Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển công nghiệp ở tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.99 KB, 81 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nội dung hoạt động
trong kinh tế đối ngoại của một quốc gia, góp phần quan trọng tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, được khuyến khích phát triển, bình đẳng với các thành phần kinh
tế khác. Trong điều kiện hiện nay, đất nước ta đang thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, cần thiết phải tập trung huy động các nguồn lực
quan trọng để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,
thực hiện mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp.
Tỉnh Phú Thọ được tái lập từ ngày 01-01-1997, với khởi điểm là một
tỉnh nghèo, cơ bản là một tỉnh thuần nông (tại thời điểm này, nông nghiệp
chiếm 56% GDP), Phú Thọ có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn để thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn. Trên cơ sở chính sách đầu tư cởi
mở thông thoáng của Việt Nam, sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ, các bộ,
ngành trung ương và sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chính sách đó của Phú
Thọ, sau 17 năm tái lập, bằng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân
dân trong tỉnh, bằng các cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp,
Phú Thọ đã đạt được nhiều kết quả, trở thành một tỉnh thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài với lượng lớn và đã mang lại hiệu quả tích cực. Đến nay cơ
cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực (tỷ trọng công nghiệp chiếm
gần 50% trong GDP), kinh tế xã hội có bước phát triển vượt bậc, đời sống
nhân dân không ngừng được cải thiện. Một trong những nhân tố tác động đến
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực đó là có sự góp phần của

1


thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào phát triển công nghiệp của


tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đến phát triển công
nghiệp, FDI ở Phú Thọ cũng có những tác động tiêu cực như ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên, gia tăng mâu thuẫn xã hội thông qua các cuộc
đình công của công nhân các doanh nghiệp FDI, vv....Những yếu tố này đặt ra
nhiều vấn đề cần phải giải quyết về mặt lý luận, thực tiễn làm cơ sở cho việc
đề ra những chính sách, giải pháp thích hợp từng thời kỳ để tăng cường việc
thu hút, sử dụng FDI vào phát triển công nghiệp tỉnh, góp phần nhanh chóng
đưa Phú Thọ trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.
Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên có hiệu lực, đã có nhiều
công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
về thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Tuy nhiên, trong các đề tài, tiểu
luận, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn tham khảo, chưa có
công trình nào nghiên cứu việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
để phát triển công nghiệp ở một tỉnh có xuất phát điểm từ nông nghiệp như
tỉnh Phú Thọ. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) để phát triển công nghiệp ở Tỉnh Phú Thọ” là hết sức cần
thiết, có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ. Việc
nghiên cứu đề tài này sẽ tập trung vào các câu hỏi chính sau: Thực trạng thu
hút FDI để phát triển công nghiệp ở tỉnh Phú Thọ như thế nào? Liệu các
chính sách thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã thực sự thu hút các
nhà đầu tư chưa? Cần có những giải pháp gì để tăng cường thu hút FDI vào
phát triển công nghiệp trong thời gian sắp tới? Trả lời được các câu hỏi này
sẽ hiểu rõ được thực trạng FDI vào công nghiệp và mới có thể đề ra giải pháp
và kiến nghị nhằm thúc đẩy thu hút FDI tại tỉnh nhà một cách có hiệu quả
trong thời gian đến năm 2020.

2



2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, các vấn đề liên quan đến thu hút FDI đang được các học giả,
các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách quan tâm.
Nhiều công trình nghiên cứu về thu hút FDI đã được công bố và có giá trị
thực tiễn cao.
2.1 Về sách chuyên khảo, tham khảo có các công trình nghiên cứu tiêu
biểu:
- Thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt
Nam, của tác giả Hoàng Thị Bích Loan, chủ biên (2008). Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia. Tác giả cho ta thấy toàn cảnh bức tranh của công ty đa quốc gia
trong dòng lưu chuyển vốn FDI toàn cầu, chiến lược đầu tư trực tiếp của các
công ty đa quốc gia, thực trạng đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia
vào Việt Nam.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh tế của Võ Đại Lược,
Lê Bộ Lĩnh (2000). Tác giả mới chỉ đề cập đến FDI trong khu công nghiệp,
thời gian chỉ dừng lại ở năm 2000 khi mà luật đầu nước ngoài vẫn còn hiệu
lực.
2.2. Bên cạnh sách chuyên khảo, tham khảo còn có rất nhiều luận án Tiến
sĩ, các bài báo nghiên cứu về lĩnh vực FDI vào Việt Nam như:
- Luận án tiến sĩ Đỗ Hoàng Long: Tác động của toàn cầu hoá kinh tế
đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tác giả nghiên
cứu tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với dòng FDI trên thế giới và dòng
FDI vào Việt Nam. Nghiên cứu xu hướng vận động của dòng FDI toàn cầu và
một số giải pháp đối với việc thu hút FDI vào Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ Bùi Huy Nhượng (2005) Một số biện pháp thúc đẩy
việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.

