnh quá trình kinh tế xã hội thông qua các công cụ của nó.
1.1.2. Quản lý ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm quản lý ngân sách nhà nước
Quản lý nói chung là hoạt động tự giác có ý thức của chủ thể tác động
đến đối tượng nhằm tổ chức, điều hòa cá nhân, bộ phận ăn khớp theo mục tiêu
chung của tổ chức trong những giai đoạn phương hướng nhất định.
Quản lý ngân sách nhà nước là quản lý sự vận động của các nguồn tài
chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quĩ tiền tệ tập trung của nhà nước
nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước.
Quản lý quy trình NSNN là điều hành hoạt động của chu trình NS theo
niên độ (tài khóa) gồm cả giai đoạn từ khâu lập dự toán NSNN, chấp hành
NSNN đến quyết toán NSNN.
1.1.2.2. Vai trò, chức năng quản lý NSNN
Hình thành cơ chế, chính sách quản lý ngân sách
Cơ chế quản lý ngân sách bao gồm các hình thức, phương pháp hình
thành, tập trung, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính thuộc quỹ NSNN,
trên phương diện quản lý, cơ chế quản lý ngân sách được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, đó là tổng thể các hình thức, phương pháp điều hành quỹ
ngân sách trong hệ thống ngân sách gồm các bộ phận, như cấp ngân sách, chu
trình ngân sách, các hình thức tổ chức bộ máy quản lý NSNN; Theo nghĩa
rộng, cơ chế quản lý NSNN là tổng thể các hình thức và phương pháp hình
thành, tập trung, phân phối và sử dụng quỹ NSNN, theo cách hiểu này, cơ chế
quản lý ngân sách bao gồm cả yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài của hệ
thống ngân sách.
9
Trong quản lý NSNN việc nhận thức rõ vai trò của cơ chế quản lý ngân
sách có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nhìn nhận tính biến động của
chính sách NSNN, từ đó không ngừng hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý ngân
sách làm cho nó thích ứng, phù hợp với sự biến động của chính sách ngân sách.
Chính sách ngân sách là phương hướng cơ bản về huy động vốn và sử
dụng ngân sách của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định, phù hợp với đặc
điểm kinh tế - xã hội và những nhiệm vụ đặt ra cho Nhà nước ở thời kỳ đó.
Xét về mặt cơ cấu, chính sách ngân sách bao gồm chính sách động viên, tập
trung các nguồn tài chính vào quỹ ngân sách tập trung của Nhà nước, chính
sách phân phối sử dụng quỹ ngân sách cho các mục tiêu kinh tế - xã hội và
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, những định hướng
cơ bản về tổ chức, xây dựng và quản lý hệ thống NSNN.
Chính sách ngân sách có vai trò vô cùng quan trọng, nó dẫn đường
trong chính sách tài chính Quốc gia, ràng buộc, vạch ranh giới những bộ phận
của từng nguồn tài chính được phép và có thể tập trung vào quỹ NSNN. Đồng
thời, chính sách ngân sách quy định rõ lĩnh vực, quy mô, mức độ chi dùng
trong phạm vi toàn xã hội.
Chính sách ngân sách do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh nền kinh
tế trong từng thời kỳ, giai đoạn nhất định, nó tác động đến quá trình hoạt động
kinh tế - xã hội theo hướng tích cực, hoặc tiêu cực, chính sách đúng phù hợp
sẽ có tác động thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và ngược lại. Đồng thời,
nó cũng chịu ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội, của cơ chế quản lý và
các bộ phận khác trong hệ thống tài chính Quốc gia.
Trên cơ sở chính sách NSNN hình thành nên mức độ huy động đối với
từng khoản mục vào ngân sách và các tiêu chuẩn, định mức chi NSNN,
đây là cơ sở để lập kế hoạch NSNN và là cơ sở kiểm soát việc thực hiện
thu - chi NSNN.
10
Hoạch định kế hoạch thu - chi NSNN.
Trên cơ sở chế độ chính sách thu - chi đã được ban hành, các cấp chính
quyền hoạch định kế hoạch thu - chi sát, đúng và phù hợp với tình hình thực
tế của từng cấp ngân sách.
