Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đề tài SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.06 KB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong
trường ĐHSP Hà Nội, khoa Ngữ văn, bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại,
phòng Sau đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS TRẦN ĐĂNG XUYỀN, người đã tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã động viên, tạo
điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về thời gian và kiến thức
nên chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được ý kiến của thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 9, năm 2013
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Hà


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ nổi lên như một “hiện tượng lạ”,
“một luồng gió mới” (Nguyên Ngọc) của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Từ tập
Ngọn đèn không tắt khiêm nhường lặng lẽ, qua Cánh đồng bất tận khuấy
động văn đàn, đến Gió lẻ và chín câu chuyện khác hay Sông nóng hổi mới ra
mắt bạn đọc, tác phẩm của nhà văn nữ đất mũi Cà Mau này được nhắc đến rất
nhiều trên các báo, tạp chí, các phương tiện truyền thông; được thẩm định qua
các giải thưởng trong nước và khu vực. Nguyễn Ngọc tự so sánh sáng tác của
mình với “quả sầu riêng” và đã không ít lần “sản vật” đặc trưng của Nam
Bộ ấy đã vượt qua địa hạt vùng miền, quốc gia, đến với độc giả khắp nơi, kể


cả nước ngoài. Được đánh giá cao trong giới chuyên môn, được nhiều nhà
xuất bản săn đón, lọt vào tầm ngắm của không ít nhà đạo diễn sân khấu điện
ảnh, tác phẩm của nữ văn sĩ này thực sự có được vị trí chắc chắn trong bức
tranh văn học hiện nay.
1.2. Bên cạnh những cây bút trẻ như Phạm Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh, Phạm Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu… người đọc tìm đến và yêu mến
Nguyễn Ngọc Tư bởi giọng văn của chị trong trẻo, mộc mạc, ẩn sau đó là một
tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn trước cuộc sống và con người quê hương
chị - vùng đất Cà Mau - cực Nam của Tổ quốc. Ở đây, người đọc cũng dễ
dàng nhận ra những nét văn hóa đặc trưng của vùng đất Nam Bộ trong mỗi
trang viết của chị. Từ cách xưng hô, từ tên đất, tên địa danh, tên người, đến
tâm lí, tính cách của nhân vật... đều “rặt Nam Bộ”. Qua các trang viết của chị
người đọc như được tận mắt chứng kiến những dòng sông rộng lớn, những
con kênh, những cánh đồng, những miệt vườn trù phú rộng mênh mông. Trên
không gian đó là những sinh hoạt hàng ngày, những hoạt động sản xuất của
các cư dân nơi đây gắn với số phận của những người dân nghèo nhưng đôn
hậu, chất phát
1.3. Sáng tạo văn học là một hoạt động văn hoá. Bởi vì mọi sáng tác
1


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

văn học xét đến cùng cũng đều nhằm nhằm tái hiện những hoạt động sống của
con người ở mỗi vùng miền, quốc gia, dân tộc. Do đó, điều dễ nhận thấy là
mỗi tác phẩm văn học của một tác giả thuộc một vùng miền, dân tộc khác
nhau đều mang dấu ấn riêng của cộng đồng người. Trong đó, văn hóa là một
trong những yếu tố quan trọng làm nên sự khác biệt cơ bản này. Vì vậy, khi
nghiên cứu văn học từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học sẽ thấy được vai trò
sáng tạo văn hoá của văn học qua những hình tượng nghệ thuật, qua xây dựng

những mô hình nhân cách văn hoá đẹp cho xã hội, cho dân tộc. Đồng thời,
nghiên cứu văn học nhìn từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học sẽ góp phần
khẳng định vai trò vừa lưu giữ, chuyển tải vừa thẩm định và lựa chọn văn hoá
của văn học.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN
NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA với hi vọng sẽ đóng góp thêm một
vài ý kiến để tiến tới có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn trẻ và tiêu biểu của văn
xuôi đương đại. Chị thực sự xuất hiện và gây được sự chú ý trên văn đàn từ
năm 2000, sau khi đạt giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 lần thứ hai do Nhà
xuất bản trẻ, Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ tổ chức.
Từ đó cho đến nay, Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều, viết hay với một khối lượng
tác phẩm đáng kể; tập trung ở các thể loại chủ yếu như truyện ngắn, tản văn,
tạp văn. Gần đây cuốn tiểu thuyết đầu tay Sông của chị đã ra đời. Có thể nói,
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đã dành được sự ưu ái, quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu phê bình cũng như độc giả trên khắp mọi miền Tổ quốc và cả
nước ngoài. Nhiều bài viết được đăng trên các báo uy tín như: Tuổi trẻ, Thanh
niền, Văn nghệ, Tạp chí nghiên cứu văn học, Văn nghệ đồng bằng Sông Cửu
Long, và trên những trang web báo mạng... Sau đây, chúng tôi chỉ dẫn ra một

2


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

số nhận xét tiêu biểu:
Khi tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt đoạt giải của Hội Liên hiệp
văn học nghệ thuật Việt Nam, cái tên Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu được các nhà

văn lớp trước như Nguyễn Quang Sáng, Chu Lai, Nguyên Ngọc, Dạ Ngân...
để ý đến. Trong lời tựa tập truyện này Nguyễn Quang Sáng đã có nhận xet rất
xác đáng khi cho rằng: “Với giọng văn mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ đời
thường, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc,
hương vị của mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc – mũi Cà Mau, của những con
người tứ xứ, về mũi đất của rừng, của sông nước, của biển cả mà cha ông ta
đã dày công khai phá... Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người
lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa đựng bên trong cả một tâm hồn vừa nhân
hậu, vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế” (Lời tựa tập Ngọn đèn không tắt,
Nxb Trẻ, 2000, tr.03).
Không ngần ngại, Chu Lai khẳng định: “Nguyễn Ngọc Tư là cây bút
tiêu biểu của miền Tây Nam Bộ, một tài năng văn học hiếm có hiện nay của
văn học Việt Nam”. Huỳnh Công Tín gọi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ
Nam Bộ và đánh giá: “Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người
Nam Bộ với những cái tên hết sức bình dị, chân chất kiểu Nam Bộ... Họ mang
những tâm tư, nguyện vọng hết sức đời thường. Đó là những người sinh sống
bằng những ngành cũng gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ. Đặc biệt
vùng đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị được dựng lại bằng
chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị”.
Tác giả còn chỉ ra truyện của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu đề cập đến số phận
buồn thương của những con người nhỏ bé, chân chất sống cuộc đời bình dị
nhưng nhiều bi kịch, đắng cay (Nguyễn Ngọc Tƣ: Nhà văn trẻ Nam Bộ, tạp
chí Văn nghệ ĐBSCC, 15/04/2006).
Về tác phẩm Cánh đồng bất tận, Hữu Thỉnh trong cuộc trao đổi cùng
Trung Trung Đỉnh và Chu Lai nhấn mạnh: “Nguyễn Ngọc Tư đã có sự bứt

