Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Tác động của quân đội làm kinh tế đến thu nhập của đồng bào khu vực biên giới ở hai tỉnh cao bằng và lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.02 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh nghiệm hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt
Nam là luôn ý thức sự gắn kết giữa xây dựng kinh tế, phát triển đất nước với
củng cố quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc. Quân đội tham gia làm kinh tế
không phải bây giờ mới có mà từ xa xưa các triều đại phong kiến Việt Nam đã
chủ trương đưa quân đội đi khai khẩn đất hoang, xây dựng đồn điền ở những
vị trí xung yếu để xây dựng tiềm lực, chuẩn bị và sẵn sàng cho chiến tranh.
Điều đó cho thấy kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề rất quan trọng
trong tất cả các giai đoạn lịch sử.
Ngày nay yêu cầu đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam là phát triển
nhanh, bền vững đi đôi với tăng cường, củng cố sức mạnh quốc phòng và an
ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng, nội lực vừa tận dụng nguồn lực từ
bên ngoài. Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một yêu cầu tất yếu, khách
quan, là chiến lược trong xu thế hiện nay. Từ đó, kết hợp kinh tế với quốc
phòng đặt ra những yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ mới. Xuất phát từ thực tiễn
lịch sử của cách mạng Việt Nam, nội dung đó được kế thừa và phát triển trong
Nghị quyết tất cả các kỳ Đại hội đại biểu Đảng ta, khẳng định: “Tham gia lao
động sản xuất, xây dựng kinh tế là một nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến
lược của Quân đội ta”. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức
mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh
nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tiếp
tục phát triển đoàn đoàn kinh tế - quốc phòng (KT- QP), xây dựng các đoàn
kinh tế quốc phòng với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu,
tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm
trên biên giới đất liền, biển đảo”.


Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI xác định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng rõ nét: “Sự


ổn định và phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc
của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức
mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an
ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn” (Tr 82).
Thực hiện các Nghị Quyết trên, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
277/QĐ - TTg ngày 31/3/2000 phê duyệt “Đề án tổng thể quân đội tham gia
xây dựng phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng sâu, vùng
xa gắn với xây dựng các đoàn quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược,
biên giới, ven biển“ Trên cơ sở bố trí lại dân cư, hình thành các cụm làng, xã
biên giới, tạo vành đai biên giới trong thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc; ngăn chặn sự xâm nhập của bọn phản động qua
biên giới truyền đạo trái phép; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng
chính trị cơ sở trên địa bàn; góp phần giúp dân xoá đói giảm nghèo, cải thiện
đời sống bộ đội.
Đứng trên địa bàn biên giới chiến lược phía Đông Bắc, các đoàn kinh tế
quốc phòng của Quân khu 1 đã và đang được đầu tư xây dựng để góp phần
giữ gìn năng lực quốc phòng, thực hiện chức năng của một đội quân chiến
đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất; đóng góp của quân đội đối với
chương trình phát triển nông thôn mới nói riêng và công cuộc xây dựng đất
nước nói chung. Là một vấn đề khá phức tạp và mới mẻ, đến nay chưa có
công trình nghiên cứu đánh giá, xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò
nòng cốt, tác động của đoàn KT - QP QK1 thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn biên giới. Từ nghiên cứu đó làm cơ
sở hoạch định đầu tư và xây dựng mới các đoàn KT - QP có điều kiện tương


tự. Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Tác động của quân đội
làm kinh tế đến thu nhập của đồng bào khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng
và Lạng Sơn” là hết sức cần thiết, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá tác động của Quân đội làm kinh tế đến thu nhập của đồng bào
khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Đề xuất giải pháp nâng
cao thu nhập của đồng bào dân tộc ít người khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao
Bằng và Lạng Sơn.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của Quân
đội làm kinh tế.
- Đánh giá tác động của Quân đội làm kinh tế đến thu nhập của đồng
bào khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
- Đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao thu nhập của đồng bào khu
vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
a, Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tác động của Quân đội làm kinh tế đến thu nhập của đồng
bào khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
b, Đối tượng thu thập tài liệu
- Đoàn KT- QP 338 (Lạng Sơn) và Đoàn KT- QP 799 (Cao Bằng)
- Phòng Thống kê Huyện Bảo Lâm; Huyện Bảo Lạc (Tỉnh Cao Bằng)
- Phòng Thống kê Huyện Cao Lộc; Huyện Đình Lập (Tỉnh Lạng Sơn)
- Hộ đồng bào người khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
- Cán bộ một số xã biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.


3.2. Phạm vi nghiên cứu
a, Về không gian
Phạm vi các Đoàn Kinh tế Quốc phòng do Quân khu 1 quản lý.
b, Về thời gian

Mốc thời gian tính từ khi các Đoàn Kinh tế Quốc phòng được thành lập, từ
năm 2002 đến năm 2012; cụ thể trước và sau khi có đoàn kinh tế quốc phòng.
4. Bố cục của đề tài
Bao gồm phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục; chia thành
4 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của Quân đội làm
kinh tế đến thu nhập của đồng bào khu vực biên giới.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Tác động của quân đôi làm kinh tế đến thu nhập của đồng
bào khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
- Chương 4: Định hướng và giải pháp nâng cao thu nhập của đồng bào
khu vực biên giới ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
QUÂN ĐỘI LÀM KINH TẾ ĐẾN THU NHẬP
CỦA ĐỒNG BÀO KHU VỰC BIÊN GIỚI
1.1. Cơ sở lý luận về tác động của quân đội làm kinh tế đến thu nhập của
đồng khu vực biên giới
1.1.1. Một số khái niệm
Hoạt động kinh tế của Quân đội là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Quân đội ta là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân
lao động sản xuất”. Hiện nay, Quân đội đang tham gia xây dựng kinh tế dưới
3 phương thức, đó là: Doanh nghiệp; Hoạt động sản xuất của bộ đội thường
trực (bộ đội tăng gia sản xuất lương thực thực phẩm cải thiện đời sống, các
viện nghiên cứu, các học viện nghiên cứu phục vụ kinh tế xã hội); Các Đoàn
Kinh tế quốc phòng vận động quần chúng, giúp dân xoá đói, giảm nghèo ở
các xã địa bàn đặc biệt khó khăn. Sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với

quốc phòng là một trong những chức năng, nhiệm vụ chiến lược, lâu dài
của Quân đội ta. Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới, ngày 25-9-2012, Quân ủy Trung ương đã ban hành Nghị
quyết số 520-NQ/QUTW về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh
tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”. Toàn quân cần quán
triệt sâu sắc Nghị quyết này, tiếp tục phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ trên
mặt trận lao động sản xuất.
Trong thời kỳ đổi mới, nhất là từ khi có Nghị quyết số 71NQ/ĐUQSTW, ngày 25-4-2002 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là
Quân ủy Trung ương) về “Nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội
trong thời kỳ mới - tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp quân đội”, nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với
quốc phòng của Quân đội được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức ngày càng