Nội dung cơ bản của kế hoạch thu - chi NSNN được cụ thể hoá trong quá
trình lập dự toán ngân sách ở các cấp ngân sách với việc xác định các khoản thu
- chi cụ thể, tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn bù đắp. Việc lập
kế hoạch trong dự toán NSNN phải dựa trên cơ sở, tình hình diễn biến về kinh tế
- xã hội ở mỗi cấp, ngành, địa phương. Kế hoạch ngân sách vừa phải bảo đảm
nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi cho bộ máy quản lý nhà nước, nhưng phải bảo
đảm nuôi dưỡng nguồn thu, kế hoạch chi tiêu phải sát, đúng và bảo đảm hiệu
quả, tránh thất thoát lãng phí. Kế hoạch thu - chi NSNN phải sát đúng và phù
hợp với tình hình kinh tế, để tổ chức thực hiện tốt, có hiệu quả hoạt động quản
lý, hoạt động thu - chi NSNN ở các cấp, các ngành, địa phương.
Tổ chức quá trình thu - chi NSNN.
Tổ chức quá trình thu - chi NSNN là một trong những nội dung quan
trọng của quản lý NSNN. Kết quả quản lý NSNN phụ thuộc rất lớn vào khâu
này, tổ chức quá trình thu - chi NSNN bao gồm hai nội dung cơ bản: Xây
dựng quy trình thu - chi NSNN một cách hợp lý và tổ chức bộ máy thu - chi
NSNN ở tất cả các khâu, các cấp ngân sách.
Quy trình thu - chi cần được xây dựng cụ thể cho từng loại thu và các
khoản mục chi cụ thể. Việc xác lập quy trình thu - chi ngân sách cụ thể, hợp
lý không những bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch thu - chi NSNN, mà còn có
tác dụng công khai hoá các nguồn thu và khoản mục chi, tạo cơ sở cho việc
kiểm soát NSNN được tốt hơn.
Bộ máy quản lý ngân sách nói chung và bộ máy quản lý NSNN nói
riêng là bộ phận quan trọng, quyết định trong việc thực hiện chính sách và cơ
chế quản lý NSNN. Vì vậy, vấn đề bức thiết, trọng yếu hiện nay là tổ chức bộ
máy quản lý NSNN phải đảm bảo hoạt động có hiệu lực và hiệu quả cao.
11
Kiểm soát thu - chi NSNN.
Kiểm soát thu - chi NSNN nhằm mục đích bảo đảm cho việc thu - chi
ngân sách được hiệu quả, đúng mục đích và an toàn.
Xu hướng chung của NSNN là nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm
trong khi nhu cầu chi lại tăng, dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách. Một trong
những nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất trong quá trình quản lý ngân sách
là đảm bảo cân đối giữa thu và chi. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đó
là sự cân bằng động. Thâm hụt ngân sách nếu không được xử lý giải quyết
đúng đắn sẽ có tác hại, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Các
biện pháp để giải quyết thâm hụt ngân sách đó là tăng thu, giảm chi, vay nợ
trong dân và vay nợ nước ngoài, in thêm tiền. Việc lựa chọn biện pháp này
hay biện pháp khác phụ thuộc vào điều kiện thực tế tại từng thời điểm cụ thể.
1.1.2.3. Nguyên tắc quản lý NSNN
* Nguyên tắc đầy đủ, trọn vẹn
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của quản lý ngân sách
nhà nước. Nội dung của nguyên tắc này là: Mọi khoản thu, chi phải được ghi đầy
đủ vào kế hoạch ngân sách nhà nước, mọi khoản chi phải được vào sổ quyết toán
rành mạch. Chỉ có kế hoạch ngân sách đầy đủ, trọn vẹn mới phản ánh đúng mục
đích chính sách và đảm bảo tính minh bạch của các tài khoản thu, chi.
Nguyên tắc quản lý này nghiêm cấm các cấp, các tổ chức nhà nước lập
và sử dụng quỹ đen. Điều này có ý nghĩa rằng mọi khoản thu chi của ngân
sách nhà nước đều phải đưa vào kế hoạch ngân sách để Quốc hội phê chuẩn,
nếu không việc phê chuẩn ngân sách của Quốc hội sẽ không có căn cứ đầy đủ,
không có giá trị.
* Nguyên tắc thống nhất trong quản lý ngân sách nhà nước
Nguyên tắc thống nhất trong quản lý ngân sách nhà nước bắt nguồn từ
yêu cầu tăng cường sức mạnh vật chất của Nhà nước. Biểu hiện cụ thể sức
mạnh vật chất của Nhà nước là thông qua hoạt động thu - chi của ngân sách
12
nhà nước. Nguyên tắc thống nhất trong quản lý ngân sách nhà nước thể hiện:
Mọi khoản thu - chi của ngân sách nhà nước phải tuân theo những quy định của
Luật ngân sách nhà nước và phải được dự toán hàng năm được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt.