3



Tác giả tập trung phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Tìm những nguyên nhân về phía nhà nước đang
cản trở hoạt động triển khai dự án FDI tại Việt Nam. Đề xuất biện pháp tháo
gỡ khó khăn vướng mắc, nhằm thúc đẩy việc triển khai thực hiện dự án FDI
tại Việt Nam.
2.3. Các bài báo nghiên cứu về lĩnh vực FDI vào Việt Nam :
- Ảnh hưởng của FDI và chuyển giao công nghệ đến phát triển công
nghiệp và xuất khẩu của các nước khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Nguyễn
Quang (2005) số 9, Tr.64-72, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế.
- Tác động của FDI đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc - Bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Nguyễn Xuân Thắng (2006) số 106,
Tr.54-56, Tạp chí Kinh tế và phát triển.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI,
Trần Xuân Hải (2006) số 2, Tr.13-15. Tạp chí Kinh tế và dự báo.
- Những loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Khu vực Đông Á Đông Nam Á và kinh nghiệm thu hút vốn FDI của một số quốc gia. Trà Ngọc
Phong (2004) số 85, Tr. 53-56, Tạp chí Kinh tế và phát triển...
Từ trước đến nay có nhiều luận án nghiên cứu thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam nhưng ở địa bàn tỉnh Phú Thọ chỉ có một một vài luận
văn tốt nghiệp và một số bài báo liên quan đến FDI. Cụ thể:
- Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế đầu tư trường Đại học kinh
tế quốc dân của tác giả Phạm Minh Châu lớp kinh tế đầu tư 46B với nội dung
“ Đâu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ: Thực trạng và giải pháp”. Luân
văn nghiên cứu thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Tỉnh Phú Thọ,
tập trung chủ yếu vào thực trạng thu hút vốn đầu tưu trục tiếp nước ngoài giai
đoạn năm 2001-2007 thể hiện qua quy mô,cơ cấu đầu tư, xem xét sơ qua về
thực trạng triển khai các dự án FDI trên địa bàn tỉnh.

4



Tóm lại: Với mục đích khác nhau, những công trình ở trên nghiên cứu
những vấn đề liên quan về đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ở
những góc độ khác nhau. Do vậy, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một
cách trực tiếp đầy đủ và hệ thống về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Phú
Thọ từ năm 2000 đến nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển công nghiệp ở Tỉnh Phú Thọ” làm
luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển công nghiệp ở
tỉnh Phú Thọ; chỉ ra những thành công và hạn chế, kết quả đạt được, và
nguyên nhân tồn tại của Thu hút FDI vào tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI
cho phát triển công nghiệp ở Phú Thọ đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030.
3.2 Nhiệm vụ Nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên tác giả đề ra nhiệm vụ nghiên
cứu của luận văn là:
- Khái quát một số lý luận cơ bản liên quan tới thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Phú
Thọ giai đoạn từ 2005 đến nay.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học để đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5



Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động Thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển công nghiệp tỉnh Phú Thọ giai đoạn
2005 đến nay, trong đó tập trung vào thực trạng thu hút qua các năm, sự
chuyển biến cơ cấu FDI và ảnh hưởng của chính sách thu hút FDI của tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn chỉ nghiên cứu thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đến phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ do
tỉnh quản lý. Do điều kiện về tài liệu, thời gian hạn chế nên luận văn sẽ không
nghiên cứu FDI do trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh.
- Về thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp hệ thống:
Việc nghiên cứu tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ
được thực hiện đồng bộ, gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ thể
và kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây.
Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng các số liệu thống kê thích hợp
để phục vụ cho quá trình phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Phú Thọ từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút và nâng
cao hiệu quả kinh doanh của vốn FDI.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích tình hình thực
trạng thu hút FDI tại Phú Thọ, tác giả đưa ra các đánh giá chung có tính chất
khái quát về mặt được, những hạn chế của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Yên Bái.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: tác giả sử dụng phương pháp so sánh
- đối chiếu để so sánh kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc trong việc

6



thu hút FDI. Từ đó, tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm cho tỉnh Phú
Thọ.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Về lý luận: Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài và những tác động của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đến phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
- Về thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc nâng cao nhận thức về thực
trạng thu hút cũng như vai trò to lớn, lâu dài của việc thu hút vốn FDI đối với
phát triển công nghiệp của tỉnh Phú Thọ. Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy
việc thu hút FDI cho phát triển công nghiệp ở Phú Thọ trong thời gian tới.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho lãnh đạo tỉnh và các cấp, ngành
trong việc hoạch định các chính sách liên quan đến thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
viết tắt, bảng biểu luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để phát triển công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh.
Chương 2 : Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong phát triển công nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
Chương 3 : Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy thu hút vốn
FDI để phát triển công nghiệp ở Phú Thọ đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030.

7


CHƯƠNG 1 :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỂ

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CẤP TỈNH

1.1. Khái niệm
* Vốn đầu tư
Theo Luật Đầu tư năm 2005: “Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp
pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp
hoặc gián tiếp”. Như vậy, vốn đầu tư có thể tồn tại dưới những dạng khác
nhau như vốn tài chính (tồn tại dưới hình thái tiền tệ), vốn tài nguyên với
những hình thái hiện vật khác nhau, vốn vô hình (các sản phẩm khoa học
công nghệ, vị trí địa lý thuận lợi, thương hiệu, uy tín hãng...), vốn nhân lực
(số lượng, chất lượng nguồn nhân lực)... Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị
trường dù vốn đầu tư với tư cách là nguồn lực kinh tế thường được quy thành
những lượng giá trị nhất định.
Việc quy các nguồn lực kinh tế thành những đại lượng giá trị là tất yếu
trong điều kiện kinh tế thị trường. Vốn đầu tư trong nền kinh tế thị trường có
những đặc điểm chủ yếu:
- Bên cạnh hình thái hiện vật vốn luôn được biểu hiện dưới hình thái
giá trị thành những lượng tiền nhất định (có thể bằng tiền mặt hay tượng trưng
ngầm định).
- Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn.
Vốn chỉ bao gồm những lượng tiền dùng cho đầu tư hoặc kinh doanh để có
thu nhập trong tương lai, những lượng tiền được chi tiêu để phục vụ tiêu dùng
cá nhân của chủ thể không phải là vốn.
- Vốn là hàng hoá đặc biệt: quyền sử dụng có thể tách khỏi quyền sở

8


hữu; giá trị sử dụng và giá trị không mất đi trong sử dụng mà ngược lại được
bảo tồn và thậm chí còn tăng thêm. Vốn được lưu thông trên loại thị trường

