Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.03 KB, 18 trang )

Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”

Mục Lục

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

1


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam - một đất nước đang phát triển thì việc đi theo con đường công nghiệp
hóa- hiện đại hóa là biện pháp tốt nhất để đưa đất nước ta ngày cànggiàu mạnh hơn.
Đảng ta đã xác định rõ công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH – HĐH) là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. CNH - HĐH là một
bước chuẩn bị, xây dựng nền tảng cho nền kinh tế của đất nước. Muốn thực hiện CNHHĐH cần phải có rất nhiều nguồn lực như: cơ sở vật chất, kinh tế, chính trị, xã hội,…
Nhưng hơn tất cả, nguồn nhân lực mới là tiền đề quan trọng nhất để quá trình CNHHĐH diễn ra được nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Với đề tài “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay”, nhóm chúng tôi xin trình bày về các nội dung:
* Thực trạng nguồn nhân lực và yêu cầu của nguồn nhân lực của nước ta trong
điều kiện hiện nay.
* Vai trò của nguồn nhân lực của nước ta trong điều kiện hiện nay.
* Quan điểm của đảng về phát huy nguồn nhân lực.
* Liên hệ với thực tế việc phát huy nguồn nhân lực ngành thương mại điện tử ở
Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình làm thảo luận, chúng tôi còn nhiều sai sót, mong nhận được
những góp ý từ thầy và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.


Nhóm 8

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

2


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
I.

Thực trạng nguồn nhân lực và yêu cầu của nguồn nhân lực của nước ta trong
điều kiện hiện nay.
1. Khái niệm công nghiệp hóa – hiện đại hóa và nguồn nhân lực

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa (CNH-HĐH) là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử
dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Nguồn nhân lực là tổng hợp thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao
động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động
sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần phục vụ cho nhu cầu tương lai của đất nước.
CNH-HĐH là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con
đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh". CNH-HĐH không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế
mà còn là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới
về chất. Sự thành công của quá tình CNH-HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn

định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên,
cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia
vào quá trình CNH-HĐH nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn
bộ quá trình không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về
chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn
nhân lực phát triển thì tất yếu CNH-HĐH phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.

Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới,
thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự
khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn
(khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung
bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng
năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

3


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên
so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung Quốc,..) nói
chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam
được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm
việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều
này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực.
Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922

người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp
là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự
phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với
nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần
tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với
nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên)
trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là
6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền
kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá
XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ
thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc
làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao
động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số
người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu
đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ
bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được
thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính
viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng
lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày
càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp
cận trình độ quốc tế.
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

4



Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
Có thể khái quát một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta như:
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của
xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với
nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá
trị đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực
thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có
thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ
là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường
làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu
của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức
văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa
cao.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt
khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so
với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
3. Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.
a. Từ bối cảnh trong nước.

Thứ nhất, bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho CNH HĐH thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng

sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng cường ứng dụng khoa học và
công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng nhanh
hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp
và của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực;…

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

5


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động lớn,một mặt, tạo cơ hội cho nền kinh
tế có bước phát triển mạnh mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào
tạo nghề nghiệp.
Thứ ba, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả
về số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, do quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những ngành, nghề
mới,…
Thứ tư, sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng
hơn giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh, quốc phòng để phát triển đất nước.
b. Từ bối cảnh quốc tế.

Thứ nhất, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình
vận hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có
ảnh hưởng ngày càng lớn.
Thứ hai, nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài
nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính (do
tác động và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới); có khả năng đề ra các giải pháp

gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế hệ công
nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực.
Thứ ba, nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở
nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế
của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế
giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực.
II.

Vai trò của nguồn nhân lực trong điều kiện hiện nay của nước ta.
Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn
luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát
triển kinh tế.
Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân
tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.Giữa nguồn
lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công
nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

6


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So
với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu
thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý,
còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy
được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người
với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản

xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên
không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền
vững nếu hội đủ bốn điều kiện :
Một: quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
Hai: quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Ba: quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
Bốn: quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định. sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ
biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ
tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH - HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế
tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của
sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy
việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách
tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
nhằm phát triển bền vững.