Tất cả các khâu của chu trình ngân sách nhà nước khi triển khai thực
hiện phải đạt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực, ở Trung ương
là Quốc hội, ở địa phương là Hội đồng nhân dân.
Hoạt động ngân sách nhà nước đòi hỏi phải có sự thống nhất với hoạt
động kinh tế, xã hội của quốc gia. Hoạt động kinh tế, xã hội của quốc gia là
nền tảng của hoạt động ngân sách nhà nước. Hoạt dộng ngân sách nhà nước
phục vụ cho hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời là hoạt động mang tính chất
kiểm chứng đối với hoạt động kinh tế, xã hội.
* Nguyên tắc cân đối ngân sách
Ngân sách nhà nước được lập và thu chi ngân sách phải được cân đối.
Nguyên tắc này đòi hỏi các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ
các nguồn thu bù đắp. Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân luôn cố gắng
để đảm bảo cân đối nguồn ngân sách nhà nước bằng cách đưa ra các quyết
định liên quan đến các khoản chi để thảo luận và cắt giảm những khoản chi
chưa thực sự cần thiết, đồng thời nỗ lực khai thác mọi nguồn thu hợp lý mà
nền kinh tế có khả năng đáp ứng.
* Nguyên tắc công khai hóa ngân sách nhà nước
Về mặt chính sách, thu chi ngân sách nhà nước là một chương trình
hoạt động của Chính phủ được cụ thể hóa bằng số liệu. Ngân sách nhà nước
phải được quản lý rành mạch, công khai để mọi người dân có thể biết nếu họ
quan tâm. Nguyên tắc công khai của ngân sách nhà nước được thể hiện trong
suốt chu trình ngân sách nhà nước và phải được áp dụng cho tất cả các cơ
quan tham gia vào chu trình ngân sách nhà nước.
13
* Nguyên tắc rõ ràng, trung thực và chính xác
Nguyên tắc này là cơ sở, tạo tiền đề cho mỗi người dân có thể nhìn
nhận được chương trình hoạt động của Chính quyền địa phương và chương trình
này phải được phản ánh ở việc thực hiện chính sách tài chính địa phương.
Nguyên tắc này đòi hỏi: Ngân sách Nhà nước được xây dựng rành mạch,
có hệ thống; Các dự toán thu, chi phải được tính toán một cách chính xác và phải
đưa vào kế hoạch ngân sách; Không được che đậy và bào chữa đối với tất cả các
khoản thu, chi ngân sách nhà nước; Không được phép lập quỹ đen.
1.1.2.4. Nội dung quản lý NSNN
* Lập dự toán ngân sách
Mục tiêu cơ bản của việc lập dự toán ngân sách là nhằm tính toán đúng
đắn ngân sách trong kỳ kế hoạch, có căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn các
chỉ tiêu thu, chi của ngân sách trong kỳ kế hoạch. Yêu cầu trong quá trình lập
ngân sách phải đảm bảo:
- Kế hoạch ngân sách nhà nước phải bám sát kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội và có tác động tích cực đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội: Kế hoạch ngân sách chỉ mang tính hiện thực khi nó bám sát kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Có tác động tích cực đến thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội, cũng chính là thực hiện kế hoạch ngân sách nhà
nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý
vĩ mô, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu mang tính định hướng.
- Kế hoạch ngân sách nhà nước phải đảm bảo thực hiện đầy đủ và đúng
đắn các quan điểm của chính sách tài chính địa phương trong thời kỳ và yêu
cầu của Luật ngân sách nhà nước. Hoạt động ngân sách nhà nước là nội dung
cơ bản của chính sách tài chính. Do vậy, lập ngân sách nhà nước phải thể hiện
được đầy đủ và đúng đắn các quan điểm chủ yếu của chính sách tài chính địa
phương như: Trật tự và cơ cấu động viên các nguồn thu, thứ tự và cơ cấu bố
trí các nội dung chi tiêu. Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước hoạt động luôn
14
phải tuân thủ các yêu cầu của Luật ngân sách nhà nước, nên ngay từ khâu lập
ngân sách cũng phải thể hiện được đầy đủ các yêu cầu của Luật ngân sách nhà
nước như: Xác định phạm vi, mức độ của nội dung các khoản thu, chi phân
định thu, chi giữa các cấp ngân sách, cân đối ngân sách nhà nước.
Căn cứ lập ngân sách nhà nước:
+ Nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Văn hóa - Xã hội đảm bảo quốc phòng,
an ninh của Đảng và Chính quyền địa phương trong năm kế hoạch và những
năm tiếp theo.