đặc biệt là thị trường vốn.
Qua đó, có thể thấy vốn tài chính là hình thái tồn tại phổ biến của vốn
đầu tư và khái niệm vốn đầu tư sẽ đề cập chủ yếu tới vốn tài chính. Nếu xét
theo nguồn gốc hình thành, có thể phân biệt vốn đầu tư trong nước và vốn đầu
tư nước ngoài. Nếu xét theo hình thức sử dụng vốn, có thể phân biệt vốn đầu
tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
• Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: (FDI)
Có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn:
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa ra khái niệm FDI là một công cuộc đầu
tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trưc tiếp đạt được một
phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp FDI trong một quốc
gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được
công nhận FDI.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về
FDI: FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được
một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài
sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản
lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu
tư thường hay đựoc gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty
con” hay “chi nhánh công ty”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic
Cooperation and Development - OECD) đưa ra khái niệm: FDI phản ánh
những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà
đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền

9


kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Đầu tư

trực tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp
sau giữa hai thực thể được liên kết một cách chặt chẽ.
Quan điểm về FDI của Việt Nam theo quy định tại Điều 3 Luật đầu tư
năm 2005:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” [9, Tr 15].
Tóm lại: Các khái niệm khác nhau về FDI đều thống nhất ở các điểm
như: FDI là hình thức đầu tư quốc tế, cho phép các nhà đầu tư tham gia điều
hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư tuỳ theo mức góp vốn của nhà
đầu tư. Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, quyền sở hữu gắn liền với quyền sử
dụng tài sản đầu tư.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là biểu hiện bằng tiền hoặc tài sản do tổ
chức hoặc cá nhân người nước ngoài mang vào nước khác (nước tiếp nhận) để
thực hiện kinh doanh theo luật pháp của nước tiếp nhận nhằm thu được lợi
ích. Các nhà đầu tư có quyền điều hành doanh nghiệp tuỳ theo tỷ lệ góp vốn
của mình. Theo khái niệm này, các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư bằng
tài sản ở nước tiếp nhận đầu tư nhưng phải là những loại tài sản do nước tiếp
nhận đầu tư quy định trong luật pháp chứ không phải bất kỳ loại tài sản nào.
Nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm nguồn vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu
tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao
gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
• Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: (FII)
Là hình thức chủ đầu tư nước ngoài chỉ bỏ vốn chứ không trực tiếp

10



quản lý, ví dụ: mua cổ phiếu, trái phiếu.... Hiện nay, các quốc gia đang phát
triển thường không khuyến khích FII vì nó là một trong những nguy cơ gây ra
khủng hoảng tài chính.
Như vậy có thể hiểu, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu
tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi. Trong đó quyền sở hữu gắn liền với quyền
sử dụng vốn. Điều đó cũng có nghĩa là nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi khi hoạt
động kinh doanh có hiệu quả hoặc tự chịu rủi ro khi hoạt động đầu tư bị thua
lỗ.
Ngày nay, nguồn vốn FDI đang có vai trò quan trọng đối với các nước
đang phát triển, vì vậy cạnh tranh để thu hút vốn FDI giữa các nước đang phát
triển với nhau có xu hướng gia tăng. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn
cầu từ cuối năm 2008, Việt Nam cũng đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu
tư nhằm hấp dẫn và nâng cao hiệu quả sử dụng FDI, Chính phủ đã có Nghị
quyết số 11/2011/NQ-CP ngày 24/02/2011 về một số biện pháp cấp cách
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an
sinh xã hội, thì vấn đề hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nói chung và sử dụng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI càng có vai trò quan trọng.
1.2. Vai trò cơ bản của thu hút vốn FDI đối với phát triển công nghiệp
Sự vận động của các luồng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển
đã tạo ra những thay đổi về chất và lượng các điều kiện để phát triển kinh tế
nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng, thể hiện:
1.2.1. Góp phần bổ sung nguồn vốn phát triển công nghiệp và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế
Đa số các quốc gia sử dụng FDI là nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế này,
các nước nghèo thường chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp với công nghệ
lạc hậu, năng suất thấp, thu nhập thấp và tích luỹ thấp. Để vượt lên có thể bắt

11



đầu từ khâu tạo ra sản lượng và thu nhập ngày càng tăng, muốn như vậy cần
phải có vốn, đây là khó khăn nhất của nước nghèo. Để có vốn các nước này
chỉ tiến hành bằng con đường tích luỹ nội bộ, nhưng trong xu hướng phát
triển như hiện nay nếu chỉ trông chờ vào quá trình tích luỹ nội bộ thì khó
tránh khỏi tụt hậu.
Tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài là bước đi hiệu quả nhất cho các
nước phát triển, trong đó nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Thực chất của việc làm này là tận dụng điều kiện
khách quan thuận lợi mà thế giới đã tạo ra “đi tắt, đón đầu”, thay vì phải mất
thời gian để tích luỹ. Vốn đầu tư nói chung là yếu tố có tính quyết định đối
với tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Mặt khác, tìm kiếm lĩnh vực và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi
nhuận cao là bản chất của nhà đầu tư nước ngoài. Do các nhà đầu tư nước
ngoài lựa chọn những ngành sản xuất, những địa bàn thuận lợi để đầu tư, nên
Chính phủ cần phải dành một số vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tập trung
vào xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những vùng đặc biệt khó khăn, những
ngành trọng điểm, những lĩnh vực thấy không nên có yếu tố nước ngoài,...
nhằm tạo nên sự phát triển cân đối trong đầu tư. Vì vậy, FDI là nguồn vốn bổ
sung quan trọng tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế và tiến tới phát
triển bền vững.
1.2.2. Tạo điều kiện để thực hiện chuyển giao công nghệ
Công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tếxã hội của một quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò của công
nghệ lại càng khẳng định rõ. FDI được coi là kênh quan trọng để phát triển
công nghệ của nước chủ nhà, trong dài hạn đây chính là lợi ích căn bản nhất
đối với nước tiếp nhận đầu tư. Trong chuyển giao công nghệ, hai yếu tố cấu
thành chủ yếu là công nghệ cứng (công nghệ kỹ thuật được nhập vào cùng với