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

7



Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.
Con người là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định trong cấu thành của lực
lượng sản xuất xã hội. Đảng ta coi con người là vốn quý nhất của xã hội nước ta - nhân
tố quyết định sức mạnh của quốc gia; bàn tay và khối óc của con người làm nên tất cả,
tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển, “có sức
người sỏi đá cũng thành cơm”. Con người quyết định tất cả.
Với nhận thức như vậy, Đảng ta coi chăm lo hạnh phúc cho con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng, của chế độ xã hội nước ta. Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc đổi mới và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nước nhà.
III.
1.

Quan điểm của Đảng về phát huy nguồn nhân lực.
Quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng

Trước khi bước vào thời kỳ CNH - HĐH (1996), tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở
bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa
đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội”
Sự nghiệp CNH – HĐH được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với tính chất là

chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. CNH – HĐH là
sự nghiệp phát triển mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự
nghiệp của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ
bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có
thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của
Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”.
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

8


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực
lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức
sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự
nghiệp CNH – HĐH một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con
người. Đảng ta xác định rất rõ rằng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển.
Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đào tạo được xác định là “quốc sách” hàng đầu với
nhiều hình thức đa dạng để mọi người được học, nhất là người nghèo, con em diện
chính sách. Ngành giáo dục đào tạo, nơi trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực từng bước
khắc phục những yếu kém để chất lượng nguồn nhân lực ngày một nâng lên. Cùng với
đổi mới về nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, ngành giáo dục và đào tạo
đã tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý

chí vươn lên của người học. Bên cạnh đó việc chăm lo cho con người về thể chất cũng
được quan tâm và xác định là trách nhiệm của toàn xã hội, đồng thời chỉ đạo các ngành
y tế, thể dục, thể thao, dân số và kế hoạch hóa gia đình làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức
khỏe nhân dân.
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược CNH – HĐH đất nước, Đảng đã ban
hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996)
về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ CNH - HĐH và
nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân
lực. Nghị quyết nêu: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những
thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết xác định: Giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự
nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; Phát triển giáo dục, đào tạo gắn
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố
quốc phòng, an ninh; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; Giữ vai
trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào
tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một cách
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

9


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…; Phát triển nguồn nhân lực phải là
sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp,
trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt; Mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế xã hội phải được đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho
chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi
người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng và phát triển nguồn nhân

lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ
CNH – HĐH trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã nhanh chóng được cụ thể
hóa bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hằng năm và kế hoạch
5 năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người
và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo
chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện
chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện
đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Phương hướng này đã được cụ thể hóa
bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược
phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể hiện rõ quyết
tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc
sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục
Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các giải pháp thực thi được
tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực trong
mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ
thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất
khẩu...
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ
các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

10



Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác
định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai.Đây được
xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi
hội nhậpquốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công
nghệ.Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh
- nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng động, thế giới của
khoa học và công nghệ.Vì thế, Đại hội XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải
“gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ”. Đây chính là nội dung quan trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát
triển nhanh và bền vững của nước ta trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược
này, Đại hội XI cũng nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn
nhân lực, đó là: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực
hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”.
2. Những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
 Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế -

xã hội.
Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn diện,
đủ khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH - HĐHđất nước thì
việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày càng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp bách và mang tính

quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân lực có chất lượng Đảng và Nhà nước ta đã và
đang quan tâm đồng bộ tới những vấn đề sau:
- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao động.
“Đối với con người hưởng thụ không thể tách rời với cống hiến, phần cống hiến phải
nhiều hơn phần hưởng thụ, bên cạnh nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần”. Nâng
cao đời sống vật chất cho người lao động trước hết thông qua đường lối, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Điều này được thể hiện rõ trong
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

11


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh
1991): “Chính sách xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Tình
trạng phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế thị trường
những năm đổi mới đã tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc.Giải quyết tình trạng
này phải giữ vững nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất phát triển vừa có chính
sách xã hội để tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời kỳ phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh sẽ tạo được động lực to lớn
thúc đẩy sự vươn lên của nguồn nhân lực.Không vươn lên sẽ không có khả năng cạnh
tranh, sẽ bị chính đòi hỏi của nền kinh tế đào thải.Định hướng xã hội chủ nghĩa là thể
hiện tính nhân văn đối với nguồn nhân lực. Đây là quá trình đào tạo nên những con
người Việt Nam mới thời kỳ hội nhập để phát triển.
- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế.