khoa học, hoạt động đúng định hướng, đạt hiệu quả thiết thực, toàn diện. Nổi
bật là, Quân đội đã phát huy tốt vai trò là lực lượng xung kích, nòng cốt trong
tham gia xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng
tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn chiến lược, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Trong đó, trọng tâm là việc triển khai xây
dựng các đoàn kinh tế - quốc phòng, hình thành thế bố trí chiến lược mới trên
các địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng an ninh. Các Đoàn đã và
đang phát huy hiệu quả to lớn cả về kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh,
được Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các địa phương và nhân dân đánh
giá cao, thực sự trở thành nhân tố không thể thiếu trong công cuộc xóa đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường quốc phòng an ninh
của đất nước.
Như vậy theo tôi quân đội làm kinh tế là các hoạt động của quân đội
trên địa bàn đóng quân trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sản phẩm, nâng cao
năng suất lao động góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội.
Đồng bào dân tộc ít người là cộng đồng người ổn định, hình thành

trong lịch sử, tạo lập quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về kinh tế, văn
hóa, ngôn ngữ, đặc điểm tâm lý, ý thức xã hội và tên gọi của các đồng bào
dân tộc. Khu vực biên giới hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn bao gồm các dân
tộc Kinh, Tày, Nùng, Dao, H’Mông, Sán Chỉ, Lô Lô, Hoa cùng chung sống,
hình thành các điểm dân cư giáp biên, các bản giáp biên. Thu nhập bình quân
của đồng bào dân tộc ít người khu vực biên giới thấp; mạng lưới giao thông
chậm phát triển, đời sống của đồng bào dân tộc gặp nhiều khó khăn, hoạt
động giao lưu và trao đổi hàng hóa trong khu vực biên giới gặp nhiều khó
khăn bởi địa hình phân cắt giữa các bản, các xóm làng, các xã ít có hoạt động
thông thương và có quan hệ trao đổi, buôn bán hàng hóa, các hộ gia đình chủ
yếu sản xuất manh mún, tự cung tự cấp phục vụ nhu cầu sinh hoạt là thiết yếu.


Quân đội làm kinh tế trên địa bàn quân khu 1 ở khu vực biên giới hai
tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn chủ yếu thông qua các đoàn kinh tế đón quân tại
đây, triển khai nhiệm vụ chiến lược trong công cuộc bảo vệ độc lập chủ quyền
trọn vẹn lãnh thổ, xây dựng thế trận lòng dân, tô thắm niềm tin của nhân dân
khu vực biên giới vào cuộc cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời
đại mới, củng cố niềm tin vào Đảng, vào hình ảnh các chiến sỹ bộ đội “Cụ
Hồ”. Tác động quân đội làm kinh tế thông qua các hoạt động xây dựng đường
giao nông nội trong vùng, các bản biển giới, xây dựng công trình thủy lợi cải
tạo đồng ruộng; mở các lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật khuyến nông,
khuyến lâm; ghóp phần tích cực nhằm nâng cao thu nhập của đồng bào dân
tộc vùng biên giới.
1.1.2. Quan điểm cơ bản về quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế ở
nước ta
Đường lối và chính sách phát triển kinh tế phải quán triệt đường lối
chính trị, quan điểm về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân của Đảng, thực hiện
nhiệm vụ giữ vững trật tự, ổn định, hòa bình về chính trị, kinh tế xã hội, tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố quốc phòng - an ninh, nâng cao khả

năng tự bảo vệ của địa phương và nhanh chóng góp thành sức mạnh tổng hợp
của dân tộc tiến hành chiến tranh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang, lực
lượng quốc phòng đủ sức bảo vệ chế độ, độc lập dân tộc, giữ gìn hòa bình, an
ninh tốt nhất để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở nền tảng
kinh tế phát triển của quốc gia và ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
công nghệ vào xây dựng, củng cố lực lượng quốc phòng, sức mạnh quân sự,
mặt khác sử dụng hợp lý và hiệu quả các lực lượng vũ trang làm kinh tế. Từ
đó, tạo ra một cơ cấu hợp lý, cân đối trong tổng thể quy hoạch, kế hoạch của
quốc gia. Bởi vậy, kinh tế phải gắn liền với xã hội, quốc phòng gắn kết với an
ninh, kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng - an ninh trong một tổng thể
thống nhất bằng các mối quan hệ biện chứng đã nêu trên.


Trên cơ sở các yêu cầu cơ bản trên, chúng ta cần có quan điểm rõ ràng,
thấu đáo về kinh tế kết hợp với quốc phòng - an ninh trong giai đoạn hiện nay.
Đó là, mối tương tác giữa tăng trưởng, lợi ích kinh tế đối với xã hội,
với việc bảo đảm tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh trong từng thời
kỳ - là quan điểm có tính chiến lược. Tăng trưởng kinh tế theo hướng gìn giữ,
củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết lợi ích kinh
tế làm động lực, phát triển kinh tế làm nền tảng, điều kiện thiết yếu là bảo
đảm quốc phòng - an ninh.
Kinh tế kết hợp với quốc phòng - an ninh vận dụng linh hoạt và rất cụ
thể trong từng địa phương, ngành, lĩnh vực để cải thiện đời sống nhân dân, có
tích lũy, mở rộng quan hệ với bên ngoài, bảo đảm tốt quốc phòng - an ninh
theo hướng phát triển bền vững với vai trò Nhà nước quản lý, điều hành cao
nhất, đủ quyền lực và năng lực thực hiện bằng các công cụ điều hành vĩ mô:
pháp luật, kế hoạch, tài chính, tiền tệ, văn hóa, quỹ dự trữ...hướng mọi công
dân vào mục tiêu đã định là phát triển kinh tế, củng cố tăng cường tiềm lực
cho quốc phòng.
Vấn đề nhu cầu chi tiêu cho quốc phòng rất lớn, bởi vậy cách kết hợp

kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh để mỗi bước phát triển kinh tế đều
mang lại hai tác dụng dân sinh và quốc phòng; mỗi ngành, lĩnh vực kinh tế
thực sự trở thành một ngành, một lĩnh vực của quốc gia phục vụ mọi nhu cầu
của xã hội. Hiện nay nhu cầu về đời sống, vật chất kỹ thuật cho lực lượng vũ
trang còn nhiều khó khăn khi mà khả năng bảo đảm của nền kinh tế còn hạn
hẹp, yêu cầu chúng ta cần phải đổi mới, phấn đấu sử dụng khoa học, hợp lý,
tiết kiệm nhất về nhân lực, vật lực, các hoạt động quốc phòng - an ninh có chi
phí ít nhất so với yêu cầu cao về chất lượng để khai thác lợi thế của nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước thông qua quan hệ hàng hóa tiền tệ.