12



thiết bị máy móc) và công nghệ mềm (chuyên gia kỹ thuật, tri thức, bí quyết
quản lý, năng lực tiếp thị...).
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực
hiện bởi các công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên, việc chuyển giao những công
nghệ mới, có tính cạnh tranh cao thường khó thực hiện, do yếu tố bảo đảm bí
mật, chống xâm phạm bản quyền công nghệ. Đây chính là hạn chế cơ bản
trong chuyển giao công nghệ thông qua FDI.
Bên cạnh chuyển giao các công nghệ sẵn có, các dự án FDI còn tham
gia nghiên cứu và phát triển (R&D) công nghệ của nước chủ nhà, nhờ đó mà
năng lực công nghệ của nước tiếp nhận FDI ngày càng phát triển hơn. Mặt
khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ hiện đại của nước ngoài đội ngũ
chuyên gia cũng như công nhân trong nước học được rất nhiều kinh nghiệm.
Công nghệ của nước tiếp nhận FDI được cải thiện làm cho năng suất lao động
ngày càng được tăng lên, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Để công nghệ thực sự đóng góp cho tăng trưởng kinh tế cũng như năng
lực công nghệ của ngành công nghiệp của các nước tiếp nhận công nghệ cần
có quyết tâm của Chính phủ, đội ngũ cán bộ (nguồn nhân lực), đàm phán,
ràng buộc trong chuyển giao công nghệ và ngăn chặn hiện tượng “chảy máu
chất xám” vào các doanh nghiệp FDI.
1.2.3. Góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Xuất nhập khẩu tăng hay giảm sẽ tác động trực tiếp đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định là điều kiện tốt nhất thúc
đẩy lĩnh vực ngoại thương phát triển. Xuất khẩu cho phép chúng ta khai thác
tối đa lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, năng suất cao nhờ chuyên
môn hoá sản xuất... Nhập khẩu bổ sung được hàng hoá, dịch vụ khan hiếm
đặc biệt là thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Mặt khác,

13



xuất nhập khẩu còn thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tìm kiếm thị trường
cho các doanh nghiệp nội địa. Vốn FDI vào các nước đang phát triển chủ yếu
tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ xuất khẩu mà nước chủ nhà
khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực trong nước. Do đó, khuyến khích đầu
tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu thường là ưu tiên hàng đầu trong chính
sách thu hút FDI của nước chủ nhà. Dòng vốn FDI thường đi kèm là máy
móc, thiết bị và công nghệ do vậy mà thúc đẩy nhập khẩu. Ngoài ra, nhập
khẩu còn bổ sung nguồn nguyên liệu thiết hụt phục vụ cho sản xuất trong
nước.
1.2.4. Tạo sự liên kết giữa các nghành công nghiệp
Các công ty trong nước thường nắm giữ nguồn nguyên liệu, hàng hoá
và dịch vụ cung cấp cho các công ty nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp;
Các ngành công nghiệp nào cũng cần các ngành công nghiệp phụ trợ, các
ngành công nghiệp phụ trợ này phải do các công ty trong nước đảm nhiệm;
FDI thường tập trung vào các khu công nghiệp nên xu hướng các công ty
trong khu công nghiệp liên kết với nhau nhằm giảm chi phí đầu vào.
Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu thông qua
quá trình trao đổi trực tiếp giữa các công ty nội địa với các công ty nước
ngoài những hàng hoá (tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào) và dịch vụ
phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tiêu chí đo lường cơ bản của
mối liên kết này là tỷ trọng giá trị trao đổi hàng hoá và dịch vụ của các công
ty nội địa với các công ty nước ngoài trong tổng giá trị hàng hoá được trao
đổi. Tốc độ tăng của tỷ trọng này là cơ sở để đánh giá mức độ liên kết giữa
các công ty trong ngành công nghiệp với nhau.
Sự liên kết này thông qua các hợp đồng cung cấp nguyên vật liệu, dịch
vụ giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài. Mối liên kết này sẽ tạo
ra năng lực sản xuất mới cho các ngành công nghiệp nội địa và các công ty


14


trong nước. Sự liên kết trong ngành công nghiệp cao hay thấp hoàn toàn phụ
thuộc vào điều kiện phát triển của nền kinh tế hoặc tính khả thi của những
chính sách của nước chủ nhà.
1.2.5. Tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm cho
xã hội
Sử dụng FDI của các nước có nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu giải
quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực của nước tiếp nhận đầu tư. Để
các dự án của mình hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, các nhà đầu tư FDI
buộc phải đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý làm việc cho mình đã
tiết kiệm cho nước chủ nhà một phần ngân sách nhà nước để đào tạo trong
nước như trợ giúp về tài chính mở các lớp đào tạo dạy nghề trung và dài hạn,
mở các lớp huấn luyện nâng cao nghiệp vụ quản lý,... Trong khi làm việc ở
các doanh nghiệp FDI, các chuyên gia kỹ thuật, quản lý trong nước có cơ hội
tiếp cận với các chuyên gia nước ngoài, học được các kinh nghiệm thực hành
từ các chuyên gia này. Mặt khác, do sức ép cạnh tranh nên thị trường lao
động, người lao động trong nước không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
của mình qua học tập và qua công việc, từ đó chất lượng nguồn nhân lực
trong nước được nâng lên.
FDI là kênh quan trọng tạo việc làm cho người lao động của nước chủ
nhà. Qua việc tạo ra ngày các nhiều chỗ làm đã nâng cao thu nhập cho người
lao động. Tiền lương cao trong khu vực FDI đã tạo ra sức cạnh tranh trên thị
trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước. Điều kiện
làm việc tốt hơn do áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hệ thống quản lý
khoa học,.. đây là những nguyên nhân làm cho năng suất lao động ở khu vực
FDI cao hơn so với các khu vực khác trong nước.