Điều này giúp người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tôn dân tộc,
quyết tâm phấn đấu cho nền kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường quốc
năm châu, mặt khác cũng tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể tiếp thu công
nghệ tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững của đất nước.
- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết sức áp
lực này phải được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng
toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân, mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động… Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”.
- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho
người lao động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa gia đình
là bảo đảm thể chất và tính ổn định của nguồn nhân lực. Vấn đề này được Đảng xác
định: “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân,
là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

12


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”, đồng thời đã có chương trình về kế
hoạch hóa gia đình, ổn định tỷ lệ tăng dân số.
- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho nguồn
nhân lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam.
 Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân văn hóa

đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại.
Đó là quan điểm tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống của nguồn nhân lực

phát triển. Để có được môi trường đó, trước hết phải coi trọng giáo dục đạo lý làm
người, ý thức, trách nhiệm công dân, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo
đức, lối sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai
của mỗi người và tiền đồ của đất nước.
 Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ.

Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức,
trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt nam ở nước ngoài”. Giải quyết tốt
vấn đề này là tạo được yếu tố nội sinh của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát
triển và hội nhập.
 Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến lược phát triển con

người trên cơ sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng to lớn
và được khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế được
Đảng thể hiện sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận rộng lớn của toàn
xã hội. Đó là những định hướng để nguồn nhân lực của đất nước phát triển nhanh, lành
mạnh, đúng hướng.
IV.

Liên hệ thực tế: “Phát triển nguồn nhân lực ngành thương mại điện tử trong công
cuộc đổi mới công nghiệp hóa hiện đại hóa”
1. Sự hình thành thương mại điện tử

Thương mại điện tử (TMĐT) mới được hình thành ở Việt Nam từ năm 2003 đến
nay (2003 là năm Internet được sử dụng phổ biến ở VN), nhưng đã phát triển khá
nhanh. Tới năm 2009 nhiều trường đã chủ động triển khai hoạt động đào tạo chính quy
TMĐT, nhưng sự phát triển của lĩnh vực này bị ảnh hưởng đáng kể do có sự chênh

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

13


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
lệch lớn giữa khả năng đào tạo về TMĐT của các cơ sở đào tạo với nhu cầu về nguồn
nhân lực thương mại điện tử của tổ chức doanh nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực là chính sách đầu tiên trong số 6 chính sách và giải
pháp chủ yếu được đề ra trong kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 20062010. Trước hết tập trung đào tạo nguồn nhân lực chính quy tại các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp thuộc các khối ngành kinh tế và luật, đồng thời đào tạo
theo chương trình đại cương tại các trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành thương
mại, quản trị kinh doanh, đào tạo cho cán bộ nhà nước làm công tác hoạch định chính
sách và thực thi pháp luật về TMĐT ở trung ương và địa phương các tỉnh thành phố,
khuyến khích các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ đào tạo về TMĐT.
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ
150 của tổ chức WTO, mở ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội cũng như thách thức ở tất
cả các lĩnh vực. Việt Nam được tiếp cận với nền kinh tế tri thức của các nước phát
triển, tuy nhiên khoảng trống lớn về nhân lực có kiến thức TMĐT sẽ là khó khăn cho
các doanh nghiệp khi phải thích nghi với các phương thức giao dịch thương mại của
các nước.
Năm 2005, trường Đại học Thương Mại đã tiến hành triển khai đào tạo chuyên
ngành Quản trị TMĐT. Chương trình đào tạo QTTMĐT tích hợp nhiều kiến thức và kỹ
năng của nhiều lĩnh vực khoa học(CNTT, ngoại ngữ, kinh tế-QTKD..). trường ĐH
Thương Mại là trường đại học đầu tiên trong cả nước triển khai chuyên ngành đào tạo
QTTMĐT và đã thành lập khoa Thương mại Điện tử.
2. Nhu cầu về nguồn nhân lực ngành thương mại điện tử
Theo thống kê của Vietnamworks.com, nhu cầu tuyển dụng của ngành TMĐT
đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm 2015, nhu cầu tuyển dụng của ngành này

