Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tìm hiểu về chiến lược phát triển sản phẩm mới sữa tiệt trùng không lactoza đầu tiên tại việt nam của công ty cổ phần sữa vinamilk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.43 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay trên hầu hết các thị trường đều diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt, nên những công
ty nào không phát triển được sản phẩm mới sẽ gặp phải rủi ro rất lớn. Những sản phẩm
hiện có sẽ bộc lộ những nhược điểm khi những nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng
đã thay đổi, xuất hiện công nghệ mới, hay chu kì sống của sản phẩm bị rút ngắn lại, cũng
như cạnh tranh trong nước và nước ngoài tăng lên. Một công ty đang thành công với một
sản phẩm nhất định trên thị trường có thể dễ dàng lâm vào phá sản trong nay mai nếu
công ty này không tiếp tục thay đổi mẫu mã sản phẩm theo các cách khác nhau hoặc tìm
kiếm một sản phẩm mới một khi các điều kiện của thị trường biến đổi. Một trong những
hoạt động đang diễn ra ở mỗi doanh nghiệp là theo dõi sự biến đổi của thị trường ở cả
khía cạnh cạnh tranh cũng như thị hiếu mới của người tiêu dùng: “ Những doanh nghiệp
nào mà không phát triển sẽ chết. Anh không thể đứng yên tại chỗ. Anh phải có sản phẩm
mới. Ở một chừng mực nào đó, những doanh nghiệp nhỏ thành công với sản phẩm mới
chúng sẽ trở thành những doanh nghiệp lớn hơn. Những doanh nghiệp quy mô nhỏ hơn
thì nên tập trung nguồn lực vào những sản phẩm mới có tính đột phá. Đó là con đường
duy nhất để phát triển, càng đưa được sản phẩm ra thị trường sớm thì doanh nghiệp đó
càng trở nên chủ động”. Do đó, mọi công ty đều phải tiến hành phát triển sản phẩm mới
để tìm ra những sản phẩm thay thế để duy trì hay tạo ra mức tiêu thụ tương lai. Chính vì
thế, phát triển sản phẩm mới rất cần thiết để giúp cho doanh nghiệp tồn tại phát triển hoạt
động kinh doanh nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng mục tiêu.
Vậy sản phẩm mới là gì? Những yếu tố nào tạo nên thành công hay thất bại cho sản phẩm
mới doanh nghiệp có thể thực hiện những chiến lược nào? Và quản trị như thê nào đối
với chu kì sống sản phẩm?... đây là những câu hỏi mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải
trả lời khi tiến hành tung sản phẩm ra trên thi trường. Để làm rõ vấn đề trên cũng như tìm
hiểu thực tế thực hiện chiến lược phát triển sản phẩm mới, em đã lựa chọn đề tài: “ tìm
hiểu về chiến lược phát triển sản phẩm mới sữa tiệt trùng không Lactoza đầu tiên tại Việt
Nam của công ty cổ phần sữa Vinamilk.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.


Khái niệm sản phẩm mới và phát triển sản phẩm mới
1. Khái niệm
Sản phẩm theo quan điểm truyền thống:

+ Sản phẩm là tổng hợp các đặc tính vật lý học, hóa học, sinh học… có thể quan sát
được, dùng thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của sản xuất hoặc đời sống.
-

Sản phẩm theo quan điểm của Marketing:

+ sản phẩm là thứ có khả năng thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống
hiến những lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu
hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng. Theo đó, một sản phẩm được cấu tạo và hình
thành từ hai yếu tố cơ bản sau đây:



Yếu tố vật chất
Yếu tố phi vật chất

+ Theo quan niệm này, sản phẩm phải vừa là cái “đã có”, vừa là cái “đang và tiếp tục
phát sinh” trong trạng thái biến đổi không ngừng của nhu cầu. Ngày nay, người tiêu dùng
hiện đại khi mua một sản phẩm không chỉ chú ý đến khía cạnh vật chất, mà còn quan tâm
đến nhiều khía cạnh phi vật chất, khía cạnh hữu hình và cả các yếu tố vô hình của sản
phẩm.
-

Sản phẩm mới là gì?