Kinh tế kết hợp với quốc phòng an ninh là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, cả hệ thống chính trị. Lực lượng quân đội là lực lượng nòng cốt vừa
bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự ổn định chính trị - xã hội, đập tan và
làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, vừa thực hiện
nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ quan
trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài của quân đội.
Chính từ sự kết hợp, yêu cầu quốc phòng - an ninh trong từng lĩnh vực,
từng ngành, từng cơ sở phải rất linh hoạt và cụ thể, phải từ yêu cầu cụ thể về
quốc phòng, an ninh đặt cho từng lĩnh vực hoạt động ở từng nơi để chọn cách
thực hiện kết hợp tốt nhất nhu cầu cải thiện đời sống nhân dân; tích lũy để
phát triển, mở rộng quan hệ và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Yêu cầu của
quốc phòng, an ninh trở thành phương hướng phát triển có tính tất yếu của
từng hoạt động kinh tế - xã hội. Xét về cơ bản mang tính chất lâu dài, phát
triển kinh tế - xã hội là cơ sở nền tảng bảo đảm quốc phòng - an ninh, phải đặt
phát triển kinh tế vì lợi ích cải thiện đời sống nhân dân, phát huy thuận lợi đối
với quốc phòng - an ninh trong vị trí ưu tiên, quốc phòng - an ninh dựa vào
điều kiện và khả năng kinh tế - xã hội. Qua đó, mối quan hệ kinh tế - xã hội
với quốc phòng - an ninh trở thành tất yếu có tính quy luật, là truyền thống

trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Cũng cần nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện hơn về kinh tế - xã
hội kết hợp với quốc phòng - an ninh là một phạm trù có tính lịch sử, là một
quá trình, luôn được bổ sung, đổi mới và phát triển cho phù hợp với mỗi giai
đoạn lịch sử cụ thể thông qua hoạt động thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh có vị
trí quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển, là một bộ phận hữu cơ, đồng thời trực tiếp tham gia thực hiện các mục
tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vận dụng quy luật kết hợp kinh tế - xã
hội với quốc phòng - an ninh có hiệu quả cao nhằm tăng cường tiềm lực quốc


phòng và sức mạnh quân sự. Bản thân quy luật kết hợp là hết sức khách quan,
nó phản ánh tính năng động chủ quan của con người, của xã hội do nắm bắt
được mối quan hệ biện chứng khách quan giữa kinh tế với xã hội, kinh tế với
quốc phòng, kinh tế với an ninh, kinh tế với chiến tranh, quốc phòng với an
ninh, xây dựng với bảo vệ, về độc lập tự chủ, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân
tộc, về hợp tác quốc tế...
Vậy quy luật kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh có cơ
chế vận động nào khi chúng ta ứng dụng, việc tìm ra cơ chế vận động thông
qua thử nghiệm thành công sẽ trở thành phổ biến gọi đó là cơ chế vận dụng
quy luật. Nó được thể hiện việc tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng,
phải coi kết hợp là giải pháp chiến lược quan trọng, là khâu đột phá khi vận
dụng quy luật kết hợp, coi tự bảo vệ và được bảo vệ trong thế trận chung của
toàn quốc, là nhiệm vụ trọng yếu của cả hệ thống chính trị. Trong đó lực
lượng quân sự, quốc phòng có vai trò nòng cốt, kết hợp toàn diện nhưng phải
tập trung vào một số trọng điểm về xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển,
thực hiện di dân và bố trí lại dân cư, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng... Nhiệm vụ quân sự - quốc phòng - an

ninh gắn kết với xây dựng kinh tế - xã hội địa phương phải thực sự chủ động
phối hợp, nêu cao vai trò của chủ thể kết hợp là quốc phòng - an ninh về mục
tiêu, yêu cầu, nội dung, phương thức, phương pháp kết hợp cụ thể phù hợp
với quy hoạch, kế hoạch chung về củng cố tăng cường sức mạnh quốc phòng
- an ninh, xây dựng phát triển kinh tế của địa phương và mang tính đặc thù
từng địa bàn.
Các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng các Đoàn KT - QP
thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, IX, X, XI; được cụ thể hóa Quyết định số 227/QĐ-TTg


ngày 31/3/2000 phê duyệt Dự án tổng thể Quân đội tham gia xây dựng PT KT
- XH ; Nghị quyết số 150/ĐUQSTW của Đảng uỷ Quân sự Trung ương; Nghị
quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về
nhiệm vụ sản xuất xây dựng và làm kinh tế của quân đội trong thời kỳ đổi
mới; Chỉ thị số 24/2004 CT - BQP về việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
quản lý, xây dựng các Đoàn KT - QP trong tình hình mới.
1.1.3. Vai trò của mối quan hệ quốc phòng với phát triển kinh tế
Quân đội nhiệm vụ chính là bảo về Tổ Quốc nhưng muốn bảo vệ Tổ
Quốc tốt thì phải quốc gia phải có tiềm lực kinh tế vững mạnh; đồng thời nền
kinh tế muốn phát triển tốt thì quốc gia phải có nền quốc phòng vững mạnh.
Sức mạnh kinh tế với sức mạnh quân sự kết hợp với nhau được hiểu,
nhận thức, vận dụng khác nhau tuỳ thuộc mục tiêu, mục đích của chế độ xã
hội từng quốc gia. Như vậy, kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh là hoạt
động chủ động của một quốc gia trên cơ sở nhận thức và vận dụng quy luật
của hai lĩnh vực kinh tế và quân sự, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng
trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động
tiêu cực của chiến tranh, quốc phòng đối với sự phát triển kinh tế.
Thực chất mối quan hệ kết hợp kinh tế với quốc phòng là mối quan hệ

chặt chẽ, hữu cơ hai nhiệm vụ xây dựng kinh tế, củng cố quốc phòng đều phát
triển cân đối, nhịp nhàng, hợp lý, trong một thể thống nhất, cái này là điều
kiện, là tiền đề cho sự tồn tại của cái kia, phục vụ lẫn nhau. Khi nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ, toàn diện là điều kiện xây dựng nền quốc phòng mạnh và
ngược lại một nền quốc phòng mạnh tạo môi trường, điều kiện phát triển, bảo
vệ tốt thành quả của nền kinh tế. Trong xây dựng kinh tế cần tìm ra hướng đi,
biện pháp, hình thức tổ chức hợp lý, hợp quy luật để thúc đẩy củng cố quốc
phòng, đồng thời xây dựng quốc phòng lựa chọn phương hướng, biện pháp
phù hợp với khả năng kinh tế, tác dụng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng; từ đó tạo