đã tăng 2,043% so với năm 2014. Và hiện nay, các vị trí liên quan đến thương mại điện
tử (TMĐT) chiếm gần 4,9% trong tổng số nhu cầu trên Vietnamworks.com. Trong khi
đó, tỉ lệ tuyển dụng trong các ngành nghề “lúc nào cũng cần” như bán hàng cũng chỉ
chiếm 17,5%, marketing 12,5%, kế toán, kiểm toán 7,8%. Như vậy, dù chỉ mới bắt
đầu phát triển nhưng nhu cầu về nhân lực trong lĩnh vực TMĐT giữ tỷ trọng không
nhỏ trên thị trường tuyển dụng và đang có xu hướng gia tăng.
Trên thực tế, các doanh nghiệp (DN) tìm kiếm ứng viên chuyên về TMĐT đang
tăng mạnh. Vào Google, gõ cụm từ “nhân viên bán hàng online”, chỉ trong vòng 0,14
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

14


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
giây sẽ hiện lên 18,3 triệu thông tin cần tuyển nhân viên bán hàng trực tuyến của các
DN. Trên rất nhiều trang tìm việc trực tuyến như vietnamworks.com,
timviecnhanh.com, jobs.vn, chonviec.com,... các thông tin tìm kiếm chuyên viên về
TMĐT đăng tải khá nhiều.
Theo các chuyên gia, nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực TMĐT sẽ tiếp tục phát
triển trong thời gian tới. Trong chiến lược phát triển, Chính phủ đã chọn phát triển
nguồn nhân lực TMĐT là một trong những ưu tiên.
Khác với thương mại truyền thống, TMĐT là phương thức thương mại dựa trên
công nghệ- công nghệ thông tin và truyền thông. Chính sự phát triển mạnh mẽ của ứng
dụng công nghệ thông tin nên đã ra đời TMĐT. TMĐT được tiến hành trong môi
trường công nghệ thông tin (CNTT) và dựa trên những nguyên tắc, yêu cầu riêng (về
giao dịch thanh toán, an toàn bảo mật, hành langpháp lý …).Vì vậy những người làm
TMĐT cần phải nắm vững những vấn đề liên quan đến thương mại và cả công nghệ
thông tin. Tiếp cận theo khuynh hướng quản trị kinh doanh nhấn mạnh trọng tâm trang
bị các kỹ năng và kiến thức thuộc lĩnh vực kinh tế- kinh doanh, khoa học xã hội- hành

vi cho người học và hình thành trên nền chương trình đào tạo QTKD, điều chỉnh và
sửa đổi cho thích hợp với TMĐT. Ngoài ra người học còn được trang bị các kỹ năng,
kiến thức để khai thác, sử dụng các thiết bị phần cứng, phần mềm trong CNTT để phục
vụ cho TMĐT chứ không trang bị các kiến thức chuyên sâu về CNTT. Theo khuynh
hướng này các chương trình đào tạo chủ trương đảm bảo sự hài hòa kiến thức và kỹ
năng thuộc cả 3 lĩnh vực kinh tế- kinh doanh, khoa học xã hội và CNTT. Để xây dựng
đội ngũ đào tao TMĐT theo cách tiếp cận lien ngành, các cơ sở đào tạo thành lập đội
ngũ giảng dạy liên bộ môn, liên khoa gồm các giảng viên thuộc các lĩnh vực quản trị
kinh doanh, marketing và công nghệ thông tin.
3. Thực trạng nguồn nhân lực ngành thương mại điện tử và những thách thức
Nhu cầu đang tăng cao nhưng vấn đề đào tạo lại là một thách thức lớn cho
ngành này. Theo kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2011-2015, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đặt mục tiêu 80% DN có trang thông tin điện tử, cập nhật thường
xuyên thông tin hoạt động và quảng bá sản phẩm của DN. Nhưng để thực hiện được
điều này, mỗi DN cần ít nhất một kỹ thuật viên TMĐT.
Như vậy, đến năm 2015, để phục vụ cho hoạt động cho DN cũng như đáp ứng
được nhu cầu phát triển TMĐT, cả nước cần phải có khoảng 374.640 kỹ thuật viên.