+ Có pải những mẫu mã mới mà các nhà sản xuất ô tô vẫn đưa ra thị trường vào mùa

thu được gọi là sản phẩm mới hay không?
+ Nếu một doanh nghiệp chỉ thêm loại kem chống nhăn vào bộ trang điểm dành cho
phái nữa, thì đấy có phải là một sản phẩm mới hay không?
+ Hay chỉ những sản phẩm hoàn toàn mới về quan niệm mới được coi là một sản
phẩm mới?
-

Đứng trên góc độ doanh nghiệp để xem xét, người ta chia sản phẩm mới thành hai
loại: sản phẩm mới tương đối và sản phẩm mới tuyệt đối. Chiến lược marketing
đối với sản phẩm mới tuyệt đối này thường phải được soạn thảo kỹ lưỡng, đòi hỏi

-

những thông tin chi tiết hơn về khách hàng và thị trường.
Sản phẩm mới tương đối


+ Sản phẩm đầu tiên doanh nghiệp sản xuất và đưa ra thị trường, nhưng không mới
đối với doanh nghiệp khác và đối với thị trường. Chúng cho phép doanh nghiệp mở
rộng dòng sản phẩm cho những cơ hội kinh doanh mới. Chi phí để phát triển loại sản
phẩm này thường thấp, nhưng khó định vị sản phẩm trên thị trường vì người tiêu dùng
vẫn có thể thích sản phẩm của đối thủ cạnh tranh hơn.
-

Sản phẩm mới tuyệt đối:

+ Đó là sản phẩm mới đối với cả doanh nghiệp và đối với cả thị trường. Doanh nghiệp
giống như “ người tiên phong” đi đầu trong việc sản xuất sản phẩm này. Sản phẩm
này ra mắt người tiêu dùng lần đầu tiên. Đây là quá trình tương đối phức tạp và khó
khăn (cả trong giai đoạn sản xuất và bán hàng). Chi phí dành cho nghiên cứu, thiết kế,

sản xuất thử và thử nghiệm trên thị trường thường rất cao. Vậy liệu một sản phẩm có
được coi là mới hay không phụ thuộc vào cách thị trường mục tiêu nhận thức về nó.
Nếu người mua cho rằng một sản phẩm khác đáng kể so với các sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh về một số tính chất (hình thức bên ngoài hay chất lượng), thì cía sản phẩm
đó sẽ được coi là một sản phẩm mới.
-

II.
Quy trình phát triển sản phẩm mới
Có 8 bước cơ bản để phát triển sản phẩm mới, phát ý tưởng, lựa chọn ý tưởng, đánh giá

và phát triển ý tưởng, xây dựng chiến lược tiếp thị, phân tích kinh doanh, hoàn thiện sản
phẩm, kiểm nghiệm thị trường và thương mại hóa sản phẩm.
Bước 1: Phát ý tưởng
+ Doanh nghiệp có càng nhiều ý tưởng thì khả năng chọn được ý tưởng tốt càng cao.
+ Các nguồn ý tưởng có thể nằm trong nội bộ doanh nghiệp, từ các nhân viên, nhà quản
lý. Một số nguồn quan trọng khác từ bên ngoài như từ nhượng quyền kinh doanh, từ mua
lại tổ chức tạo ra sản phẩm mới, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh hoặc từ các trường,
viện nghiên cứu.
+ Doanh nghiệp nhỏ nên chủ động khai thác nguồn ý tưởng từ nội bộ do nguồn này dễ tác
động, ít tốn kém về tiền và thời gian để khai thác. Vả lại các ý tưởng thường khả thi, sát
với thực tế hơn bởi vì các ý tưởng từ nội bộ thường nảy sinh do va chạm với thực tế, tiếp
xúc với khách hàng, quan sát đối thủ cạnh tranh.