ra sức mạnh tổng hợp của quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu vốn có của xã hội,
nhu cầu chuẩn bị cho chiến tranh vệ quốc của mọi quốc gia có chủ quyền.
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh gồm nhiều nội dung,
đa dạng có thể kết hợp.
1.1.4. Nội dung nghiên cứu tác động của quân đội làm kinh tế đến thu
nhập của đồng bào khu vực biên giới
1.1.4.1. Tác động của quân dội làm kinh tế đến phát triển kinh tế xã hội
Sự kết hợp trong xây dựng cơ cấu kinh tế
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh gồm nhiều nội dung
có thể kết hợp; nội dung chủ yếu, cơ bản là kết hợp xây dựng cơ cấu thành
phần kinh tế, cơ cấu đầu tư và cơ cấu ngành.
Trong cơ cấu thành phần kinh tế, sự kết hợp nhằm làm cho cơ cấu kinh
tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN, trong đó
kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Khuyến khích các thành phần kinh tế,
chủ sở hữu phát triển tạo môi trường tự do lựa chọn hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, hoạt động theo luật định. Phát huy được
tính tích cực, chủ động, tự chủ, hạn chế mặt tiêu cực của mỗi thành phần kinh
tế, thông qua đó phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn những thủ đoạn, cản trở làm
ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội. Hiệu quả và tác động của quá trình

chuyển dịch là hình thành các thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố; đồng thời nảy
sinh các tiêu cực, tệ nạn xã hội, sự phân hóa giàu nghèo, sự tích tụ ruộng đất
bất hợp lý cần phải ngăn chặn và phòng chống kịp thời. Chính vì nhiều thành
phần kinh tế dẫn tới đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh cũng đều động
viên, khuyến khích tham gia xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh.
Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực kinh tế đều ảnh hưởng tới quốc
phòng - an ninh trực tiếp hoặc sự kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an
ninh được gắn kết ngay trong việc xác định cơ cấu đầu tư hợp lý đối với
ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế có lợi thế so sánh, tập trung vào các vùng trọng


điểm về kinh tế - xã hội và nhạy cảm về quốc phòng - an ninh trên cơ sở mối
quan hệ hữu cơ vừa bảo đảm cho kinh tế - xã hội phát triển, vừa phục vụ cho
nhu cầu quốc phòng - an ninh. Từ đó, bảo đảm lợi ích phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời tiết kiệm được ngân sách đối với một số nội dung bảo đảm cho
quốc phòng - an ninh, nội dung kết hợp tùy theo tính chất, yêu cầu, khả năng
cụ thể để đạt mục tiêu kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh.
Trong đó có nhiều lĩnh vực cần thiết và có thể kết hợp. Kết hợp kinh tế
- xã hội với quốc phòng - an ninh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ là xây dựng
phát triển nền tài chính quốc gia trên cơ sở kiện toàn hệ thống tổ chức và đổi
mới chính sách, đồng thời duy trì một cơ chế quản lý chặt chẽ bảo đảm an
ninh tài chính, tiền tệ của quốc gia đứng vững trước mọi tình huống biến động
phức tạp. Nội dung này thể hiện trước hết là sự gắn kết giữa bố trí cơ cấu đầu
tư với duy trì các biện pháp điều tiết, giám sát tài chính thông qua các chế độ
kế toán, kiểm toán, thuế,... Đồng thời phải đề cao cảnh giác, thận trọng trong
thực thi các chính sách, kịp thời ngăn chặn các âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch phá hoại tài chính, tiền tệ. Sử dụng các biện pháp tổng hợp, các
hoạt động kết hợp liên ngành chống buôn lậu, tham nhũng... Thực hiện
nghiêm chế độ thẩm định và phê duyệt chặt chẽ các dự án đầu tư, nhất là có
vốn đầu tư nước ngoài.

Sự kết hợp trong xây dựng vùng kinh tế
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cùng với
đặc điểm, tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ, điều kiện, khả năng từng địa bàn hình
thành các vùng kinh tế, từ đó xác định vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế
biển và ven biển, vùng kinh tế cửa khẩu, vùng kinh tế đặc biệt. Mỗi vùng kinh
tế có những nội dung kết hợp khác nhau. Ở đây, đi sâu phân tích vùng kinh tế
đặc biệt, đó là những địa bàn chiến lược trọng yếu của quốc gia, là căn cứ hậu
phương chiến lược, an toàn đoàn trong chiến tranh, các vùng biên giới đất
liền, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.


Các vùng này đòi hỏi xây dựng phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, thật sự
vững chắc về quốc phòng - an ninh, đặc biệt là tiến hành điều chỉnh dân cư,
tập trung xây dựng các đoàn kinh tế quốc phòng gắn với các tổ chức hành
chính, khu vực phòng thủ địa phương tạo thế đứng chân tại chỗ vững chắc,
lập thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, chú ý kết hợp
hoạt động của các đơn vị, tổ chức kinh tế với các biện pháp xây dựng cơ sở
chính trị địa bàn, bảo vệ an ninh kinh tế, chống buôn lậu và vượt biên trái
phép; phòng chống các hoạt động truyền đạo trái pháp luật, âm mưu tạo biên
giới mềm của các thế lực thù địch; phát huy khả năng tự bảo vệ, ngoài ra có
thể chi viện nguồn lực cho các vùng khác.
1.1.4.2. Tác động của quân dội làm kinh tế đến nguồn lực sản xuất chủ yếu
của hộ nông dân
Tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp trước hết phụ thuộc vào
số lượng và chất lượng các yếu tố nguồn lực được huy động vào sản xuất
nông nghiệp. Khi xem xét tác động của quân đội đến từng yếu tố nguồn lực,
xu hướng vận động về số lượng và chất lượng của từng yếu tố nguồn lực theo
các chiều hướng khác nhau. Nhưng khi sử dụng cần kết hợp các yếu tố nguồn
lực một cách hài hoà, hợp lý. Điều đó có nghĩa là tuỳ thuộc vào tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà quyết định

những tỷ lệ về số lượng và chất lượng của mỗi yếu tố nguồn lực được huy
động vào sản xuất.
1.1.4.3. Tác động của quân dội làm kinh tế đến xây dựng cơ sở hạ tầng phục
vụ phát triển triển kinh tế
Xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế khu vực biên giới hai tỉnh
Cao Bằng và Lạng sơn có vai trò thiết yếu, quyết định đẩy mạnh phát triển
kinh tế xã hội thông qua các hoạt động:
- Xây dựng đường giao thông nông thôn liên xã, liên thôn bản.
- Xây dựng công trình thủy lợi cải tạo đồng ruộng.