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

15


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”
Với tình hình đào tạo của nước ta thì mức cung không đủ để đáp ứng nhu cầu của thị
trường tuyển dụng.
PGS-TS. Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Hiệu trưởng Trường Đại học Mở TP.HCM, trong
một cuộc hội thảo bàn về việc đào tạo nhân lực TMĐT gần đây, cho biết, hiện nay, cả
nước chỉ có hai trường mở chuyên ngành TMĐT, các trường khác chỉ dạy môn TMĐT

trong hệ thống các môn học của ngành kinh tế. Với thực trạng đào tạo này, số lượng
nhân lực chuyên về TMĐT trong cả nước chỉ có thể đáp ứng 0,1% nhu cầu.
Cùng nhận định này, ông Nguyễn Sỹ Dũng, Trưởng Khoa TMĐT, Trường Đào
tạo, Bồi dưỡng Cán bộ công thương Trung ương, nói thêm: “Nguồn nhân lực cho
TMĐT hiện nay không những thiếu về số lượng mà còn cả về chất lượng. Sinh viên ra
trường có kỹ năng về TMĐT nhưng kiến thức, kinh nghiệm về giao thương hay trình
độ ngoại ngữ còn yếu và chưa thể đáp ứng ngay được nhu cầu của các DN.
4. Phương thức đào tạo
Phương thức đào tạo TMĐT chủ yếu hiện nay vẫn là phương thức giảng dạy và
học tập tập trung trên lớp. Tuy nhiên, có một số trường bắt đầu áp dụng phương thức
đào tạo trực tuyến vào công tác giảng dạy và học tập TMĐT.
Giảng viên: Số lượng giảng viên tăng, phần lớn các giảng viên giảng dạy các
môn liên quan đến TMĐT đều là các giảng viên chuyên ngành khác như CNTT hay
QTKD được bồi dưỡng thêm về TMĐT hay tự nghiên cứu để giảng dạy TMĐT.
Chương trình đào tạo: căn cứ vào hai cách tiếp cận cơ bản trong đào tạo TMĐT
của các nước trên thế giới (như Canada, Hoa Kỳ…) tạm chia các môn học về thương
mại điện tử thành 2 nhóm môn học chính là công nghệ và kinh tế.
Giáo trình: ngoài giảng viên, giáo trình có ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào
tạo. Hiện nay giáo trình TMĐT do các cơ sở đào tạo tự quyết định, các giảng viên dạy
môn học TMĐT tự biên soạn, thường sử dụng giáo trình có sẵn của nước ngoài hoặc
sử dụng lại giáo trình của các trường ĐH khác biên soạn. Trong đó sách, tài liệu
TMĐT của các nước ngoài về VN từ nhiều nguồn khác nhau như: Giảng viên du học
nước ngoài cầm tay về, tham khảo qua mạng hay của các trường ĐH nước ngoài tặng.

Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

16


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở

nước ta hiện nay”
5. Các đề xuất

Việc thành lập bộ môn chuyên về TMĐT cũng là một hướng đi mới cần được
nghiên cứu và xem xét. Bởi vì việc thành lập riêng bộ môn TMĐT trước hết sẽ giúp
hình thành đội ngũ giảng viên chuyên trách giảng dạy, thứ hai là thuận tiện cho việc
xây dựng nội dung chương trình đào tạo.
Trình độ đào tạo và vai trò của các trường đại học: thời gian đào tạo dài, các lớp
ngắn hạn và dạy nghề chỉ giải quyết tạm thời trong thời gian còn thiếu nhân lực, không
thể đem lại cho người học những kiến thức và kỹ năng đầy đủ để tổ chức hoạt động
TMĐT hiệu quả tại doanh nghiệp, vì vậy đào tạo chính quy dài hạn tại các trường đại
học mới là cứu cánh cho nguồn nhân lực của TMĐT.
Thực hành trong giảng dạy TMĐT: cơ sở vật chất cho đtao TMĐT và cho
nghiên cứu về TMĐT của giảng viên còn rất thiếu, cần xây dựng thêm phòng thực
hành chuyên cho thương mại điện tử, phát triển các phần mềm sàn giao dịch ảo để
tránh dạy chay.
Giảng viên: Đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng nguyên nhân:
+ Do đặc điểm của ngành học đòi hỏi kiến thức QTKD, kinh tế, vừa đòi hỏi
kiến thức về CNTT. Chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn.Tình trạng này cần
được sự quản lý của nhà nước có giải pháp tích cực để tháo gỡ.
+ Nhận thức về sự cần thiết đào tạo TMĐT tại các trường chưa cao nên đầu tư
chuẩn bị đội ngũ triển khai chậm, các trường phải đẩy nhanh tiến độ đào tạo giảng viên
TMĐT hơn.
Đưa sinh viên thực tập tại các DN là thành viên của các sàn TMĐT như DKT,
Vật giá, Mua chung, Alibaba.com, amazon.com... Đây là cách để sinh viên làm quen
với môi trường giao thương thực tế cũng như tích lũy kinh nghiệm, đáp ứng được yêu
cầu tuyển dụng của các DN.
Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc học lý thuyết tại trường với các doanh
nghiệp cung cấp công nghệ, giải pháp cho TMĐT, tránh tình trạng học sai lệch, học 1
đằng làm 1 nẻo.


Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

17


Đề tài: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”

KẾT LUẬN
Việt Nam là một nước có dân số đông với lực lượng lao động lớn, nhưng thực tế
hiện nay thì trình độ chuyên môn còn thấp, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu, sự phân
bố lao động chưa đồng đều, gây lãng phí nguồn lực. Mặt khác, năng lực sử dụng ngoại
ngữ của nhân lực Việt Nam chưa cao… Thực trạng nguồn nhân lực và công nghệ nước
ta tuy còn nhiều hạn chế, nhưng cũng đã có những mặt tích cực như bản tính cần cù,
chịu khó của người Việt, số lượng lao động được đào tạo ngày một tăng, sự phù hợp
trong việc đưa nguồn lực vào quản lý, sản xuất…Nguồn nhân lực đang dần thích ứng
để đáp ứng những yêu cầu hiện nay của đất nước: trình độ tay nghề, khả năng đào tạo,
trình độ quản lý, làm việc nhóm, nâng cao khả năng ngoại ngữ,…
Đi kèm với những thực trạng là những vấn đề cần giải quyết để nguồn nhân lực
càng trở nên tốt hơn trong sự nghiệp CNH-HĐH của nước ta. Trước hết đó là việc giải
quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, tiếp
đến là tăng cường những ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, khuyến khích
sáng tạo, có những chính sách động viên nguồn lực; cân bằng nguồn lực giữa các vùng
miền, tránh tình trạng nguồn lực tập trung đông ở thành thị nhưng không có việc làm,

Trong điều kiện nước ta hiện nay, nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan
trọng, quyết định lớn tới sự phát triển về các mặt từ kinh tế cho đến chính trị, văn hóa
xã hội...
Thông qua các lần đại hội Đảng, Đảng ta cũng đã đưa ra những quan điểm để

phát huy nguồn nhân lực như gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ
hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa hiện đại
đồng thời cũng phát huy những giá trị truyền thống. Bên cạnh đó là nâng cao chất
lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, và để có nguồn nhân lực tốt trước
hết phải có chiến lược phát triển con người: đổi mới nền giáo dục quốc dân cùng với
việc đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội cho nhân dân cũng là vấn đề cần thiết.
Trong điều kiện đẩy mạnh CNH – HĐH và hội nhập quốc tế của nước ta hiện
nay, phát triển nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế
cạnh tranh quốc gia.
Nhóm 8
Nhóm 8 - Lớp HP: 1602RLCP0111

18



×