Bước 2: Sàng lọc ý tưởng
+ Không phải mọi ý tưởng đều có thể thực hiện được, nên doanh nghiệp cần có công
đoạn sàng lọc ý tưởng khả thi. Về cơ bản, các ý tưởng được chọn nên tương hợp với
nguồn lực của doanh nghiệp, những ý tưởng táo bạo sẽ cần nhiều thời gian và công sức
để nghiên cứu và triển khai. Ý tưởng tốt sẽ hỗ trợ cho chiến lược kinh doanh của doanh

nghiệp như nhắm tới nguồn khách hàng mục tiêu hoặc thỏa mãn nhu cầu mới đủ lớn, khai
thác hiệu quả hơn kênh phân phối, cắt giảm chi phí không cần thiết, hoặc tân dụng được
các nguồn lực sẵn có mà không mất tiền.
Bước 3: Phản biện và phát hiện ý tưởng
+ Sau khi sàng lọc ý tưởng “hoa khôi” doanh nghiệp có thể tổ chức một ban phản biện
các ý tưởng này, ban này nên có nhiều thành phần để có được nhiều cách đánh giá và
phản biện ý tưởng. Đối với doanh nghiệp ‘siêu’ nhỏ, thường chủ doanh nghiệp sẽ đóng
vai trò cho cả ban, thì chủ doanh nghiệp nên đóng nhiều vai để tư duy và phân tích ý
tưởng dưới nhiều góc cạnh như: khía cạnh tiếp thị, nhân lực, nguồn vồn, thời gian, phản
ứng của đối tượng liên quan. Thông qua quá trình phân tích và đánh giá, ý tưởng sẽ được
mổ xẻ dưới nhiều góc cạnh, quan tọng hơn là làm cho ý tưởng đó được rõ ràng, cụ thể
hơn và hạn chế được những thử nghiệm không cần thiết hoặc tránh bớt những sai phạm
không đáng có. Như vậy, sau bước này ý tưởng về sản phẩm mới sẽ đầy đủ về các yếu tố
như tính năng chính của nó, cách thức thiết kế, các giá trị gia tăng và quan trọng hơn hết
là xác định được vai trò, ý nghĩa và mục đích muốn nhắm tới khi phát triển sản phẩm này
Bước 4: Chiến lược tiếp thị
+ Để tăng khả năng thành công của sản phẩm mới trên thị trường, doanh nghiệp cần thiết
nghĩ đến việc thương mại hóa nó sẽ như thế nào thông qua việc phác thảo bản kế hoạch
tiếp thị ngắn gọn. Trong đó có phân tích các yếu tố tác động chính từ môi trường kinh
doanh, năng lực của doanh nghiệp về các mặt như nhân sự, tài chính, trang thiết bị. Đồng
thời bản kế hoạch sơ thảo này cần dự báo được doanh thu, lợi nhuận, thị phần trong ngắn
hạn và dài hạn. Xây dựng kế hoạch tiếp thị sơ lược nhằm hai lý do. Một là tránh phát
triển những sản phẩm mới có ít thị trường tiềm năng, hạn chế việc tổn thất về thời gian,


sức lực. Hai là định hướng được mẫu mã, kiểu dáng, tính năng, hoặc đặc tính cần thiết
của sản phẩm để việc phát triển nó có định hướng rõ ràng sát với đòi hỏi của khách hàng
Bước 5: Phân tích kinh doanh
+ Phân tích kinh doanh đánh giá kỹ hơn về mục tiêu lợi nhuận, các lợi ích của sản phẩm
đem lại. Bên cạnh đó, nó đánh giá chi tiết hơn các mục tiêu của sản phẩm, những dự báo