- Xây dựng bản biên giới, cụ thể là tổ chức di dãn dân và ổn định tổ
chức hoạt động sản xuất định canh định cư tại các điểm giáp ranh biên giới.
Xây dựng cơ sở hạ tầng tạo sức bật đồng bộ để đẩy mạnh hoạt động sản
xuất và giao thương giữa các thôn, bản trong vùng thuận lợi; thúc đẩy phát
triển kinh tế.
1.1.4.4. Quân đội tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học công nghệ về khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư; cung cấp dịch vụ đầu vào hỗ trợ sản xuất
Hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp trên địa bàn biên giới góp phần tạo nên sự
tăng trưởng mạnh mẽ về năng suất, chất lượng sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp,
góp phần đảm bảo an ninh lương thực, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xoá
đói giảm nghèo và sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

1.1.5. Nhân tố tác động tới kinh tế kết hợp với quốc phòng
1.1.5.1. Nhân tố tác động trước hết là sự phát triển kinh tế
Trình độ kinh tế phát triển có ảnh hưởng quyết định tới quy mô, thời
gian và cường độ của chiến tranh. Trình độ phát triển kinh tế càng cao, lực
lượng vũ trang được trang bị, cung cấp nhiều vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật với
chất lượng cao hơn, chất lượng quân số nâng cao, sử dụng vũ khí khí tài ngày
càng thành thạo. Khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa

học công nghệ ngày càng cao có tác động lớn đến sản xuất xã hội, tốc độ phát
triển sản xuất tăng làm cho sản phẩm xã hội dồi dào, công lao động trong mỗi
sản phẩm xã hội giảm, nguồn nhân lực chất lượng cao được tăng lên là điều
kiện thuận lợi huy động sức người, của cải, vật chất cho quốc phòng.
Vấn đề bảo đảm kinh tế cho lực lượng vũ trang nói chung, quốc phòng
nói riêng tiến hành hiện đại hoá đã đặt ra nhu cầu rất lớn nhiều mặt về huấn
luyện, vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện, nhiên liệu, đạn dược càng tăng
lên về số lượng, chủng loại và chất lượng cao hiện đại, tiên tiến, các mặt hàng
quân sự phát triển hàng triệu loại. Vũ khí hiện đại càng phức tạp, rất nhanh bị
lạc hậu vô hình cần được trang bị lại… Tất cả, đòi hỏi những khoản đầu tư rất
lớn về tiền bạc của ngân sách dành cho quốc phòng. Từ sự đáp các nhu cầu


tiêu dùng quốc phòng như trên làm cho cơ cấu tổ chức biến đổi, quy mô sản
xuất tăng lên, xu hướng tiêu dùng càng lớn hơn, nó cũng làm cản trở phát
triển sản xuất xã hội nếu sự kết hợp kinh tế với quốc phòng không hợp lý,
nguồn lực của đất nước huy động quá mức. Tuy nhiên, tính chất của quan hệ
sản xuất có ý nghĩa quan trọng rất lớn, bởi phương thức kết hợp. Hay nói khác
là khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, cách mạng khoa học
công nghệ càng có tác động rất lớn đến sản xuất xã hội, làm cho tốc độ phát
triển sản xuất tăng nhanh chóng làm tiền đề nâng cao chất lượng nhân lực và
của cải cung cấp cho quân đội. Đồng thời nhu cầu hiện đại hóa các lực lượng
vũ trang trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ đặt ra vấn đề bức xúc
việc bảo đảm của nền kinh tế cho quốc phòng.
1.1.5.2. Nhân tố tác động từ bối cảnh quốc tế
Ngày nay bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc, phức tạp có cả
những thuận lợi, khó khăn. Xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế là hòa bình,
ổn định, hợp tác để phát triển của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Các quốc
gia dành sự ưu tiên cho chiến lược phát triển kinh tế, tham gia càng nhiều,
chặt chẽ hơn liên kết kinh tế quốc tế, liên kết kinh tế khu vực và đồng thời

liên kết các lĩnh vực khác. Như vậy, tạo cho chúng ta môi trường tương đối ổn
định đối với việc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, những thách thức không hề
nhỏ, đó là: Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đã làm cho cục
diện thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, âm mưu phá hoại đến cùng đối với
chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc liên tục, không dừng bước bằng
nhiều thủ đoạn, hình thức khác nhau. Các cuộc chạy đua vũ trang không hề
chấm dứt, có xu thế tăng lên, nó chứa đựng nguy cơ bùng nổ các cuộc chiến
tranh cục bộ và xung đột vũ trang. Đối với Việt Nam hiện nay không tham gia
vào bất kỳ khối quân sự nào trên thế giới, không hề có sự đỡ đầu quân sự, nền
quốc phòng của ta được xây dựng, củng cố hoàn toàn trên cơ sở tự lực, tự
cường. Khi kinh tế còn kém phát triển, thu nhập quốc dân thấp so với thế giới thì


vấn đề đầu tư cho nhu cầu quốc phòng có nhiều hạn chế. Chúng ta hội nhập ngày
càng sâu, nhiều lĩnh vực khác nhau trong khu vực và quốc tế sẽ xuất hiện càng
nhiều vấn đề phức tạp về quản lý, bảo vệ: lao động, chủ quyền và quyền lợi quốc
gia cũng như giá trị nền văn hóa dân tộc, tài nguyên, môi trường…
1.1.5.3. Nhân tố tác động từ chế độ xã hội
Chế độ xã hội quy định mục tiêu, phương thức, phương thức kết hợp
kinh tế với quốc phòng đồng thời nó quy định mục tiêu, tính chất, bản chất
chiến tranh, ảnh hưởng trực tiếp tới xây dựng tiềm lực quân sự và nghệ thuật
chiến tranh. Tất cả các cuộc chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh giải phóng,
chiến tranh bảo vệ tổ quốc đều huy động được sức mạnh nội lực của toàn dân
tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, chính chế độ xã hội tạo ra
tiềm lực tinh thần to lớn trong nhân dân. Bảo vệ tổ quốc đồng nghĩa với bảo
vệ chế độ, bảo vệ quyền lợi của toàn dân trong hiện tại và tương lai, đã tạo
nên một yếu tố sức mạnh quốc phòng hết sức quan trọng. Đối với Việt Nam
trải qua các cuộc chiến tranh giải phóng và vệ quốc đã huy động được sức
mạnh toàn dân, tạo ra sự đoàn kết toàn dân, phát huy được chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, mỗi người dân trở thành chiến sỹ quyết tâm bảo vệ tổ quốc