+ Lập ngân sách nhà nước phải dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội của địa phương trong năm kế hoạch. Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội là
cơ sở, căn cứ để đảm bảo các nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đồng thời,
cũng là nơi sử dụng các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
+ Lập ngân sách nhà nước phải tính đến các kết quả phân tích, đánh giá
tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước của các năm trước, đặc biệt
là của năm báo cáo.
+ Lập ngân sách nhà nước phải dựa trên các chính sách, chế độ, tiêu
chuẩn định mức cụ thể về thu, chi tài chính nhà nước. Lập ngân sách nhà
nước là xây dựng các chỉ tiêu thu chi cho năm kế hoạch, các chỉ tiêu đó chỉ có
thể xây dựng sát, đúng. Ngoài dựa vào các căn cứ nói trên phải đặc biệt tuân
thủ theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu, chi tài chính nhà nước thông qua
hệ thống pháp luật (đặc biệt là hệ thống các luật thuế) và các văn bản pháp lý
khác của nhà nước.
* Chấp hành ngân sách
- Chấp hành thu ngân sách: Theo Luật ngân sách nhà nước chấp hành
thu ngân sách có nội dung như sau:
+ Chỉ có cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan hải quan và cơ quan
khác được giao nhiệm vụ thu ngân sách (gọi chung là cơ quan thu) được tổ
chức thu ngân sách nhà nước.
15
+ Cơ quan thu có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Phối hợp với các cơ
quan nhà nước hữu quan tổ chức thu đúng pháp luật; chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
của Ủy ban nhân dân và sự giám sát của Hội đồng nhân dân về công tác thu
ngân sách tại địa phương; Phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm
chỉnh nghĩa vụ nộp ngân sách theo quy định của Luật ngân sách và các quy
định khác của Pháp luật.
+ Cơ quan thu các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách
phải đầy đủ, đúng hạn các khoản nộp vào ngân sách nhà nước.
- Phân bổ và giao dự toán chi ngân sách: Sau khi Uỷ ban nhân dân giao
dự toán ngân sách, các đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán
chi ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc theo các nguyên
tắc được quy định tại Điểm a khoản 1 điều 44 của Nghị định số 60/2003/NĐCP ngày 06 tháng 06 năm 2003 của Chính Phủ. Dự toán chi thường xuyên
giao cho đơn vị sử dụng ngân sách được phân bổ theo từng loại của Mục lục
ngân sách nhà nước, theo các nhóm mục (6): Chi thanh toán cá nhân; Chi
nghiệp vụ, chuyên môn; Chi mua sắm, sửa chữa; Các khoản chi khác.
+ Nội dung cơ bản của chi thường xuyên ngân sách huyện (xét theo
lĩnh vực chi): Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y
tế, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, văn hóa xã hội; Chi cho các hoạt
động sự nghiệp kinh tế của Nhà nước; Chi cho hoạt động hành chính nhà
nước; Chi cho hoạt động hành chính nhà nước; Chi cho Quốc phòng - An
ninh và trật tự an toàn xã hội; Chi khác.
Nguyên tắc quản lý chi thường xuyên của ngân sách huyện bao gồm:
Nguyên tắc quản lý theo dự toán; Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả; Nguyên tắc
chi trực tiếp qua Kho bạc nhà nước.
16
+ Nội dung cơ bản của chi đầu tư phát triển: Trên nguyên tắc quản lý
cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản như cấp phát vốn trên cơ sở
thực hiện nghiêm chỉnh trình tự đầu tư và xây dựng, đảm bảo đầy đủ các tài
liệu thiết kế, dự toán; Việc cấp phát thanh toán vốn đầu tư và xây dựng cơ bản
phải đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch; Cấp phát vốn đầu tư xây dựng
cơ bản chỉ được thực hiện theo đúng mức độ thực tế hoàn thành kế hoạch,
trong phạm vi giá dự toán được duyệt; Việc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ
bản được thực hiện bằng hai phương pháp cấp phát không hoàn trả và có hoàn
trả; Cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện giám định
bằng đồng tiền với việc sử dụng vốn đúng mục đích có hiệu quả vốn đầu tư.
1.1.2.5. Cân đối thu chi ngân sách
* Trong lập dự toán ngân sách nhà nước
- Phải được xác định trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đảm bảo các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, quản lý nhà nước, đảm bảo quốc phòng an ninh.
- Phải được xây dựng theo chế độ tiêu chuẩn, định mức và lập chi tiết
theo mục lục ngân sách.
- Để chủ động cân đối ngân sách nhà nước, dự toán chi ngân sách địa
phương được bố trí khoản dự phòng từ 2% đến 5% tổng chi nhằm đáp ứng
các nhu cầu chi phát sinh đột xuất trong năm ngân sách.