cho thị trường và tác động của sản phẩm mới này với các sản phẩm hiện có. Điều đó có
nghĩa là, đánh giá sản phẩm mới này có gây ảnh hưởng xấu đến các sản phẩm hiện có hay
không? Tuy nhiên trong thực tế,không phải lúc nào cũng có thể đánh giá chính xác được
khả năng thị trường sản phẩm, với các doanh nghiệp nhỏ thường thì vừa làm vừa điểu
chính, thử sai để rút tỉa kinh nghiệm. Cho nên, với doanh nghiệp nhỏ, vai trò lãnh đạo,
khả năng cảm nhận và quyết tâm triển khai đôi khi quan trọng hơn là những phân tích
trên giấy.
Bước 6: Phát triển sản phẩm
+ Bước này liên quan đến phát triển mặt vật lý, kỹ thuật, hoặc thành phẩm cụ thể. Doanh
nghiệp cần làm mẫu, đầu tư chế tạo thử nghiệm. Để giảm thời gian phát triển sản phẩm
và chi phí nghiên cứu, các cán bộ nghiên cứu nên chú trọng việc tìm kiếm thông tin, thu
thập các nghiên cứu có sẵn hoặc liên quan để tránh mất thời gian làm lại những gì đã có.
Bước 7: Kiểm nghiệm thị trường
Để cẩn thận hơn, doanh nghiệp có thể thực hiện việc kiểm nghiệm thị trường bằng cách
triển khai ở những vùng thị trường nhỏ. Công việc này nhằm mục đích chính là đánh giá
các yếu tố liên quan đến chức năng tiếp thị như giá cả, kênh phân phối, thị trường, thông
điệp quảng cáo hoặc định vị sản phẩm.
Bước 8: Thương mại hóa sản phẩm
+ Thương mại hóa sản phẩm là việc tung sản phẩm thực sự vào thị trường doanh nghiệp
sẽ phải xác định thị trường triển khai, cách thức triển khai, các bộ phận tác nghiệp liên
quan như bán hàng, quảng cáo, kế toán, chăm sóc khách hàng, hoặc giao nhận


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM MỚI
SỮA TIỆT TRÙNG KHÔNG LACTOZA CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA
VINAMILK ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM
I.
Giới thiệu chung:
1. Giới thiệu về công ty cổ phần sữa Vinamilk
 Công ty cổ phần sữa Vinamilk có tên giao dịch quốc tế là : Viet Nam Dairy


Products Joint Stock Company, được thành lập vào năm 1976 trên cơ sở tiếp quản
3 nhà máy sữa của chế độ cũ để lại.Công ty có trụ sở chính tại số 10 phố Tân Trào,
phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh. Tính theo doanh số và số
lượng, Vinamilk là nhà sản xuất sữa hàng đầu tại Việt Nam. Danh mục sản phẩm
của Vinamilk bao gồm: sản phẩm chủ lực là sữa nước và sữa bột; sản phẩm có giá
trị cộng thêm như sữa đặc, sữa chua ăn và sữa chua uống, kem và pho mát.
Vinamilk cung cấp cho thị trường một danh sách những sản phẩm , hương vị và
quy cách bao bì có nhiều lựa chọn.


2.





3.


Cơ cấu doanh thu của Vinamilk
Sữa đặc chiếm 34%
Sữa tươi chiếm 26%
Sữa bột, ngũ cốc ăn liền chiếm 24%
Sữa chua chiếm 10%
Sản phẩm khác chiếm 6%
Thành tựu mà Vinamilk đạt được
Phần lớn sản phẩm của công ty cung cấp cho thị trường dưới thương hiệu”
Vinamilk”. Thương hiệu này được bình chọn là một “ thương hiệu nổi tiếng và là
1 trong 100 nhóm thương hiệu mạnh nhất” do Bộ công thương bình chọn năm

2006. Đồng thời, Vinamilk cũng được bình chọn trong nhóm “ top 10 hàng Việt

Nam chất lượng cao” từ năm 1995-2007
 Thành tựu của công ty đã đóng góp tich cực vào sự phát triển sự nghiệp CNHHDH đất nước. Với những thành tích nổi bật đó, công ty đã vinh dự nhận được
các phần thưởng cao quý: Huân chương Độc Lập hạng nhì(2010), Huân Chương
Độc Lập hạng ba(2005). Tất cả những thành tựu được nêu trên do đâu mà có được
đó chính là nhờ vào việc người tiêu dùng đã nhận diện và khắc sâu trong tâm trí họ
về Vinamilk.
4. Giai đoạn phát triển:
• Giai đoạn 1976 – 1986 :