3


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA


phá rất ngoạn mục, tự vượt lên chính mình và tạo nên bất ngờ thú vị cho giới
nhà văn... Cánh đồng bất tận viết về những con người Nam Bộ với tính cách
đặc thù: chân thực, chất phác, hồn nhiên và bản năng”. Khi được hỏi: “Điều
gì ở Cánh đồng bất tận thuyết phục ông nhất, với tư cách là một nhà văn”,
Hữu Thỉnh trả lời: “Đó là không khí của tác phẩm: cuộc sống Nam Bộ, hơi
thở Nam Bộ, nhân vật Nam Bộ, ngôn ngữ Nam Bộ thấm đẫm, nồng nàn trong
“cánh đồng”. Đó là điều Nguyễn Ngọc Tư rất giỏi trong các truyện trước
đây và càng khẳng định bản sắc và bản lĩnh vượt trội trong tác phẩm” (Hà
Linh – Chia sẻ cùng Nguyễn Ngọc Tƣ và Cánh đồng bất tận,
., 2006).
Có rất nhiều bài báo có giá trị khoa học thể hiện niềm yêu mến và tâm
huyết của các tác giả dành cho Nguyễn Ngọc Tư. Tiêu biểu và đáng kể nhất
phải nói tới các bài viết của GS Trần Hữu Dũng trên web riêng Viet-studies,
ông thiết kế để đăng tải các bài viết và tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư. Ông
đã nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư một cách tường tận và thấu đáo
trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Ông đặc biệt đề cao tài năng
sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Tư và đánh giá đó là nét đặc
sắc riêng không thể trộn lẫn với bất kỳ nhà văn nào khác. Ông gọi Nguyễn
Ngọc Tư là “đặc sản miền Nam”.
Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tư cùng sáng tác của chị còn là đề tài hấp
dẫn của các công trình luận văn, luận án. Tiêu biểu như:
Luận văn Thạc sĩ Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ
của Nguyễn Thị Kiều Oanh, ĐHSP Hà Nội, 2006.
Luận văn Thạc sĩ Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong truyện
Nguyễn Ngọc Tƣ của Phạm Thị Thái Lê, ĐHSP Hà Nội, 2007
Báo cáo khoa học Khế ƣớc của tự nhiên và kiểu xây dựng nhân vật
nữ trong tập truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ của Lê Hải
Vân, ĐHSP Hà Nội, 2007.
Luận văn Thạc sĩ Đồng bằng Nam Bộ trong Hƣơng rừng Cà Mau

4


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

của Sơn Nam và Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ của Trần Thị
Thu Hương, ĐHSP Hà Nội, 2008.
Luận văn Thạc sĩ Đặc điểm truyện ngắn hai cây bút nữ Phan Thị
Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tƣ của Ngô Thị Diễm Hồng, ĐHSP Hà Nội, 2009.
Nhìn chung các bài viết nghiên cứu, đánh giá, nhận xét về sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư tương đối nhiều và phong phú các ý kiến. Tuy nhiên vẫn
chưa có công trình nào tiếp cận nghiên cứu SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN
NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn
lựa chọn này với mong muốn sẽ cố gắng đi sâu tìm hiểu hành trình sáng tác
của nhà văn một cách khách quan, khoa học và toàn diện hơn.
3. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Lựa chọn đề tài SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA, chúng tôi cố gắng làm rõ những nét đặc sắc của văn hoá
Nam Bộ được thể hiện trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư.
Đồng thời chỉ ra những nét kế thừa và đóng góp mới của chị khi viết về mảnh
đất Nam Bộ so với các nhà văn khác.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm văn hoá, các thành tố văn hoá và mối
quan hệ giữa văn hoá và văn học, luận văn đi sâu vào nghiên cứu sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư dưới góc nhìn văn hoá. Từ vấn đề trung tâm, chúng tôi mở
rộng các mặt biểu hiện cơ bản của sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong tính
thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Triển khai luận văn này, chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư, trong đó trọng tậm tập trung vào 6 tập truyện ngắn và một
cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư. Cụ thể như sau:
Các tập truyện ngắn:

1. Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2000)
2. Biển ngƣời mênh mông (Tập truyện ngắn, NXB Kim Đồng, 2003)
3. Giao thừa (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2003)
4. Cánh đồng bất tận (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2005)
5


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

5. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2008)
6. Khói trời lộng lẫy (Tập truyện ngắn, NXB Thời đại, 2010)
Tiểu thuyết: Sông (Tiểu thuyết, NXB Trẻ, 2012)
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: vận dụng những hiểu biết về ngôn
ngữ học, tự sự học, thi pháp học hiện đại... kết hợp với cảm thụ truyền thống
để khảo sát và nhận định tác phẩm theo quan niệm, hiểu biết của mình.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để chỉ ra những đặc điểm giống
nhau cũng như những nét riêng, tiêu biểu về văn hoá Nam Bộ được thể hiện
trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh,
đối chiếu sáng tác của chị với một số nhà văn lớp trước và đương thời. Từ đó,
khẳng định đóng góp của chị với nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Phương pháp thống kê, phân loại: khảo sát các hiện tượng lặp lại ở
một số các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm và dựa vào tần
số xuất hiện của các yếu tố đó để khái quát và hệ thống thành những đặc điểm
riêng, nổi bật dưới góc nhìn văn hóa trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khảo sát về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư từ
góc nhìn văn hoá - văn học. Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra
những kiến giải mới khác với nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó mà
chỉ vận dụng những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ

thể bước đầu theo một hướng mới. Hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn
sẽ đem lại một cái nhìn khái quát, đầy đủ hơn về sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư. Từ đó thấy được những giá trị nghệ thuật, những tìm tòi, đổi mới, vận
động và phát triển của văn chương chị mang đậm bản sắc văn hóa của vùng
quê Nam Bộ.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn
được triển khai thành ba chương chính :
6