15



1.2.6. Góp phần cải tạo và bảo vệ môi trường
Một trong những lợi thế của việc thu hút FDI đó là việc thu hút nguồn
vốn lớn, công nghệ cao để xử lý vấn đề môi trường. Các doanh nghiệp FDI
với tiềm năng sẵn có về vốn, kinh nghiệm và công nghệ sản xuất cũng như xử
lý môi trường luôn quan tâm và đặt vấn đề đầu tư hệ thống xử lý chất thải tập
trung (nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại.....). Xử lý chất thải tập
trung cho phép các doanh nghiệp giảm chi phí xử lý chất thải, vì công trình xử
lý chất thải thường yêu cầu đầu tư lớn, nếu xây dựng hệ thống xử lý chất thải
đơn lẻ các doanh nghiệp thường không sử dụng hết công suất. Ở nước ta hiện
còn rất thiếu loại hình xử lý tập trung này, việc thu hút vốn FDI sẽ góp phần
vào việc đầu tư hệ thống xử lý chất thải không những chỉ riêng do doanh
nghiệp đó mà còn xử lý vấn đề môi trường của các khu công nghiệp thông
qua hệ thống xử lý chất thải tập trung.
Tóm lại: FDI đóng vai trò rất quan trọng đối với các nước đang phát
triển nói chung và đặc biệt quan trọng đối với tỉnh Phú Thọ, là một tỉnh mặc
dù đã có bước phát triển công nghiệp từ thập niên 60 của thế kỷ trước nhưng
đến nay cơ bản nông nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối cao và số lượng lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn chiếm đa số sau khi tỉnh được tái
lập (1997), đây là nguồn lực từ nước ngoài quan trọng cho phát triển kinh tế,
việc nhận thức đúng đắn vai trò của nó và có chiến lược khả thi trong thời
gian tới, sẽ cho phép tỉnh Phú Thọ khai thác hiệu quả hơn nguồn lực này thúc
đẩy công nghiệp phát triển và đạt được mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp
vào năm 2020 như Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút vốn FDI để phát triển
công nghiệp.
Kết quả thu hút vốn FDI cho phát triển kinh tế nói chung và phát triển
công nghiệp nói riêng phụ thuộc vào môi trường đầu tư trong nền kinh tế nói


16


chung và trong công nghiệp nói riêng. Môi trường đầu tư có thể hiểu là tổng
hoà các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thu hút đầu tư nước
ngoài, bao gồm nhiều nhóm yếu tố như: chính trị; chính sách, pháp luật; điều
kiện tự nhiên; trình độ phát triển kinh tế và đặc điểm văn hoá - xã hội.
1.3.1. Tình hình chính trị, hiệu năng bộ máy nhà nước:
Chính trị với tư cách là biểu hiện tập trung của kinh tế vừa chịu ảnh
hưởng quyết định của kinh tế, có vai trò tác động trở lại kinh tế: hoặc là tạo
thuận lợi hoặc là có thể cản trở phát triển kinh tế. Hoạt động đầu tư trực tiếp
là một trong những cơ sở quan trọng của phát triển kinh tế, nhưng chỉ có thể
phát huy hiệu quả khi nền chính trị ổn định. Mất ổn định về chính trị tất yếu
kéo theo đường lối phát triển kinh tế không nhất quán, do đó Chính phủ khó
đảm bảo hoặc đảm bảo không hoàn toàn những cam kết trước kia với nhà đầu
tư nước ngoài, điều này giải thích tại sao dòng vốn FDI ít vào các khu vực bất
ổn về chính trị và các quốc gia tham nhũng trì trệ.
1.3.2. Chính sách, pháp luật và sự công bằng:
Quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện thông
qua các hoạt động đầu tư. Những hoạt động đó chịu ảnh hưởng điều tiết của
hệ thống pháp luật và chính sách của nước tiếp nhận đầu tư. Hệ thống pháp
luật tạo ra khuôn khổ pháp lý có vai trò định vị đối với hoạt động đầu tư, còn
các chính sách thì có vai trò hướng dẫn. Vì vậy, hệ thống pháp luật và chính
sách là căn cứ cho sự lựa chọn phương hướng và địa điểm đầu tư.
Hệ thống chính sách pháp luật đồng bộ, minh bạch, ổn định, hoàn chỉnh
và công bằng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài sản
xuất kinh doanh, thu hút vốn đầu tư. Chính sách tài chính là một trong những
công cụ vĩ mô của Chính phủ các nước dùng để cải thiện môi trường đầu tư
nhằm thu hút FDI.