thân yêu của chính họ, thể hiện rõ bản chất tươi đẹp của chế độ xã hội - xã hội
chủ nghĩa.
1.1.5.4. Nhân tố tác động từ các học thuyết quân sự
Chế độ xã hội có ảnh hưởng sâu sắc tới việc kết hợp kinh tế quốc phòng;
sự đồng nhất chế độ xã hội không hẳn đã đồng nhất về phương thức, nội dung
kết hợp. Sự kết hợp chịu sự tác động rất lớn của truyền thống, kinh nghiệm,
đường lối chính trị được thể hiện bằng học thuyết quân sự của quốc gia ấy trên
góc độ lịch sử, địa chính trị trong quan hệ quốc tế. Việt Nam là quốc gia từ khi
khai thiên lập quốc đều phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm hùng mạnh
hơn rất nhiều lần về vũ khí, trang bị và số quân.. Kết hợp yếu tố trên với yếu tố
thiên nhiên, văn hóa, con người…đã hình thành học thuyết quân sự riêng có


của Việt Nam, là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa kinh tế với quốc phòng, coi
trọng phát triển kinh tế là cơ sở cho sự ổn định chính trị, sự thống nhất của mọi
tầng lớp, giai cấp, dân tộc sẵn sàng đối phó với các âm mưu xâm lược của kẻ
thù. Từ đó, yêu cầu về kết hợp kinh tế quốc phòng giai đoạn hiện nay hết sức
cụ thể: coi trọng giáo dục quốc phòng toàn dân, sự nghiệp quốc phòng là sự
nghiệp của toàn dân, khuyến khích mọi người tham gia xây dựng; tăng cường
khối đoàn kết cộng đồng các dân tộc, ngăn ngừa âm mưu chia rẽ kích động của
kẻ địch; chăm lo phát triển mọi mặt vùng khó khăn, có chính sách đối với dân
tộc thiểu số, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp; tập trung nâng cao chất
lượng quân nhân; tiết kiệm chi phí quân sự, tập trung phát triển kinh tế; có cơ
cấu kinh tế hợp lý vùng miền; tận dụng lợi thế về địa hình, đất đai… để tạo
tiềm lực quốc phòng mạnh có chi phí thấp nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn về tác động của quân đội làm kinh tế đến thu nhập
của người dân
1.2.1. Quốc phòng kết hợp với kinh tế của một số quốc gia
Trong thời đại ngày nay khái niệm quốc phòng đã đổi mới, mở rộng, có
tính tổng hợp cao hơn. Sức mạnh quốc phòng bao gồm nhiều yếu tố: quân sự,

chính trị, kinh tế, ngoại giao, nội lực, ngoại lực, có tính thời đại, tính quốc tế…
Lịch sử nhân loại cho thấy khi mà chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân
tộc cực đoan phản động luôn đe dọa cuộc sống an lành của nhiều quốc gia dân
tộc, thường xuyên gây ra mâu thuẫn tôn giáo, dân tộc, tranh giành, tranh chấp
đất đai, vùng biển, vùng trời, tạo ra những cuộc chiến tranh cục bộ, làm bùng
lên các cuộc xung đột vũ trang; không một quốc gia dân tộc nào không có sự
chăm lo xây dựng nền quốc phòng của chính mình, với một số đặc điểm
chung là đẩy mạnh phát triển kinh tế, lấy an ninh kinh tế làm trọng tâm trọng
điểm, kết hợp hài hòa các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, sức mạnh quốc
phòng là sức mạnh tổng hợp. Nhiều quốc gia hùng mạnh cho rằng môi trường


an ninh quốc tế đã đổi thay, nhưng sứ mạng chủ yếu của quân đội vẫn không
thay đổi; sức mạnh quân sự vẫn giữ vai trò thiết yếu, không thể thay thế trong
sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Nhìn chung các nước mới giành độc lập đều
coi trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Nét
nổi bật của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng trong tình hình hiện nay là phát
huy vai trò tiên phong của khoa học- kỹ thuật quốc phòng; phát triển quốc
phòng trong chỉnh thể của phát triển sức mạnh quốc gia.
- Thái Lan: Lực lượng quân đội tham gia làm kinh tế, có ngân hàng
riêng, có tổ chức hoạt động kinh doanh.
- In-đô-nê-xi-a rất coi trọng sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, phát
triển mạnh mẽ các phương pháp và hình thứ giáo dục quốc phòng toàn dân,
xây dựng cấp cơ sở phố, phường, làng, xã thành các tổ chức quốc phòng, an
ninh được nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động; ngoài ra còn cho phép hoạt
động Hiệp hội quốc phòng trên toàn quốc thu hút nhiều tầng lớp trong xã hội
tham gia. Vai trò rất quan trọng của Bộ nghiên cứu và công nghệ trong hệ
thống sản xuất quốc phòng, đưa ra chiến lược nghiên cứu và công nghệ cả
tầm quốc gia. Các công ty quốc doanh trong ngành công nghiệp chiến lược là
xương sống ngành công nghiệp quốc phòng với quan hệ thông qua các hợp

đồng kinh tế. Đó là một trong mô hình quốc phòng toàn dân điển hình, tập
trung được tối đa nguồn lực khác nhau trong một quốc gia, giảm bớt khá lớn
cho chi phí quân sự địa phương.
- Ma-lai-xi-a lưu ý đặc biệt đến công nghiệp quốc phòng, khuyến khích
việc liên doanh tiếp thu công nghệ tiên tiến của nước ngoài, ưu đãi đối với
những cơ sở nào có triển vọng như miễn thuế, mua hàng của họ để tạo điều
kiện thâm nhập thị trường. Công nghiệp quốc phòng có trách nhiệm tạo ra
công nghệ mũi nhọn cho phát triển kinh tế, phát triển theo hướng lưỡng dụng
với mục tiêu nâng cao dần từng bước trình độ kinh tế, văn hóa xã hội, tạo việc


làm cho dân; như vậy tạo ra tiềm lực công nghệ cao cho đất nước, đáp ứng
được cả hai nhu cầu quốc phòng và kinh tế.
- Nga coi chuyển hóa công nghiệp quốc phòng được hiểu như là sự quy
tụ trong nó hàng loạt các biện pháp tài chính, kinh tế, tổ chức, công nghệ
nhằm chuyển từng phần hoặc toàn bộ nền công nghiệp quốc phòng sang sản
xuất các sản phẩm kinh tế. Nghĩa là chuyển hẳn một bộ phận từ nhiệm vụ sản
xuất sản phẩm phục vụ quân sự sang sản xuất sản phẩm kinh tế phục vụ dân
sinh; thứ hai là kết hợp vừa sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu quân sự vừa
sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu dân sinh; thứ ba sản xuất sản phẩm phục
vụ nhu cầu quân sự với mặt hàng như trước hoặc nâng cấp chất lượng. Sự
chuyển hóa các tổ hợp quân sự sang dân sự hợp với xu thế chung trong quan
hệ kinh tế quốc tế, tuy nhiên vẫn tồn tại các tổ hợp công nghiệp quân sự
khổng lồ ở một số quốc gia tư bản phát triển là một thực tế, là mối lo ngại cho
toàn thể nhân loại.
- Trung Quốc: Trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, ngành kinh tế đều
thực hiện chính sách “Quân dân nhất thể hóa”, đồng thời thực hiện rất chu
đáo chính sách chăm sóc và ưu đãi đối với quân đội; rút gọn quy mô, nâng
cao chất lượng, xây dựng trọng điểm và tối ưu hóa tổ chức lực lượng
thường trực với mục tiêu kết hợp tốt, hài hòa giữa củng cố quốc phòng