Trường hợp có nhiều biến động lớn về ngân sách địa phương so với
tổng dự toán đã phân bổ cần phải điều chỉnh tổng thể, Ủy ban nhân dân lập dự
toán điều chỉnh ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân theo quy trình
được quy định tại Luật ngân sách nhà nước năm 2012.
* Trong chấp hành ngân sách nhà nước
Trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước, khi có sự thay đổi về
thu, chi chủ tịch ủy ban nhân dân huyện thực hiện như sau:
- Nếu tăng thu hoặc tiết kiệm chi so với dự toán được duyệt thì số tăng
thu hoặc tiết kiệm chi được dùng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ hoặc để bổ
17
sung quỹ dự trữ tài chính, hoặc chi một số khoản cần thiết khác, nhưng không
cho phép chi về quỹ tiền lương, trừ trường hợp đặc biệt được cấp có thẩm
quyền cho phép.
- Nếu giảm thu so với dự toán thì phải sắp xếp lại để giảm một số
khoản chi tương ứng; Nếu có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không
thể trì hoãn được mà nguồn dự phòng không đủ đáp ứng thì phải sắp xếp lại
các khoản chi; Khi thực hiện việc tăng, giảm thu chi, chủ tịch Ủy ban nhân
dân phải báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp vào kỳ họp gần nhất.
- Trong công tác cân đối ngân sách nhà nước, phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định.
1.1.3. Điều chỉnh dự toán ngân sách
Điều chỉnh ngân sách của chính quyền địa phương cấp dưới trong
trường hợp dự toán ngân sách của các cấp chính quyền địa phương chưa phù
hợp với dự toán ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, chưa phù hợp
với dự toán ngân sách nhà nước, hoặc chưa phù hợp với dự toán ngân sách
cấp trên như sau:
Cơ quan tài chính báo cáo Ủy ban nhân dân, yêu cầu Hội đồng nhân
dân cấp dưới điều chỉnh dự toán ngân sách sau khi nhận được báo cáo quyết
định dự toán ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp dưới.
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân
dân tỉnh, sở Tài chính, sở Kế hoạch và Đầu tư dự toán ngân sách điều chỉnh
đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định. Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện, phòng
Tài chính cấp huyện về dự toán ngân sách điều chỉnh đã được Hội đồng nhân
dân thông qua.
Trong trường hợp có biến động lớn về ngân sách địa phương so với dự
toán đã phân phối cần phải điều chỉnh tổng thể, Ủy ban nhân dân huyện trình
Hội đồng nhân dân huyện quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa
18
phương; Trường hợp có yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc vì lý
do khách quan cần điều chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một số cơ quan trực
thuộc của ngân sách cấp dưới, nhưng không có biến động lớn đến tổng thể
ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp huyện trình hội đồng nhân dân
cấp huyện quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương.
1.1.4. Quyết toán ngân sách
Theo Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ,
quyết toán ngân sách phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Số liệu quyết toán ngân sách nhà nước
+ Số quyết toán ngân sách nhà nước là số thu đã được thực nộp hoặc
hạch toán thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước.
+ Số quyết toán chi ngân sách nhà nước là số chi đã thực hiện thanh
toán hoặc hạch toán chi theo quy định tại điều 62 của Luật ngân sách nhà
nước và các khoản 2 điều 66 Nghị định này.
- Ngân sách cấp dưới không được quyết toán các khoản kinh phí ủy
quyền của Ngân sách cấp trên vào báo cáo quyết toán ngân sách cấp mình.
Cuối năm cơ quan Tài chính được ủy quyền lập báo cáo quyết toán kinh phí
ủy quyền theo quy định gửi cơ quan Tài chính ủy quyền và cơ quan quản lý
ngành, lĩnh vực cấp ủy quyền.
- Kho bạc nhà nước các cấp có trách nhiệm tổng hợp số liệu quyết toán
gửi cơ quan Tài chính cùng cấp để cơ quan Tài chính lập báo cáo quyết toán.
Kho bạc nhà nước xác nhận số liệu thu, chi ngân sách trên báo cáo quyết toán
của cấp ngân sách các cấp, đơn vị sử dụng ngân sách.
* Quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Hết năm kế hoạch, chủ đầu tư lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư năm
theo biểu mẫu quy định trong chế độ kế toán áp dụng cho đơn vị chủ đầu tư.