17


1.3.3. Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý.
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về vị trí địa lý, khí hậu, tài
nguyên thiên nhiên... Đây là những yếu tố tác động quan trọng có ảnh hưởng
đến tỷ suất lợi nhuận và hiệu quả sử dụng vốn của các dự án đầu tư. Các yếu
tố này thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố đầu vào phong phú và giá rẻ cho
các hoạt động đầu tư. Thuận lợi về giao thông là nhân tố hấp dẫn các nhà đầu
tư, vị trí thông thương thuận lợi ở nội địa cũng như các nước khác, nguồn
khoáng sản dồi dào với trữ lượng lớn, nhiều danh lam thắng cảnh và dân số
đông là một trong những thế mạnh để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Trong
lĩnh vực công nghiệp, thứ tự ưu tiên của nhà đầu tư là nguồn nguyên liệu, số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
1.3.4. Trình độ phát triển của nền kinh tế
Hoạt động kinh tế dựa trên cơ sở sử dụng các yếu tố kinh tế bao gồm tư
liệu sản xuất và sức lao động để tạo ra sản phẩm thoả mãn các nhu cầu xã hội,
thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội
thông qua sự phát triển của các yếu tố cấu thành chúng cùng với những kết
quả mà nền sản xuất xã hội đạt được.
1.3.5. Đặc điểm văn hoá - xã hội
Đặc điểm văn hoá - xã hội bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập
quán, trình độ dân trí, tinh thần dân tộc, thị hiếu.... Các nhân tố này ảnh hưởng
trực tiếp đến các hoạt động đầu tư nước ngoài. Sự khác nhau về ngôn ngữ gây
khó khăn trong công tác kinh doanh, dễ gây ra sự hiểu nhầm dẫn đến kinh
doanh kém hiệu quả. Tín ngưỡng tác động mạnh đến quan niệm sống của
người dân về các giá trị cá nhân và xã hội, từ đó ảnh hưởng đến thái độ của
nhà đầu tư như thói quen tiêu dùng và thuần phong mỹ tục có ảnh hưởng đến
quy mô thị trường. Trình độ dân trí là một trong những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài.


18


Trình độ dân trí cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực mà đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến
chi phí đầu vào.
1.3.6. Chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách khuyến khích đầu tư ra
nước ngoài và tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ của nước có vốn đầu
tư ra nước ngoài.
Trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài, các nhà đầu tư
luôn so sánh mức độ hấp dẫn và rủi ro giữa môi trường đầu tư trong nước với
nước mà họ định đầu tư. Nhà đầu tư chỉ quyết định đầu tư ra nước ngoài nếu
họ thấy rằng đầu tư ở nước ngoài có hiệu quả hơn ở trong nước.
Chính sách kinh tế vĩ mô của nước đi đầu tư có tác động nhất định đến
quá trình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nhân. Hiệu quả sử dụng vốn
trong nước còn cao thì nhà đầu tư ít muốn đầu tư ra nước ngoài. Nếu điều
kiện xuất khẩu trong nước càng khó khăn hoặc chính sách nhập khẩu càng dễ
dàng thì nhà đầu tư càng muốn đầu tư ra nước ngoài. Tuỳ thuộc vào các chính
sách tài chính - tiền tệ, ngoại hối thắt chặt hay nới lỏng sẽ dịch chuyển nguồn
vốn trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Chính sách quản lý ngoại hối
được mở cửa theo hướng tự do hoá thị trường vốn, các nhà đầu tư sẽ tự do
chuyển vốn ra nước ngoài. Khủng hoảng tài chính tiền tệ cũng làm thay đổi
các chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước chịu tác động của nó.
1.4. Tiêu chí đánh giá công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đến phát triển công nghiệp:
1.4.1. Nội dung thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nếu FDI là một hình thức đầu tư quốc tế, thì thu hút FDI là những hoạt
động nhằm vận động, kích thích và chuẩn bị các điều kiện để thực hiện FDI,
trên cơ sở đó có thể nhận thấy như sau:


19


- Thu hút FDI là những hoạt động nhằm vận động các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào một nước hoặc một địa phương của nước sở tại.
- Việc thu hút này phải gồm rất nhiều biện pháp và phải có những bước
đi thích hợp cũng như có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình đó, từ công
việc của các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp và nhà nước.
- Thu hút FDI có các hình thái chủ động và bị động. Hình thái chủ động
là hình thái khi các chủ thể ở nước sở tại tích cực, chủ động tìm kiếm các đối
tác, thuyết phục họ đầu tư vào nước mình, địa phương mình; tạo dựng hành
lang pháp lý khuyến khích FDI vào các ngành, những lĩnh vực và những
thành phần kinh tế cần thu hút đầu tư. Hình thái bị động là chờ các đối tác
đến, giới thiệu và đề xuất với nhà đầu tư những lợi thế và địa điểm để nhà đầu
tư nước ngoài đi đến quyết định đầu tư vào địa phương và đất nước mình.
- Hiện nay, đang xuất hiện rất nhiều phương thức cạnh tranh gay gắt
trong việc thu hút FDI. Do đó đòi hỏi phải có sự phân tích đúng tình hình và
phải có các biện pháp sáng tạo, có những đổi mới trong xúc tiến đầu tư, phải
chủ động thu hút FDI... thì mới có thể dành được những thuận lợi nhất trong
thu hút FDI.
- Cả lý thuyết và thực tiễn đều chỉ ra FDI được coi là sự thay thế tốt
hơn đối với thương mại quốc tế. Hơn nữa, trong điều kiện tự do hóa thương
mại và toàn cầu hóa kinh tế, các quốc gia đều có xu hướng giảm thiểu các rào
cản FDI, tăng cường cạnh tranh để thu hút FDI. Do đó, dòng vốn FDI ngày
càng gia tăng.
1.4.2. Tiêu chí đánh giá công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến phát triển công nghiệp.
- Một trong những tiêu chí đánh giá công tác thu hút vốn đầu tư nước
ngoài đến phát triển công nghiệp đó là các cơ chế, chính sách của cấp tỉnh