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Chương 1 : Giới thuyết về nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá và
những yếu tố hình thành văn hoá Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Chương 2 : Những biểu hiện của văn hoá Nam Bộ trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư
Chương 3 : Hệ thống hình tượng, ngôn ngữ và giọng điệu mang đậm
sắc thái Nam Bộ

7


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: GIỚI THUYẾT VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DƢỚI
GÓC NHÌN VĂN HÓA VÀ NHỮNG YẾU TỐ HÌNH THÀNH VĂN
HÓA NAM BỘ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
1. Giới thuyết về nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn văn hoá

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Văn hoá
Văn hoá là một khái niệm đã có từ lâu đời và có nội hàm rất rộng. Theo
A.L. Kroeber và C.L. Kluckhohn trong cuốn Văn hóa: cái nhìn phân tích về
khái niệm và định nghĩa có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hóa. Sở dĩ số
lượng định nghĩa văn hóa phong phú như vậy vì một phần văn hóa là một
phạm trù hết sức rộng. Phần khác, mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ mục đích
và phương pháp nghiên cứu của mình đều có quyền đưa ra một định nghĩa
thích hợp. Sau đây, chúng tôi xin phép điểm qua một số định nghĩa về văn
hóa tiêu biểu. Cụ thể như:
Theo Từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê (chủ biên) định nghĩa:
“Văn hoá là:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Kho tàng văn hoá dân tộc. Văn hoá
Phương Đông. Nền văn hoá cổ.
2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầucủa đời sống
tinh thần (nói tổng quát). Phát triển văn hoá. Công tác văn hoá
3. Tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát). Học văn hoá. Trình độ
văn hoá.
4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Sống có
văn hoá. Ăn nói thiếu văn hoá.
5. Nền văn hoá của một thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở
một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống
8


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

nhau. Văn hoá rìu hai vai. Văn hoá gốm màu. Văn hoá Đông Sơn.
Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh,

1997, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội của mình”. (Dẫn theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,
nguồn:hptt://vi.wikipedia.org
Theo Đỗ Lai Thuý trong Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu ngƣời văn
hoá, NXB Văn hoá Thông tin, trang 15 thì theo nghĩa rộng: “Văn hoá là tất
cả những gì phi tự nhiên”. Tác giả cũng cho rằng, đây là định nghĩa khái quát
nhất, rộng lớn nhất.
Định nghĩa về văn hóa có tính chất cấu trúc luận, tác giả Phan Ngọc
cho rằng: “Văn hoá là quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng
và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của
một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét
khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những
nền văn hoá khác nhau là độ khúc xạ”.
UNESCO – Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc đã đưa ra
định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính
cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng”.
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá: “Văn
hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá
thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và
phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
9



Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hoá là một mặt trận; Xây dựng và
phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí
cách mạng và sự kiên trì, thận trọng”.
Tóm lại, dù có nhiều khái niệm khác nhau về văn hoá, nhưng tựu trung
lại, văn hoá có những đặc điểm cơ bản sau: Văn hoá là một hoạt động sáng
tạo, mang tính lịch sử chỉ riêng con người mới có. Hoạt động sáng tạo đó bao
trùm mọi ứng xử của con người với nhau và của con người với tự nhiên - xã
hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: đời sống vật chất, đời sống xã
hội, đời sống tinh thần. Những hoạt động sáng tạo đó đã đạt được thành tựu
của các giá trị văn hoá, được bảo tồn và khai thác phát huy từ thế hệ này sang
thế hệ khác bằng con đường giáo dục (hiểu theo nghĩa rộng). Văn hoá là thể
hiện của mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại, tạo ra một
kiểu lựa chọn riêng của tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác,
một cá nhân khác, tạo thành những nhân cách văn hoá (cá nhân), những nền
văn hoá khác nhau (cộng đồng).
Dù hiểu theo cách nào thì văn hoá cũng đều là thành quả, là sản phẩm
độc đáo của quá trình lịch sử do cá nhân và cộng đồng người tạo nên. Trong
phạm vi vấn đề được đề cập trong luận văn này, chúng tôi nghiêng về cách
hiểu văn hoá gắn liền với bản sắc văn hoá theo định nghĩa của Phan Ngọc và
của UNESCO.
1.1.2. Bản sắc văn hoá
Văn hoá là sản phẩm, là diện mạo của cá nhân và cộng đồng. Vì thế nói
tới văn hoá không thể không nhắc đến vấn đề bản sắc văn hoá, tức là cái “tinh
tuý”, cái cốt lõi của văn hoá trong quá trình phát triển của lịch sử.
Bản sắc văn hoá, theo Ngô Đức Thinh, là “một tổng thể các đặc trưng
của văn hoá, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử của
dân tộc, các đặc trưng văn hoá ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu
tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc

thái văn hoá, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hoá ấy. Nếu bản sắc
10


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

văn hoá là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó
tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn”. (Dẫn theo Ngô Đức Thịnh (2011),
Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới
và hội nhập). Cũng theo Dương Phú Hiệp (chủ biên), Cơ sở lí luận và phƣơng
pháp luận nghiên cứu văn hoá và con ngƣời Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia – Sự thật Hà Nội, 2012, trang 40, thì “Bản sắc riêng của mỗi nền/dạng/kiểu
văn hoá thường được biểu hiện là những nét đặc thù và độc đáo thể hiện trong
các hiện tượng văn hoá hoặc các sản phẩm của văn hoá, quy định bộ mặt của
mỗi nền văn hoá. Ngoài ra, phần đáng kể của nó lại được thể hiện ngay trong
hoạt động sống bình thường, hàng ngày của các cộng đồng người. Tuy nhiên,
trong quá trình hội nhập, giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa, bản sắc đó
luôn có thêm những giá trị mới được hình thành và tiếp tục được bồi tụ để định
hình và lộ diện, phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử. Các giá trị mang bản sắc
văn hóa của từng tộc người, từng dân tộc không phải ngẫu nhiên được hình
thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị
Như vậy, bản sắc văn hoá được hiểu là những gì tinh hoa, bền vững của
một nền văn hoá. Nó mang ý nghĩa chỉ cái cốt lõi, chỉ những đặc trưng riêng
của một cộng đồng văn hóa và là yếu tố cơ bản để phân biệt giữa một nền văn
hoá này với một nền văn hoá khác. Vì thế, dấu ấn bản sắc văn hoá của mỗi
dân tộc, mỗi vùng miền sẽ được hiển hiện trong mọi sinh hoạt văn hoá của
cộng đồng, trong đó có văn học.
1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học
1.2.1. Văn học trong văn hoá
Văn học là một bộ phận của văn hoá. Văn học, cùng với triết học, chính

trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán... là những thành tố hợp thành cấu
trúc tổng thể bao trùm lên tất cả là văn hoá. Vì vậy, cũng như các thành tố kia,
văn học luôn chịu sự chi phối trực tiếp (dù vô thức hay có chủ ý) “từ môi
trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một
dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời
11


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

đại và một cộng đồng dân tộc” (Trần Lê Bảo, (2011), Giải mã văn học từ mã
văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội).
Nếu văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước
thế giới thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh
động nhất. Để có được những thành quả quả đó, văn hoá của một dân tộc
cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm,
chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn
học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị
đã hình thành. Chính vì vậy, có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng
ngôn từ nghệ thuật. Như nhà nghiên cứu Phương Lựu khẳng định: “Nếu nghệ
thuật là một loại văn hoá đặc biệt, thì lấy ngôn ngữ với tư cách là biểu hiện
đầu tiên, cơ bản, vĩ đại của văn hoá nhân loại làm chất liệu, văn học chính là
gương mặt tiêu biểu cho văn hoá tinh thần của mỗi dân tộc”. (Phương Lựu
(chủ biên), Giáo trình Lí luận văn học, tập 1, NXB Đại học Sư phạm, 2010)
Ở một mặt khác, văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm
gương của văn hoá. Và khi nhìn văn học từ góc độ văn hóa học một cách cặn
kẽ thì “nếu văn học có chức năng phản ánh hiện thực thì cũng không thể
phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có thể phản ánh thông qua “lăng kính” văn
hóa, thông qua “bộ lọc” các giá trị văn hóa”.
1.2.2. Văn hoá trong văn học

Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ biện chứng, không chỉ văn
học chịu sự tác động trực tiếp của văn hoá, mà ngược lại văn hoá cũng chịu sự
tác động trở lại của văn học ở một số phương diện nhất định.
Nhờ có văn học, những sắc màu văn hoá được tái hiện một cách sinh
động và sắc nét, không chỉ ở bề mặt – lớp văn hoá dễ nhận biết (phong tập,
tập quán, sinh hoạt, các lễ hội...) mà nó còn thể hiện cả tầng sâu văn hoá thể
hiện ở tâm lí cộng đồng, tính cách, ứng xử của con người với con người và
con người trước thiên nhiên. Chính vì chịu sự tác động trở lại của văn học này
mà một số tác phẩm văn học dù không chủ định viết về vấn đề văn hoá nhưng
12


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

người đọc vẫn nhận thấy đậm chất văn hoá trong từng trang viết (Sáng tác của
Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Tô Hoài...).
Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá.
Trong tác phẩm văn học ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và
tái hiện của nhà văn. Ta bắt gặp bức tranh văn hoá dân gian trong các câu tục
ngữ, ca dao, thành ngữ, trong thơ Hồ Xuân Hương... Những nét đẹp văn hoá
truyền thống của dân tộc (nghệ thuật pha trà, thú chơi chữ...) được tái hiện
trong truyện ngắn và tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Những luật tục, hủ tục (khao
vọng, tục ma chay..) trong phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố. Những tín
ngưỡng, phong tục (đạo mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục lên đồng, hát chầu
văn, tục ma chay, cưới hỏi, tục thờ cây, thờ thành hoàng..) trong tiểu thuyết
Mẫu thƣợng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh...
Văn học phản ánh văn hoá theo cách riêng mang tính đặc thù của văn
học, đó là tôn vinh những giá trị tốt đẹp và phê phán những phản giá trị (nếu
có) trong văn hoá. Bằng cách này, văn học đã góp phần “thanh lọc” giữ lại
những giá trị văn hoá tốt đẹp. Từ đó văn học có tác động tích cực trở lại đối

với đời sống văn hoá cộng đồng, giúp cộng đồng nhận thức, gìn giữ và phát
huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình; đồng thời tẩy chay,
bài trừ những biểu hiện phản văn hoá.
Ngoài ra, văn học không chỉ là phương thức thể hiện, tồn tại của văn
hoá mà còn là phương tiện cất giữ, bảo lưu văn hoá bằng chất liệu có tính
năng động và bền vững, đó là ngôn từ. Thông qua ngôn từ nghệ thuật, người
ta có thể thấu đáo hơn giá trị văn hoá của từng dân tộc, từng thời đại. Bởi vì,
“văn chương của một dân tộc cũng như toàn thể nhân loại từng trải qua
nhiều chặng đường tìm kiếm, lựa chọn, đấu tranh và sáng tạo để hình thành
những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa
là nơi định hình những giá trị đã hình thành”. (Dẫn theo, Tống Thị Hạnh Chi,
Tiểu thuyết Nguyễn Xuân khánh dƣới góc nhìn văn hoá, luận văn thạc sĩ,
ĐHSP HN 2012, trang 16).
13


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Tóm lại, giữa văn học và văn hoá luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Văn học là một bộ phận của văn hoá. Mọi sự biểu hiện của văn học xét
đến cùng, chính là sự thể hiện của văn hoá. Do vậy việc tìm hiểu văn học dưới
góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những
cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…, cách tiếp cận
văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ
thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn
hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn
ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và
hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị
hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
1.3. Sơ lƣợc về nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn văn hoá

Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là phương pháp đã xuất hiện khá
lâu trong nghiên cứu văn học ở trong và ngoài nước. Nhưng thành tựu nghiên
cứu đạt được từ phương pháp này gần đây mới thực sự được chú ý ở Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hoá không
đơn thuần là việc dùng văn hóa để giải thích văn học mà quan trọng hơn là
việc các nhà nghiên cứu văn học “vận dụng những tri thức về văn hóa để
nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm” ( Trần Nho Thìn,
VHTĐVN dưới góc nhìn VH, tr 18) và “đặt văn học vào bối cảnh rộng lớn
của văn hóa – xã hội, hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với
những hiện tượng văn hóa xã hội khác, từ đó làm nổi bật những sắc thái văn
hóa phong phú được thể hiện trong tác phẩm văn học; hoặc giải mã khám
phá những phù hiệu, biểu tượng hàm ẩn muôn vàn lớp nghĩa trầm tích của
văn hóa trong văn bản văn học cục thể”. (Trần Lê Bảo, (2011), Giải mã văn
học từ mã văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội, tr7) . Cùng với thời gian, sự ra đời
của các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu những
tác động và chi phối của văn hóa đã cho thấy tính ưu việt của nó so với các
cách tiếp cận tác phẩm văn học khác như góc nhìn thể loại, ...
14


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Tiêu biểu như:
1. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb.
2. Trần Ngọc Vương (1995), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
3. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn
văn hoá, Nxb Giáo dục, HN.
5. Trần Lê Bảo, (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb ĐHQG

Hà Nội
Nói như tác giả Trần Nho Thìn, trong cuốn Văn học trung đại Việt
Nam dƣới góc nhìn văn hoá: “Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới
góc nhìn văn hoá ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hoá trong đó
tác phẩm văn học ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn
giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người, cũng
như sự chi phối của các phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã
hội sống động, hiện thực.. . từng tồn tại trong một không gian văn hoá xác
định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, mô típ, hình
tượng xúc cảm, ngôn ngữ”. [Trần Nho Thìn, VHTĐVN dưới góc nhìn văn
hoá, NXB GD 2007, tr 9,10]
Mặt khác, với phương pháp này, chúng ta có thể “giải mã các hình
tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hoá lịch sử của chúng, đồng thời cũng
nhấn mạnh đến sự liên tục, tính chất mở của chúng trong không gian và thời
gian”. (Trần Nho Thìn, VHTĐVN dưới góc nhìn VH, tr10).
Như vậy, có thể tóm lược nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là
đặt tác phẩm văn học đó gắn với thời đại văn hoá mà nó ra đời, để từ đó giải
mã những chi phối của văn hóa thời đại đến việc xây dựng tác phẩm văn học.
2. Những yếu tố hình thành văn hoá Nam Bộ trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tƣ
2.1. Điều kiện tự nhiên và môi trƣờng sống
15


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên vùng đất Nam Bộ
Nam Bộ là vùng địa lí có nhiều nét riêng biệt. Đây là vùng đất nằm ở
cuối cùng của Tổ quốc về phía Nam, nằm trọn trong lưu vực hai dòng sông
lớn Đồng Nai và Cửu Long (thuộc hạ lưu sông Mê Kông). Nam Bộ được chia

thành hai bộ phận là miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ (Cà Mau là
một tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ). Đó là một vùng đất cửa sông, ven biển.
Chính vì thế, nét khu biệt của Nam Bộ chính là sự phong phú của hệ thống
sông, ngòi, kênh rạch. Miêu tả vùng này, vào đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức
đã dẫn: “Đất Gia Định nhiều sông, kênh, cù lao và bãi cát. Trong 10 người
đã có 9 người quen việc chèo thuyền, biết nghề bơi nước”... Chỗ nào cũng có
ghe thuyền hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc để đi chơi, đi thăm người thân
thích, chở gạo, củi buôn bán rất tiện lợi”.
Với một vị trí thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi, Nam Bộ có nhiều
nguồn tài nguyên: đất đai rộng lớn, phì nhiêu; nguồn nước dồi dào; khí hậu
nóng ấm quanh năm, ít có thiên tai, thời tiết thất thường. Ở đây, một năm chỉ
có hai mùa, sáu tháng mùa mưa và sáu tháng mùa khô, tạo nên nét đặc trưng
về thiên nhiên, mùa vụ và cách thức sinh hoạt của người dân Nam Bộ, khác
biệt với các vùng địa lí khác... Nói tới Nam Bộ là nói tới những cánh đồng tít
tắp tận chân trời, tới khung cảnh thiên nhiên nhiên rộng lớn, sông ngòi, kênh
rạch chằng chịt. GS. Lê Bá Thảo đã tính Nam Bộ có khoảng 5700 km kênh
rạch. Tất cả những yếu tố này đã góp phần quan trọng định hình cuộc sống và
văn hoá nơi đây.
So với các vùng địa lí khác thì Nam Bộ là vùng đất trẻ, được khai phá
muộn hơn (cách đây khoảng hơn 300 năm). Trước đó Nam Bộ là một vùng
đất gần như hoang hoá, có rất nhiều cá sấu và thú dữ. Vì thế có thể nói nơi
đây vẫn còn lưu giữ được nhiều nét tự nhiên, ít chịu sự tác động của con
người. Điều này đã được ghi dấu trong ca dao Nam Bộ :
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma
16