Nội dung báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành: Nguồn vốn đầu tư
thực hiện dự án đến ngày khóa sổ lập báo cáo quyết toán; Chi phí đầu tư đề
19
nghị quyết toán, chi tiết theo cơ cấu xây lắp, thiết bị, chi phí khác, chi tiết theo
từng hạng mục, khoản mục chi phí đầu tư; Xác định chi phí đầu tư thiệt hại
không tính vào giá trị tài sản hình thành qua đầu tư.
* Quyết toán các khoản chi thường xuyên
- Yêu cầu: Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các
loại báo cáo đó đến các cơ quan có thẩm quyền; Số liệu trong báo cáo quyết
toán phải đảm bảo tính trung thực, chính xác; Báo cáo quyết toán năm của các
đơn vị dự toán các cấp và của ngân sách các cấp chính quyền trước khi trình
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn và phải có sự xác nhận của Kho
bạc nhà nước đồng cấp; Báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán không
được để xảy ra tình trạng quyết toán chi lớn hơn thu; Cơ quan kiểm toán nhà
nước thực hiện kế hoạch kiểm toán, xác định tính đúng đắn, hợp pháp của báo
cáo quyết toán ngân sách nhà nước các cấp, cơ quan đơn vị có liên quan theo
quy định của pháp luật.
- Hồ sơ: Đối với đơn vị xây dựng dự toán (hay còn gọi là đơn vị sử
dụng ngân sách) cuối mỗi kỳ báo cáo các đơn vị dự toán phải lập các loại báo
cáo quyết toán như sau: Bảng cân đối tài khoản; Tổng hợp tình hình kinh phí
và quyết toán kinh phí đã sử dụng; Chi tiết kinh phí hoạt động đề nghị quyết
toán; Bảng đối chiếu hạn mức kinh phí - Phụ biểu F02-3H; Báo cáo tình hình
tăng, giảm tài sản cố định - Mẫu B03-H; Báo cáo kết quả hoạt động sự nghiệp
có thu - Mẫu B04-H; Thuyết minh báo cáo tài chính - Mẫu B05-H.
* Xét duyệt, phê chuẩn quyết toán ngân sách
- Trình tự lập, gửi, xét duyệt và thẩm định quyết toán năm của các đơn
vị dự toán được quy định như sau:
+ Đơn vị dự toán cấp xã lập báo cáo quyết toán theo chế độ quy định và
gửi đơn vị dự toán cấp trên.
+ Đơn vị dự toán cấp trên xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả
xét duyệt cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc. Các đơn vị dự toán cấp trên là
20
đơn vị dự toán cấp I, phải tổng hợp và lập báo cáo quyết toán năm của đơn
vị mình và báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc,
gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
+ Cơ quan Tài chính cấp huyện thẩm định quyết toán năm của các đơn
vị dự toán cấp huyện, xử lý theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xử
lý sai phạm trong quyết toán của đơn vị dự toán cấp huyện, ra thông báo thẩm
định quyết toán gửi đơn vị dự toán cấp huyện. Trường hợp đơn vị dự toán cấp
I đồng thời là đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính duyệt quyết toán và
thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp I.
- Trình tự lập, gửi, thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm
của ngân sách cấp huyện được quy định như sau:
+ Mẫu, biểu báo cáo quyết toán năm của ngân sách nhà nước nói chung
và ngân sách huyện nói riêng thực hiện theo chế độ kế toán nhà nước và các
văn bản hướng dẫn của Bộ Tài Chính.
Ban Tài chính xã lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã trình Ủy ban
nhân dân xã xem xét gửi phòng Tài chính cấp huyện; Đồng thời Ủy ban nhân
dân xã trình Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn. Sau khi được Hội đồng nhân
dân xã phê chuẩn, Ủy ban nhân dân xã báo cáo bổ xung, quyết toán ngân sách
gửi phòng Tài chính cấp huyện.
+ Phòng Tài chính cấp huyện thẩm định quyết toán thu, chi ngân
sách xã; Lập quyết toán thu chi ngân sách huyện; Tổng hợp, lập báo cáo
quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện, thành phố, thị xã và
quyết toán thu, chi ngân sách huyện (bao gồm quyết toán thu, chi ngân sách
cấp huyện và quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã) trình Ủy ban nhân dân
đồng cấp xem xét gửi sở Tài chính; đồng thời Ủy ban nhân dân cấp huyện
trình Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Sau khi được Hội đồng
nhân dân cấp huyện phê chuẩn, Ủy ban nhân dân báo cáo bổ sung, quyết
toán ngân sách gửi sở Tài chính.