ban hành nhằm định hướng, thu hút các nguồn vốn FDI. Các cơ chế, chính

20


sách liên quan đến việc hỗ trợ nhà đầu tư trên các lĩnh vực: Cung cấp thông
tin về các lĩnh vực đầu tư nhà đầu tư quan tâm, các lợi thế, các thông tin liên
quan đến công nghiệp phụ trợ, nguồn nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm; Các
chính sách hỗ trợ về vốn, tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo lao động sau khi được
tuyển dụng. Ban hành danh mục các dự án ưu đãi, thu hút đầu tư; địa bàn thu
hút đầu tư với các lĩnh vực, các mức ưu đãi phù hợp với mức độ ưu tiên khác
nhau về lĩnh vực, địa bàn.
- Công tác tổ chức, bộ máy quản lý và hỗ trợ các nhà đầu tư FDI vào
địa bàn tỉnh: nhằm giảm bớt các thủ tục và các công việc liên quan đến nhiều
sở, ngành, nhà đầu tư chỉ cần đến tại một địa chỉ để thực hiện các thủ tục hành
chính liên quan đến đầu tư, thành lập doanh nghiệp và các thủ tục sau thành
lập. Để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư, cơ quan đầu mối thực hiện các thủ
tục đối với các nhà đầu tư chỉ giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc Ban
Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh. Cơ quan này sẽ thay mặt nhà đầu tư để
thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan và sẽ thường xuyên đối thoại
với doanh nghiệp, kịp thời nắm bắt và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát
sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đây cũng là một trong
những nội dung mà nhà đầu tư FDI quan tâm và lo ngại.
- Công tác cải cách hành chính, thực thi các chính sách nhằm thu hút
vốn FDI vào địa bàn tỉnh: Hiệu quả của công tác cải cách hành chính nói
chung và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nói riêng quyết
định đến việc thu hút vốn đầu tư. Giảm bớt các thủ tục phiền hà, không cần
thiết; giảm thời gian thụ lý, xử lý hồ sơ, năng lực chuyên môn và thái độ của
cán bộ, công chức các cơ quan tiếp nhận hồ sơ và việc tạo điều kiện thuận lợi
trong thực thi các chính sách thu hút đầu tư của tỉnh. Công tác xúc tiến đầu tư,

quảng bá trong và ngoài nước cũng là yếu tố quan trọng để công tác thu hút
vốn đầu tư đạt được hiệu quả cao hơn.

21


- Tác động của thu hút vốn FDI vào phát triển công nghiệp của tỉnh: thể
hiện trong việc làm thay đổi bộ mặt nền công nghiệp của tỉnh, công nghiệp
phát triển nhờ có lượng vốn FDI đầu tư theo định hướng thu hút, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng lên đóng góp quan trọng vào GDP của công nghiệp nói
riêng và GDP của tỉnh nói chung. Từ đó là thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ: tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế tăng lên, giảm tỷ trọng của
sản xuất nông nghiệp. Thu hút vốn đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghiệp
tăng lên sẽ kéo theo các ngành công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ phục vụ công
nghiệp tăng lên, sử dụng nhiều lao động góp phần đẩy mạnh phát triển công
nghiệp và thúc đẩy phát triển nền kinh tế của tỉnh theo hướng CNH-HĐH.
1.5. Kinh nghiệm thu hút FDI tại một số tỉnh
1.5.1. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 tỉnh Bắc Ninh cơ bản trở thành một tỉnh
công nghiệp, Bắc Ninh chủ trương đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư
trong đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn quan trọng.
Tỉnh đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, trong thời kỳ 2001 - 2005, tỉnh
Bắc Ninh đã thu hút được 34 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (chỉ tính các
dự án còn hiệu lực hoạt động), với tổng vốn đầu tư đăng ký là 134 triệu USD.
Trong đó: các khu công nghiệp tập trung của tỉnh thu hút được 26 dự án FDI,
với tổng vốn đầu tư đăng ký là 114 triệu USD; còn lại 8 dự án FDI thực hiện
ngoài khu công nghiệp, với tổng vốn đầu tư đăng ký là gần 20 triệu USD.
Trong năm 2010, trên địa bàn toàn tỉnh Bắc Ninh có 65 đơn vị FDI (trong đó
61 dự án FDI và 04 văn phòng đại diện, chi nhánh) được cấp GCNĐT mới
với tổng vốn đầu tư đăng ký: 226,84 triệu USD, 99 lượt điều chỉnh dự án FDI

trong đó có 25 dự án điều chỉnh tăng vốn với số vốn điều chỉnh tăng là 113,17
triệu USD, nâng tổng vốn đầu tư sau điều chỉnh trong năm 2010 là 340 triệu
USD. Luỹ kế đến hết tháng 12/2010, trên toàn tỉnh Bắc Ninh có 289 đơn vị

22


FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án thứ cấp và các dự án kinh
doanh hạ tầng KCN: 3.171,8 triệu USD. Tính đến hết năm 2012 trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh có 405 dự án FDI với số vốn đăng ký là 5.772 triệu USD và tới
hết năm 2013 số các dự an FDI là 518 dự án với vốn dăng ký là 6.290 triệu
USD. Đến nay, Bắc Ninh đã hội tụ được nhiều Tập đoàn có danh tiếng trên
Thế giới, đó là: Canon, Sumitomo đến từ Nhật Bản; SamSung, Orion đến từ
Hàn Quốc; Foxconn, Mictac đến từ Đài Loan; Tyco Electronics đến từ Hoa
Kỳ; ABB đến từ Thuỵ Điển… Và gần đây nhất là tập đoàn Nokia đến từ Phần
Lan.
Trong số các dự án FDI thu hút đầu tư trong giai đoạn này có 20 quốc
gia và vùng lãnh thổ có dự án FDI đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh. Các quốc gia có
nhiều dự án tại tỉnh như: Hàn Quốc với 100 dự án, vốn đầu tư đăng ký 1.077
triệu USD (chiếm 30% tổng vốn đăng ký FDI toàn tỉnh); Nhật Bản với 52 dự
án, vốn đầu tư 638 triệu USD (chiếm 18% tổng vốn FDI toàn tỉnh); Đài Loan
28 dự án, vốn đầu tư đăng ký 543 triệu USD. Các dự án FDI đầu tư vào tỉnh
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp điện tử với vốn đầu tư đăng ký 1.449 triệu
USD, chiếm 40,9% tổng vốn FDI toàn tỉnh. Các dự án có vốn đầu tư lớn như:
Samsung 670 triệu USD, Canon 130 triệu USD.
Nhìn một cách tổng thể, thì vốn đầu tư nước ngoài chiếm chủ yếu cả về
tỷ trọng và lượng vốn đầu tư; phần vốn góp từ phía Việt Nam chiếm một phần
rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thành tựu đáng kể của Bắc Ninh là đã bắt đầu thu hút được các nhà
đầu tư lớn. Năm 2005, Canon đã quyết định đầu tư xây dựng một nhà máy sản