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA


(Dẫn theo Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trần Quốc Vượng (chủ biên),
NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, trang 284)
Với những đặc điểm tự nhiên trên, Nam Bộ trở thành miền đất hứa của
nhiều người đi mở đất, mở nước. Nhưng vốn là vùng đất mới khai phá còn
mênh mông và hoang sơ, bí hiểm nên bên cạnh những thuận lợi kể trên, thiên
nhiên Nam Bộ cũng có những khắc nghiệt, dữ dội, nhất là với người đi “mở
đất”. Họ đã phải vật lộn vất vả chống chọi với thiên nhiên để tìm kế mưu sinh.
Những thuận lợi và khó khăn của tự nhiên Nam Bộ không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình lao động mà còn ảnh hưởng đến đời sống văn
hoá, tinh thần của người dân, hình thành nên tính cách con người và in dấu
sâu đậm trong nhiều tác phẩm văn học viết về vùng đất này, trong đó có sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư.
2.1.2. Đặc điểm cư dân Nam Bộ
Như trên đã nói, Nam Bộ là vùng đất được khai phá muộn nên phần lớn
dân cư ở đây là những lưu dân. Họ đến từ nhiều vùng miền trong cả nước.
Một bộ phận đến từ miền Trung. Một bộ phận khác đến từ miền Bắc (nhất là
ở đồng bằng châu thổ sông Hồng). Một bộ phận là bà con dân tộc Khơmer có
nguồn gốc từ Cămpuchia. Một bộ phận là những người thuộc dân tộc Hoa
(nguồn gốc Hoa) và một số dân tộc thiểu số khác. Mỗi bộ phận lưu dân khi di
cư đến vùng đất mới, bên cạnh những dụng cụ sản xuất, kinh nghiệm sản
xuất, họ đều mang theo những nét văn hoá riêng của dân tộc mình. Trong quá
trình sinh sống, giữa các dân tộc không hề bài trừ nhau mà ngược lại luôn có
sự tiếp biến về văn hoá lẫn nhau. Điều đó đã tạo cho vùng Nam Bộ có sự đa
dạng và độc đáo về văn hoá.
Do đặc điểm tự nhiên của vùng Nam Bộ có rất nhiều sông ngòi, kênh
rạch chằng chịt nên ở đây “làng mạc được phân bố theo dạng kéo dài, lấy “kinh
mương” hay “lộ” giao thông làm trục. Dân cư ở hai bên kinh rạch hay con lộ,
mặt nhà đều quay ra lộ hay kinh mương”. (Nguyễn Phương Thảo, Văn hoá dân
gian Nam Bộ những phác thảo, NXB Văn hoá thông tin, trang 12). Cũng do
17



Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

“Làng Nam Bộ là loại hình làng khai phá tụ cư, thường trải dài theo những
đoạn tuyến sông, tuổi đời ít hơn làng Bắc Bộ và cấu trúc cũng lỏng lẻo hơn”
[Nguyễn Thừa Hỷ, Văn hoá VN truyền thống một góc nhìn, NXB VHTT và
truyền thông, 2011, tr485] nên quan hệ làng xã trong cộng đồng cư dân Nam Bộ
thiếu chất kết dính chặt chẽ. Đây là điểm khác biệt lớn so với các cư dân ở Bắc
Bộ. Mối quan hệ giữa người với người trong cộng đồng làng xã Bắc Bộ ngoài
quan hệ huyết thống (đi đâu trong làng cũng gặp họ hàng), quan hệ sản xuất, họ
còn chịu sự chi phối chặt chẽ của các luật lệ của làng. Các lệ làng mạnh đến nỗi
có những nơi, những lúc “Phép vua còn thua lệ làng” (Điều này được thể hiện
rõ nét, sinh động trong phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố). Ngược lại, ở Nam
Bộ ít chịu sự chi phối của các luật tục của làng. Điều này lí giải cho tính chất dân
chủ và bình đẳng trong cách đối xử của từng người với mọi người trong từng
cộng đồng dân cư ở Nam Bộ - một đặc tính mà các vùng miền khác khó có
được. Đặc biệt, khi quan hệ thân tộc không còn chặt chẽ nữa, sợi dây liên kết gắn
bó con người với con người là nghĩa tình. Trong quá trình sinh sống, họ luôn biết
gắn kết với nhau để tạo nên sức mạnh chống lại và vượt qua những khó khăn gặp
phải trong quá trình sản xuất và chinh phục thiên nhiên. Câu thành ngữ “Bán
anh em xa mua láng giềng gần” được thể hiện rõ nét trong vùng đất mới này.
2.2. Tiểu sử, con ngƣời nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư là một nữ nhà văn trẻ thuộc thế hệ hậu chiến, là Hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, trong một gia đình nông dân thuộc
tỉnh Bạc Liêu. Năm Nguyễn Ngọc Tư lên 4 tuổi, gia đình chị chuyển về xã
Tân Việt, huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau và sinh sống ở đó cho tới nay. Như
vậy Nguyễn Ngọc Tư vừa được sống ở Bạc Liêu, nơi có những miệt vườn
sum suê cây trái; lại vừa được sống và lớn lên ở Cà Mau, vùng đất gắn chặt

với từng con rạch, con kênh, dòng sông uốn khúc, với những cánh đồng mênh
mông chạy tít tắp phía chân trời. Có thể nói, đây là mảnh đất ươm mầm, bồi
dưỡng; cũng là nguồn cứ liệu quí giá, rất hữu ích cho con đường sáng tác văn
18


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

chương của chị.
Nguyễn Ngọc Tư xuất thân trong một gia đình lao động, có truyền
thống cách mạng, từ thế hệ nội, ngoại, ba mẹ Nguyễn Ngọc Tư đều là bộ đội
trong kháng chiến chống Mỹ. Ông Nguyễn Thái Thuận, cha đẻ của Nguyễn
Ngọc Tư là người hay làm thơ, viết báo. Có lẽ vì thế, chất văn chương, nghiệp
báo chí đã ngấm sâu vào máu thịt của chị. Hơn nữa, quê hương Cà Mau nhiều
sông, lắm rạch, phong cảnh hữu tình với những cánh đồng thẳng cánh cò bay,
với những rừng tràm ngào ngạt, rừng đước xanh bạt ngàn... đã góp phần quan
trọng trong sự hình thành văn phong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Không
chỉ vậy, Cà Mau còn là vùng đất mang đậm bản sắc văn hóa Nam Bộ, miền
Tây sông nước. Ở đây, những câu hò, câu vọng cổ, cải lương... khoan thai
theo nhịp mái chèo cũng đã thổi hồn vào trong văn chương chị đầy lãng mạn,
trữ tình, độc đáo.
Tuổi thơ của Nguyễn Ngọc Tư không được may mắn như các bạn cùng
trang lứa. Vì hoàn cảnh gia đình: ông ngoại bệnh nặng, kinh tế gia đình khó
khăn, neo người; khi học xong lớp 9 chị phải nghỉ học giữa chừng. Ở nhà
chăm sóc ông ngoại và phụ bố mẹ làm việc nhà, tuy vất vả nhưng bù lại cho
chị có cái nhìn đằm sâu hơn với con người, với cuộc đời. Có lẽ, đó cũng là
một phần lý do khiến sau này chị viết nhiều, viết hay về số phận của những
con người chân chất, tình nghĩa mà nghèo khổ?
Ở một mặt khác, với tài năng thiên bẩm và năng khiếu văn chương
(Nguyễn Ngọc Tư đã từng đạt giải nhì cuộc thi học sinh giỏi môn văn cấp tỉnh