với phát triển kinh tế.
- Mỹ: Hình thức kết hợp kinh tế với quốc phòng cũng hết sức linh hoạt,
đặc biệt trong công nghiệp quốc phòng, ngoài các nhà máy trực thuộc chính
phủ còn tất cả cơ sở công nghiệp quân sự có quy mô nhỏ; các trang bị vũ khí
đều do công ty tư nhân sản xuất, công ty lớn sản xuất sản phẩm phục vụ cả
quân sự và nhu cầu dân dụng. Tất cả các hình thức kết hợp đều lấy nguyên tắc
phù hợp kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản, cho phép hưởng lợi thế khi sản xuất
hàng dân dụng được kế thừa công nghệ và kỹ thuật cao của công nghiệp quân
sự, từ đó thúc đẩy, kích thích nền kinh tế quốc dân phát triển.


Có thể nói, cùng với tỷ lệ tăng ngân sách quân sự của nhiều quốc gia
tăng dần so với giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GDP) thì nguy cơ chiến tranh
không bị ngoại trừ, vấn đề quốc phòng, an ninh vẫn được đặt đúng vị trí, vai
trò trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Từ sự tham khảo trên cho chúng
ta những gợi mở từ việc chọn lọc, áp dụng các phương pháp, hình thức kết
hợp kinh tế với quốc phòng phù hợp thực tế của quốc gia và quốc tế.
1.2.2. Quốc phòng kết hợp với kinh tế ở Việt Nam
Từ khi lập quốc đến nay, lịch sử dân tộc đã cho thấy một thực tiễn hợp
quy luật đó là xây dựng kinh tế, phát triển đất nước luôn gắn liền chặt chẽ với
củng cố quốc phòng, giải phóng dân tộc và tiến hành chiến trang chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, vị trí địa chính trị - quân sự của nước
ta đã tạo ra lợi thế giao lưu quốc tế, đồng thời luôn bị các thế lực xâm lược từ
Đông sang Tây rình rập xâm chiếm.
Trong thời kỳ các triều đại phong kiến, quan hệ kinh tế với quốc phòng
luôn quan hệ chặt chẽ trên quan điểm "thực túc - binh cường”, từ đó trên tổng
thể sản xuất nông nghiệp càng phát triển, đời sống nhân dân tương đối ổn
định, đủ lương thực phẩm cung cấp cho các cuộc chiến tranh vệ quốc. Bằng
nhiều hình thức khác nhau, các triều đại phong kiến đã hết sức quan tâm tới
sự phân bố lại nguồn lực trong đó chú ý đặc biệt đến nguồn nhân lực, khuyến

khích dân cư miền xuôi di dân ra các vùng biên giới khai hoang phục hóa đất
đai, còn vô cùng rộng lớn và dân cư thưa thớt để giữ gìn biên cương, phát
triển nông nghiệp, mở mang các tuyến đường thủy, đường bộ hướng vào hai
mục đích chính là giao lưu kinh tế và phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, quân sự,
đồng thời mở mang phát triển các ngành nghề thủ công như dệt vải, rèn đúc
vũ khí, sửa chữa đóng thuyền và công cụ sản xuất khác. Để có thể động viên
và sử dụng lực lượng vũ trang trong phòng thủ và tiến hành chiến tranh vệ
quốc khi cần thiết, một mặt giảm chi phí cho quân sự mà vẫn có đủ sức mạnh,
mặt khác vẫn tham gia tăng cường sức người sức của cho phát triển sản xuất.


Đến thời nhà Lý với chính sách “ngụ binh ngư nông” thực chất là gửi lính
trong dân, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng được quan tâm, là một kế sách
diệu kỳ xây dựng quân đội gắn liền với sản xuất nông nghiệp và binh lính
trong thời bình thay phiên nhau vừa sản xuất vừa huấn luyện quân sự và canh
giữ, canh phòng đất nước.
Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống
chống giặc ngoại xâm, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng - an ninh là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; mỗi
giai đoạn cách mạng, phương thức và nội dung kết hợp có khác nhau. Tổng
khởi nghĩa vũ trang năm 1945 chống Thực dân Pháp, chúng ta có chủ trương
“thực túc binh cường”, chủ trương gắn liền biện pháp kinh tế với quân sự để
đạt được mục tiêu cách mạng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình
huy động lực lượng, từ việc lập đoàn giải phóng bao hàm đầy đủ các nội dung
quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ, giao thông vận tải… tiếp theo là
Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, Chỉ thị toàn quốc kháng chiến, Các Nghị quyết
của BCHTƯ chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách và trực tiếp là củng cố và bảo vệ chính
quyền, tự cấp tự túc, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân,
chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến và kháng chiến thắng lợi. Do đó, đã
chuyển biến căn bản trong kinh tế, các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ,

phục vụ tốt cho yêu cầu của cuộc kháng chiến, góp phần vào thắng lợi Điện
Biên Phủ, nước ta bước sang một thời kỳ cách mạng mới.
Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trở thành hậu phương
vững chắc của cả nước, tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.Quân đội tham gia sản xuất xây dựng kinh tế đã trở thành một
trong chức năng của quân đội. Hoạt động kinh tế của quân đội được Đảng chỉ
đạo mạnh mẽ, cụ thể: Đưa 8 vạn quân chuyển sang làm kinh tế tham gia khôi
phục kinh tế đất nước bị chiến tranh tàn phá, xây dựng các tuyến đường giao