xuất máy ảnh 60 triệu USD. Với việc xuất khẩu 100% sản phẩm ra nước
ngoài, Canon đã đem đến một nguồn thu đáng kể cho địa phương và kinh
nghiệm quí báu về công tác quản lý, đào tạo công nhân trình độ cao. Thành
công của giai đoạn 1 đã mở ra một bước triển khai mới. Giai đoạn hai của

23


Canon tại Bắc Ninh với nguồn vốn đầu tư hơn 100 triệu USD, khi đi vào hoạt
động sẽ có trị giá xuất khẩu hàng năm lên tới 1,6 tỷ USD.
Những thành quả trong thu hút FDI của Bắc Ninh đã tạo ra bước phát
triển mới cho kinh tế của tỉnh nói chung và công nghiệp của tỉnh nói riêng.
Có thể rút ra một số nguyên nhân dẫn tới thành công của Bắc Ninh:
- Tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối
hoàn chỉnh; thúc đẩy sự hình thành và phát triển các trung tâm thương mại,
các khu công nghiệp, khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ nhằm tạo
điều kiện giảm chi phí cho các nhà đầu tư.
- Trên cơ sở những quy định chung của Chính phủ về ưu đãi đầu tư,
UBND tỉnh đã ban hành những chính sách và cơ chế thuận lợi cho hoạt động
đầu tư như: ưu đãi về thuê đất, hỗ trợ vốn xây dựng và phát triển kết cấu hạ
tầng các khu công nghiệp, hỗ trợ đền bù thiệt hại trong giải phóng mặt bằng,
hỗ trợ đào tạo nghề cho các doanh nghiệp trên địa bàn, tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước,
giao lưu thương mại, xúc tiến đầu tư, khai thác thị trường…
- Thực hiện cải cách hành chính áp dụng cơ chế một cửa, như tại Sở Kế
hoạch Đầu tư và Ban Quản lý các Khu Công nghiệp.
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc
Trong giai đoạn 2001-2010, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những thành
tựu đáng kể về phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế GDP bình quân
13,29%/năm. Cơ cấu kinh tế năm 2010: Nông nghiệp 17,7%; Công nghiệp,

xây dựng 58,34%; Dịch vụ 23,9%. Công nghiệp phát triển nhanh và là điểm
sáng về thu hút đầu tư nước ngoài trong cả nước. Giá trị sản xuất tăng bình
quân 26,7%/năm. Năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp ước 53.789 tỷ đồng,
tăng 35% so cùng kỳ, trong đó: Khu vực FDI tăng 36,6% so với năm trước và
chiếm 87,46% trong tổng số giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Xuất khẩu

24


tiếp tục tăng, Kim ngạch xuất khẩu đạt 315,3 triệu USD vượt kế hoạch 0,2%,
tăng 15,3% so với cùng kỳ. Đóng góp vào kết quả trên có phần đáng kể của
các doanh nghiệp FDI (Chiếm 90,76% kim ngạch xuất khẩu và tăng 12,27%
so cùng kỳ).
Tính đến 2013, Vĩnh phúc có 675 dự án còn hiệu lực, gồm 137 dự án
FDI với tổng vốn đầu tư là 2.767,6 triệu USD và 538 dự án DDI với tổng vốn
đầu tư 31.727 tỷ đồng. Đã có 13 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh
Vĩnh Phúc, nguồn vốn tập trung chủ yếu từ các nước Đài Loan, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc..,
Những kết quả tích cực của các doanh nghiệp FDI kể trên xuất phát từ
những nguyên nhân: Các doanh nghiệp FDI có trình độ công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, hiện đại, có những chiến lược tiêu thụ sản phẩm phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng, tăng cường năng lực cạnh tranh, cải tiến
mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ được mở rộng;
nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong và ngoài
nước như: Ô tô, Xe máy, quần áo may sẵn, thép xây dựng, thức ăn gia súc ...
Nhiều dự án của Vĩnh Phúc đạt hiệu quả cao trên nhiều lĩnh vực như: Công
Ty TOYOTA VN, Công Ty Honda… đã góp phần quan trọng vào việc giải
quyết việc làm, đóng góp vào việc tăng thu cho ngân sách, từ chỗ khi mới
tách tỉnh, số thu ngân sách của Vĩnh Phúc mới đạt 86 tỷ đồng, đáp ứng được
khoảng 40% nhu cầu chi, đến năm 2013, số thu ngân sách trên địa bàn đã đạt

trên 10.000 tỷ đồng, đã đáp ứng được nhu cầu chi của tỉnh và điều tiết về cho
ngân sách trung ương 33%.
Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, Vĩnh Phúc đã chủ
trương đặc biệt khuyến khích đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực công
nghệ hiện đại, có khả năng thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển; các dự
án sớm có hiệu quả và đóng góp nhiều cho ngân sách; các dự án nuôi trồng,

25


×