năm học lớp 9), Nguyễn Ngọc Tư luôn nỗ lực tự học. Thêm vào đó là khả
năng quan sát tinh tế, nhạy bén trước những biến đổi của các hiện tượng trong
đời sống và một tình yêu, gắn bó sâu đậm với quê hương Cà Mau - vùng đất
tận cùng phía Nam của Tổ quốc. Chính những yếu tố này đã cùng hòa quyện
với tình yêu sâu sắc của Nguyễn Ngọc Tư dành cho mảnh đất phương Nam
quê hương, để rồi tất cả những gì thân thuộc nhất của Nam Bộ đã đi vào các
sáng tác của chị một cách rất tự nhiên và có sức lôi cuốn hút mạnh mẽ, không
19


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

chỉ với những người Nam Bộ mà còn với nhiều người ở mọi miền đất trong
và ngoài nước.
Ở Nguyễn Ngọc Tư, con người văn chương và con người đời thường là
một. Sáng tác của chị đã đem đến cho độc giả nhiều trang viết sống động,
đằm thắm, độc đáo và tài hoa nhưng cũng rất thật và gần gũi như ở ngoài đời.
Nói về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu gây được sự chú ý trên
văn đàn với truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt (2000). Tác phẩm được
giải nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần thứ II. Từ đó cho đến
nay, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số ít những nhà văn trẻ được độc giả biết
đến nhiều nhất. Chị viết khá đều tay và có được số lượng tác phẩm khá lớn
với nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, tạp văn và tiểu thuyết.
Các tác phẩm chính của nguyễn Ngọc Tư :
1. Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2000)
2. Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi, NXB Trẻ, 2001)
3. Biển ngƣời mênh mông (Tập truyện ngắn, NXB Kim Đồng, 2003)
4. Giao thừa (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2003)
5. Nƣớc chảy mây trôi (Truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM, 2004)
6. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ (NXB Văn hoá Sài Gòn, 2005)

7. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tƣ (NXB Trẻ, 2005)
8. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2008)
9. Yêu ngƣời ngóng núi (Tản văn, NXB Trẻ, 2009)
10. Khói trời lộng lẫy (Tập truyện ngắn, NXB Thời đại, 2010)
11. Sông (Tiểu thuyết, NXB Trẻ, 2012)
12. Bánh trái mùa xƣa ( 2012)
13. Gáy ngƣời thì lạnh (Tản văn, 2012)
Là một nhà văn trẻ nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã gặt hái được khá nhiều
thành công, với nhiều giải thưởng lớn. Cụ thể như:
- Giải nhất Cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần thứ II, với tác
phẩm Ngọn đèn không tắt, năm 2000
20


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

- Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các
Hội VHNT Việt Nam với Tập truyện Ngọn đèn không tắt – năm 2000
- Giải B Hội Nhà văn Việt Nam với tập truyện Ngọn đèn không tắt –
năm 2001
- Một trong “Mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003” do Trung ương
Đoàn trao tặng.
- Giải thưởng văn học ASEAN 2008.
Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ngay từ khi ra đời cho đến nay vẫn luôn
nhận được sự yêu mến, quan tâm đặc biệt trong lòng độc giả. Điều này không
chỉ thể hiện ở số lượng các tác phẩm được tái bản nhiều lần với số lượng lớn
mà còn thể hiện ở số lượng các bài viết trao đổi, phê bình về tác phẩm của chị
trên các trang báo, trên mạng Internet. Tác phẩm của chị được nhiều người
chọn làm đối tượng nghiên cứu khoa học trong các khoá luận tốt nghiệp đại
học, các luận văn thạc sĩ. Đặc biệt chị đã được Trần Hữu Dũng – một giáo sư

kinh tế của một trường Đại học tại Hoa Kì lập một trang Web riêng dành cho
chị. Nhiều tác phẩm của chị còn được chuyển thể thành các kịch bản phim,
kịch, cải lương như: Cánh đồng bất tận, Hiu hiu gió bấc, Cải ơi, Chiều
vắng, Khói trời lộng lẫy... Tất cả những điều trên đã chứng tỏ sức hút mạnh
mẽ trong những sáng tác của chị. Đồng thời khẳng định vị trí của chị trong
nền văn học nước nhà.
Ngoài đời Nguyễn Ngọc Tư là một người rất giản dị, có trái tim đa sầu
đa cảm, nhân hậu, vị tha. Chị rất thích đi du lịch để khám phá thế giới xung
quanh, trau dồi vốn sống để mở mang tầm mắt và cũng làm tư liệu để viết.
Những tính cách và sở thích ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến những sáng tác
văn học của chị.
Khác với lớp nhà văn Nam Bộ trước đó như Đoàn Giỏi, Anh Đức,
Nguyễn Thi, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng... sống trong hoàn cảnh đất
nước trải qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, khi đất nước còn nhiều
khó khăn, thiếu thốn, đứng trước hoạ xâm lăng. Nguyễn Ngọc Tư thuộc thế
21


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

hệ nhà văn sinh ra trong thời bình, khi đất nước đang có những chuyển mình
mạnh mẽ, từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đô thị
phát triển mạnh mẽ. Do đó những sáng tác của chị chủ yếu đề cập đến các vấn
đề của cuộc sống thời kì đổi mới. Đó là vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
những tác động của nền kinh tế thị trường đến đời sống và tâm lí tính cách con
người Nam Bộ. Bên cạnh những cái được do sự phát triển kinh tế mang lại thì
nó cũng xuất hiện những mặt trái của xã hội hiện đại. Yếu tố này cũng được
Nguyễn Ngọc Tư thể hiện khá rõ nét trong các nhiều tác phẩm của mình.
2.3. Không gian văn hoá Nam Bộ
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Ngọc Tư luôn từ chối nơi phồn hoa