21
- Nội dung duyệt quyết toán năm đối với đơn vị dự toán: Xét duyệt
từng khoản thu, chi phát sinh tại đơn vị, các khoản thu phải đúng pháp luật,
pháp lệnh thuế, pháp lệnh phí, lệ phí và các chế độ thu khác của Nhà nước.
Các khoản chi phải đảm bảo các điều kiện quy định, thu, chi phải hạch toán
theo đúng chế độ kế toán, đúng mục lục ngân sách nhà nước, đúng niên độ
ngân sách; Chứng từ thu, chi phải hợp pháp. Sổ sách và báo cáo quyết toán
phải khớp với chứng từ và khớp với số liệu của Kho bạc nhà nước.
1.1.5. Quản lý thu ngân sách nhà nước
1.1.5.1. Thu ngân sách nhà nước
a. Khái niệm thu NSNN
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử
dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng
quyền lực Nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó hình thức quyên
góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức
không mang tính ổn định và lâu dài, thường được Nhà nước sử dụng có giới
hạn trong một số trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường
xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình ban hành các luật thuế để
bắt buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Ngân sách Nhà
nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài
chính cho Nhà nước. Vậy ta có thể nói rằng:
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một
phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước.
Từ khái niệm nói trên về thu NSNN, chúng ta có thể rút ra những đặc
trưng cơ bản sau đây:
- Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN chính là một phần thu
nhập của các tầng lớp dân cư được chuyển giao cho nhà nước.
Do vậy, thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình
22
phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong
xã hội. Việc xác định các khoản thu phải trên cơ sở giải quyết hài hoà giữa lợi
ích Nhà nước với lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Đối tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia là kết quả do lao
động sản xuất trong nước tạo ra được thể hiện dưới hình thức tiền tệ (GDP).
Như vậy, thu NSNN trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động kinh tế
trong xã hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm là
tiền đề và là yếu tố khách quan hình thành nên các khoản thu NSNN và quyết
định mức độ động viên các khoản thu của NSNN.
- Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối
dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực
tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước.
b. Phân loại thu NSNN
Việc phân loại các khoản thu NSNN có ý nghĩa thiết thực trong việc
phân tích, đánh giá và quản lý các nguồn thu NSNN.
Có 3 cách phân loại phổ biến là:
Căn cứ vào phạm vi phát sinh, các khoản thu NSNN được chia làm
hai nhóm là thu trong nước và thu ngoài nước. Cụ thể:
Các khoản thu trong nước bao gồm:
- Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là lĩnh vực tạo ra đại bộ
phận tổng sản phẩm xã hội và cũng là nơi tạo ra số thu chủ yếu cho NSNN.
- Thu từ hoạt động dịch vụ (là những hoạt động phục vụ cho sản xuất
kinh doanh và đời sống xã hội) bao gồm cả thu sự nghiệp và thu từ các dịch
vụ tài chính. Số thu từ lĩnh vực này có xu hướng ngày càng tăng.
- Thu từ các hoạt động khác như thu về bán và cho thuê tài sản quốc
gia, nguồn tài nguyên, vay nợ trong nước dưới các hình thức.v.v.
23
Các khoản thu ngoài nước bao gồm:
+ Thu từ các hoạt động xuất khẩu lao động và hợp tác chuyên gia với
nước ngoài;
+ Thu từ viện trợ của nước ngoài
+ Thu từ vay nợ nước ngoài, kể cả vay các tổ chức tài chính quốc tế.
* Ý nghĩa của cách phân loại này: các phân loại này phản ánh cơ cấu
của nền kinh tế, thông qua đó có thể đánh giá tính hiệu quả, tính hợp lý của
nền kinh tế.
Căn cứ vào tính chất phát sinh và nội dung kinh tế, các khoản thu
được chia làm hai loại:
+ Các khoản thu thường xuyên: là các khoản thu phát sinh tương đối
đều đặn, ổn định về mặt thời gian và số lượng gồm thuế, phí, lệ phí.
+ Các khoản thu không thường xuyên: là những khoản thu không ổn
định về mặt thời gian phát sinh cũng như số lượng tiền thu được, bao gồm các
khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu
tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước, thu từ viện trợ nước
ngoài, từ vay trong nước và ngoài nước và các khoản thu khác.
* Ý nghĩa của cách phân loại này: Việc phân loại các khoản thu NSNN
dựa trên sự kết hợp giữa hai tiêu chí: theo nội dung kinh tế và tính chất phát
sinh của nguồn thu là cần thiết, bởi qua cách phân loại này để thấy rõ sự phát
triển của nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh tế và mức độ ổn định vững
chắc của nguồn thu NS.
Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN: Có thể chia các
khoản thu NSNN thành:
+ Thu trong cân đối NSNN: Bao gồm các khoản thu: Thuế, phí, lệ phí
+ Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, bao gồm: thu nhập từ vốn
góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế, tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại
các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
24
+ Thu từ hoạt động sự nghiệp
+ Thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước
+ Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu nói trên thì thuế là nguồn thu chủ yếu, chiếm một
tỷ trọng lớn trong tổng thu của NSNN
Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: Khi số thu NSNN không đáp ứng được
nhu cầu chi tiêu và Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong nước từ các tầng
lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội, vay từ nước ngoài.v.v.
* Ý nghĩa của cách phân loại này: Cách phân loại này cho phép đánh
giá sự lành mạnh của NSNN và rất có ý nghĩa trong tổ chức điều hành NSNN.
1.1.5.2. Quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý nói chung được quan niệm như một quy trình công nghệ mà
chủ thể quản lý tiến hành thông qua việc sử dụng các công cụ và phương pháp
thích hợp nhằm tác động và điều khiển đối tượng quản lý hoạt động phát triển
phù hợp với quy luật khách quan và đạt tới các mục đích đã định.
Quản lý thu NSNN phải đảm bảo quản lý quy trình NSNN.
Cơ quan tài chính tham gia quy trình hiện đại hóa thu NSNN là Sở
Tài chính, Phòng Tài chính và cơ quan tài chính cấp xã. Các cơ quan này
có trách nhiệm:
- Phối hợp với cơ quan thu, KBNN trong việc thu và quản lý các khoản
thu NSNN; đôn đốc các đối tượng thuộc phạm vi quản lý nộp đầy đủ, kịp thời
các khoản thu NSNN vào KBNN;
- Phối hợp với KBNN đảm bảo hạch toán đầy đủ, chính xác, đúng mục
lục NSNN và tỷ lệ phân chia cho ngân sách các cấp; rà soát, đối chiếu các
khoản thu ngân sách do cơ quan tài chính trực tiếp quản lý;
- Thẩm định báo cáo quyết toán thu NSNN của ngân sách cấp dưới;
tổng hợp và lập báo cáo quyết toán thu NSNN thuộc phạm vi quản lý theo chế
độ quy định;
25
Đây là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều hành hoạt động thu các
khoản đóng góp vào ngân sách và kiểm tra, giám sát quá trình này.
Vai trò quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý thu NSNN đóng vai trò rất quan trọng, thể hiện:
Thứ nhất, quản lý thu NSNN là công cụ quản lý của Nhà nước để kiểm
soát, điều tiết các hoạt động SXKD của mọi thành phần kinh tế, kiểm soát thu
nhập của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm động viên sự đóng góp đảm
bảo công bằng, hợp lý. Các nhà nước trong lịch sử đều sử dụng công cụ thuế để
ổn định và phát triển nền kinh tế,chống lại các hành vi kinh doanh phạm pháp.
Thứ hai, quản lý thu NSNN là công cụ động viên, huy động các nguồn
lực tài chính cần thiết nhằm tạo lập quỹ tiền tệ tập trung của NSNN. Huy
động các nguồn tài chính cần thiết vào nhà nước là nhiệm vụ chủ yếu của hệ
thống thu dưới bất kỳ chế độ nào, đó là đòi hỏi tất yếu của mọi nhà nước. Nhà
nước muốn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ lịch sử của mình tất yếu phải
có nguồn tài chính. Nguồn tài chính mà Nhà nước có được đại bộ phận do
quản lý tốt nguồn thu ngân sách mang lại.
Thứ ba,quản lý thu NSNN là nhằm khai thác, phát hiện, tính toán chính
xác các nguồn tài chính của đất nước để có thể động viên được và cũng đồng
thời không ngừng hoàn thiện các chính sách, các chế độ thu để có cơ chế tổ
chức quản lý hợp lý.Đây là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong quá
trình tổ chức QLKT.
Thứ tư, quản lý thu ngân sách góp phần tạo môi trường bình đẳng, công
bằng giữa các thành phần kinh tế,giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước
trong quá trình SXKD. Với hình thức thu và mức thu thích hợp kèm với các
chế độ miễn giảm công bằng, thu NSNN có tác động trực tiếp đến quá trình
SXKD của cơ sở. Với sự tác động quản lý thu ngân sách sẽ góp phần tạo nên
môi trường kinh tế thuận lợi đối với quá trình SXKD. Đồng thời nó là công cụ
quan trọng góp phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối
với toàn bộ hoạt động SXKD của xã hội.