thông chiến lược, hình thành các nông lâm trường quân đội và một số đoàn
công nghiệp và cho phép BQP thành lập Cục Nông binh ngày 23 tháng 8 năm
1956. Tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một mặt Quân đội khắc
phục rất nhiều khó khăn gian khổ, mở đường xuyên dọc dãy Trường Sơn, lập
các căn cứ, binh trạm hậu cần ở hầu hết chiến trường miền Nam và các Đoàn
hậu cần, mặt khác thành lập Hệ thống cơ quan chỉ đạo làm kinh tế từ cấp Bộ
đến Quân khu, Quân khu, đồng thời hình thành Binh đoàn 773 xây dựng kinh
tế, 20 trung đoàn sản xuất… đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, xây dựng vững chắc xã
hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước. Đó chính là thắng lợi của đường lối chiến
tranh nhân dân, là kết quả của sự kết hợp đúng đắn về chỉ đạo, tổ chức, sử
dụng giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong sự biến đổi
mỗi thời kỳ cách mạng, mỗi vùng chiến lược, mỗi ngành kinh tế của Đảng ta,
thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Đảng Cộng sản vào Quân đội trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Sau khi đất nước thống nhất, Quân đội được Đảng và Nhà nước giao
cho hai nhiệm vụ chính trị là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia
xây dựng đất nước. Chính phủ ra Nghị quyết số 59/CP ngày 05/4/1976, thành
lập Tổng cục Xây dựng kinh tế, đồng thời điều chuyển gần 28 vạn quân sang
làm nhiệm vụ kinh tế, xây dựng đất nước, tham gia phục hồi đất nước sau

chiến tranh với 5 nội dung cơ bản: Xây dựng vùng kinh tế mới kết hợp kinh tế
với quốc phòng; xây dựng cơ bản; đánh cá, khai thác hải sản; sản xuất và xây
dựng quốc phòng cho quân đội và nhân dân; giúp nước bạn xây dựng công
trình kinh tế và quốc phòng. Mục tiêu là bảo đảm một phần nhu cầu của quân
đội, tham gia xây dựng một số vùng kinh tế chiến lược, xây dựng giao thông
thủy lợi, một số công trình trọng điểm của Nhà nước, góp phần phân bố lại
lao động, dân cư. Trong giai đoạn này chúng ta đồng thời phải đương đầu với
khó khăn phức tạp xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và bảo vệ biên


giới phía Bắc làm cho quân số làm kinh tế biến động rất lớn, nên hiệu quả
thực tế mang lại không cao, chưa đạt yêu cầu đề ra, cùng tình trạng trì trệ yếu
kém của nền kinh tế với lạm phát phi mã. Dù cho nền kinh tế càng khó khăn,
đường lối xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng vẫn được Đảng, Nhà
nước quan tâm đúng mức, tiếp tục duy trì và phát triển mới, vẫn dành hơn 10
vạn quân tham gia làm kinh tế, xây dựng đất nước, nhằm hỗ trợ giảm bớt khó
khăn nguồn chi phí quốc phòng, đồng thời bổ sung một phần thiếu hụt mà các
ngành kinh tế quốc dân không bảo đảm đủ.
Năm 1985 Bộ Quốc phòng đã Thành lập Tổ chức Binh đoàn Tây
Nguyên phát triển cây công nghiệp và xây dựng địa bàn Ba biên giới; tổ chức
lại Tổng cục kinh tế với chức năng giúp BQP quản lý nhà nước với các lực
lượng bộ đội chuyên làm kinh tế, chỉ đạo toàn quân tham gia làm kinh tế.
Thực tế đã cho thấy lực lượng quân đội làm kinh tế cùng với các ngành kinh
tế quốc dân đã tạo ra được kết cấu hạ tầng quan trọng, có tác dụng lớn cả về
phát triển kinh tế với việc củng cố quốc phòng. Hệ thống đường sá, giao
thông vận tải từ vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, thành phố, thị xã, các
đoàn kinh tế, đường chiến lược được nối liền. Cảng biển, cảng sông, cảng
hàng không được khôi phục, mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đường sắt Bắc Nam được khôi phục. Hệ thống giao thông toàn quốc trở nên hoạt động bình
thường, nâng cao năng lực vận tải thông thương giữa các vùng miền. Hệ
thống thông tin quốc gia phát triển và hiện đại hóa nhanh phục vụ tốt cho phát

triển kinh tế và bảo đảm cho quốc phòng. Các ngành sản xuất như: cơ khí,
hóa chất, điện tử…mở rộng quy mô sản xuất, trang bị càng hiện đại, nhiều sản
phẩm chất lượng cao. Song song với sự phát triển của các ngành kinh tế, các
khu vực phòng thủ được xây dựng trên các địa bàn chiến lược quan trọng như
Tây Nguyên, tứ giác Long Xuyên, các tuyến phòng thủ biên giới, các công
trình lấn biển kết hợp với củng cố tuyến phòng thủ bờ biển. Tuy nhiên, giai
đoạn này có một số hạn chế về quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh


tế, xây dựng đất nước không kịp thời, nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng
hoảng, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng lực quản lý kinh tế, năng lực sản
xuất, trình độ công nghệ và lực lượng sản xuất còn yếu kém. Sự nhận thức sai
lệch về yêu cầu kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, đồng thời ta cũng chưa
xây dựng cơ chế kết hợp.
Thời kỳ từ 1988 đến nay, nước ta bước vào thời kỳ đổi mới có hai đặc
trưng nổi bật là chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và mở của hội nhập từng bước với nền kinh tế
thế giới; kết quả giành được nhiều thành tựu to lớn thế và lực mới trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc
phòng có nội dung và yêu cầu mới.
Thành tựu quan trọng trong tổ chức thực hiện kết hợp kinh tế với quốc
phòng từ năm 1991 đến nay là thực hiện ngày càng tốt hơn mục tiêu kết hợp,
khai thác sử dụng ngày càng có hiệu quả nguồn lực tổng hợp của quốc gia,
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa
bảo đảm cho phát triển kinh tê - xã hội ổn định, nhanh có tính bền vững, vừa
củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Phương thức kết hợp kinh tế với
quốc phòng đã đổi mới, hoàn thiện từng bước, thể chế hóa về mặt Nhà nước,
trở thành đường lối chiến lược của Đảng. Thống nhất và gắn kết chặt chẽ giữa
xây dựng thế trận quốc phòng với quy hoạch tổng thể của quốc gia, vùng,
miền, hình thành các khu vực chiến lược vững mạnh. Xây dựng nhiều đoàn

kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế trên vùng biên giới, ven biển, sắp
xếp lại lực lượng quân đội làm kinh tế có hiệu quả hơn. Có sự điều chỉnh việc
kết hợp kinh tế với quốc phòng trong điều kiện hội nhập kinh tế và hội nhập
nhiều mặt trên bình diện quốc tế mặc dù còn chậm. Ở một số địa phương sự
kết hợp đó chưa thực hiện tốt, nổi lên là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và
có vốn đầu tư nước ngoài. Quá trình triển khai thực hiện sự kết hợp kinh tế
với quốc phòng tại một số địa bàn trọng điểm, chiến lược, biên giới có hiệu


×