đô thị để sống cùng với những con người chân chất, tình nghĩa, với mảnh đất
nghèo khó Nam Bộ. Mảnh đất ấy có vệt phù sa châu thổ, những sông ngòi
chằng chịt, cánh đồng bất tận mênh mông và biết bao con người đang vật lộn
với từng thước đất để mưu sinh. Sống và lớn lên với mảnh đất quê hương,
Nguyễn Ngọc Tư đã quen với mùi hăng hăng của cỏ khi sa mưa, mùi nồng
nồng oi oi của đất, mùi thơm dậy của mắm chấm rau đồng... Quê hương thực
sự đã ăn vào máu thịt, thấm vào từng hơi thở của chị, hiện lên phảng phất,
dung dị trong sáng tác của chị.
Về mặt tự nhiên, Nam Bộ là vùng đất có những sông ngòi chằng chịt,
những ao hồ và ruộng đồng mênh mông… Do cấu tạo tự nhiên có tính đặc thù
như thế nên đã hình thành nên đặc trưng văn hóa: cư trú, giao thông, âm nhạc,
ẩm thực... của vùng miền Nam Bộ cũng như tính cách, lối sống, quan niệm,
tập quán... của con người nơi đây. Những yếu tố này cũng đã tác động trực
tiếp đến cách xây dựng, miêu tả hiện thực và con người trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư. Vì vậy, người đọc dễ dàng bắt gặp trong cách thể hiện của
chị mọi sinh hoạt và đời sống của con người đều mang dấu ấn của không gian
văn hóa vùng đất phù sa sông nước như: ruộng đồng, kinh rạch, dòng sông,
con đò, ghe xuồng, chợ nổi…
Cư trú ven sông là mô hình phổ biến nhất của cư dân Nam Bộ với ba
22


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

hình thức cơ bản: nhà ở trước sông sau ruộng, cư trú ở vùng giáp nước, nhà ở
trước đường sau sông. Các loại hình cư trú này xuất phát từ địa hình tự nhiên
Nam Bộ nhiều sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, tạo điều kiện cho việc di
chuyển bằng đường thủy. Nơi ở gần sông như thế khá thoáng mát, phục vụ
tiện ích cho cuộc sống sinh hoạt đời thường: tắm giặt, đánh bắt thủy hải sản,
buôn bán, trao đổi hàng hóa...

Do địa hình có nhiều sông, rạch nên ở Nam Bộ, chỗ nào cũng có ghe,
thuyền, vỏ lãi, tắc ráng... là phương tiện đi lại phổ biến nhất. Loại hình giao
thông này phát triển đa dạng, phong phú, xuất hiện nhiều trong tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư. Ghe thuyền còn dùng để làm nhà ở, thuyền để đi chợ,
thuyền chở gạo, ghe xuồng buôn bán trên chợ nổi... Dường như tất cả mọi
sinh hoạt của con người Nam Bộ đều gắn bó với sông, với nước, với những
chiếc thuyền, ghe, xuồng lênh đênh, mê mải. Có thể nói chợ nổi và những
chiếc ghe chở hàng hóa trôi nổi xuôi ngược trên khắp các sông rạch là nét đặc
trưng trong văn hóa đời sống sông nước Nam Bộ.
Bên cạnh cuộc sống sông nước, văn hóa Nam Bộ còn thể hiện trên
những vùng đồng bằng mênh mông, những cánh đồng lúa trải dài vô tận. Ở
đó, ruộng đồng gắn liền với cuộc sống vất vả, khó nhọc của những người
nông dân suốt đời rong ruổi với nghề nuôi vịt chạy đồng, sống cuộc đời du
mục, lang bạt, không biết đâu là điểm dừng chân, là ổn định. Mảnh đất Cà
Mau nói riêng, Nam Bộ nói chung còn nổi tiếng với những miệt vườn rộng
lớn, bao la, sum suê cây trái. Ở đây có rất nhiều trái cây đặc sản: mít Tố Nữ,
xoài cát, ổi, sầu riêng... Miệt vườn tiêu biểu cho hình thức sinh hoạt vật chất
và tinh thần cao nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Về đời sống tinh thần, văn hóa Nam Bộ được thể hiện rõ trong nét âm
nhạc riêng của nền văn mình miệt vườn. Ở đây, những điệu hò, câu hát: hò
chèo ghe, hò mái dài, hò sông Hậu; đơn ca tài tử, cải lương... thấm đẫm trong
đời sống và tâm hồn của con người.
Hơn nữa, văn hóa ẩm thực Nam Bộ với những món ăn tự nhiên, độc
23


Đề tài: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

đáo cũng đặc biệt thu hút mọi người: cá nướng rơm chấm muối ớt kèm rau
húng lùi, bắp chuối non, cá trê vàng nước chấm với mắn gừng, cá sặc kho ớt,

canh chua cá rô đồng bông so đũa, cháo le le... Với tất cả những giá trị văn
hóa này, đọc sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, người đọc như có cảm giác được
đứng trên chính mảnh đất Nam Bộ vậy.

CHƢƠNG II: NHỮNG YẾU TỐ CỦA VĂN HÓA NAM BỘ TRONG
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất hội nhập của nhiều luồng văn
hoá Đông -Tây khác nhau. Đọc sáng tác về đồng bằng sông Cửu Long, người
ta dễ dàng nhận ra những nét độc đáo của tính cách con người và bản sắc văn
hóa đa dạng của một vùng đất. Nguyễn Ngọc Tư cũng không là ngoại lệ. Sáng
tác của chị chính là bức tranh đời sống và tâm hồn của con người Nam Bộ, là
địa hạt mà chị chứng tỏ được khả năng bao quát và phát hiện những góc
khuất, những điều tưởng chừng như đơn giản nhưng hệ trọng đối với đời sống
con người.
Bao trùm các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là hiện thực cuộc sống con
người trên mảnh đất Nam bộ với cánh đồng lúa mênh mông, những con sông
uốn lượn hay những bờ kinh, con mương và vô số những đầm, đìa, rạch,
xẻo...; những chợ nổi với ghe xuồng, sóng nước tấp nập…; những câu hò,
điệu hát lên xuống theo từng con nước lớn, ròng; hay những bài vọng cổ buồn
được cất lên từ những đoàn ca múa cải lương đang len lỏi mưu sinh tận trong

24


×