Sau khi tiếp quản 3 nhà máy Sữa do chế độ cũ để lại sau năm 1975 : nhà máy sữa Thống
Nhất ( tiền thân là nhà máy Foremost ); nhà máy sữa Trường Thọ ( tiền thân là nhà máy
Cosuvina); và nhà máy sữa Bột Dielac ( Nestle ) tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn
phức tạp: máy móc thiết bị hư hại nhiều, phụ tùng thiếu thốn, nguyên liệu trống không.
Cán bộ công nhân viên đã năng động hiến kế, nhiều giải pháp kỹ thuật ra đời như đổi
hàng lấy nguyên liệu cho sản xuất; liên kết với các đơn vị trong nước vừa khôi phục nhà
máy, vừa sản xuất và phân phối sản phẩm. Trong điều kiện đó, công ty vẫn đảm bảo một
lượng hàng nhất định để phục vụ người tiêu dùng, đối tượng chủ yếu là người già, người
bệnh và trẻ em . Ghi nhận thành tích trong giai đoạn này, năm 1986 công ty được Nhà
nước tặng Huân chương lao động hạng Ba .


Giai đoạn 1987 – 2005 :

Thời kỳ 1987 – 1996 : đây là gia đoạn khó khăn trong sản xuất kinh doanh nói chung của
đất nước, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn khá nặng nề làm giảm nhịp độ phát triển
của nền kinh tế. Trước tình hình đó, Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính Phủ ) ra nghị
quyết 217/HĐBT ngày 14/11/1987 “ về trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho

các xí nghiệp Quốc doanh “, theo đó các xí nghiệp quốc doanh phải tự hạch toán kinh tế,
lấy thu bù chi và nhà nước không bù lỗ. Thực hiện đường lối đổi mới của nhà nước, công
ty đã chủ động lập phương án phát triển các cơ sở sản xuất và kinh doanh trên toàn quốc:
khôi phục nhà máy sữa bột Dielac vào năm 1988 ( nhà máy bị hư hại sau khi tiếp quản
nhưng chưa được sửa chữa ) với kinh phí 200.000 USD bằng chính tay nghề của cán bộ kỹ sư trong nước, tiết kiệm cho nhà nước 2,5 triệu USD so với phương án ban đầu thuê
kỹ sư nước ngoài . Tháng 8/1993 Chi nhánh Hà Nội được thành lập để triển khai mạng
lưới kinh doanh tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc và tháng 6/1995 chi nhánh sữa Đà Nẵng
ra đời phục vụ người tiêu dùng ở các tỉnh Miền trung – Tây Nguyên. Tháng 3 năm 1994,
nhà máy sữa Hà Nội được khánh thành và đi vào hoạt động sau 2 năm xây dựng. Đây là
nhà máy sữa đầu tiên ở Miền Bắc được xây dựng sau ngày giải phóng .Đặc biệt từ năm
1991, nhận thức rõ tầm quan trọng chủ trương của Đảng về “ Phát triển Nông – Lâm Ngư nghiệp gắn với Công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để ổn định tình hình Kinh tế - Xã hội “, công ty đã tạo lập vùng nguyên


liệu nội địa, đầu tư phát triển chăn nuôi bò sữa trong nông thôn, thực hiện chủ trương của
Đảng về liên minh Công – Nông, làm cơ sở cho chuyển dịch cơ cấu Công – Nông nghiệp
theo đường lối kinh tế mới của Đảng. Cuộc “ cách mạng trắng “ đã được hình thành. Với
việc đạt nhiều thành tựu theo cơ chế mới, năm 1991 công ty được tặng Huân chương lao động
hạng Nhì và năm 1996 được Nhà nước tặng Huân chương lao động Hạng Nhất .

Thời kỳ 1996 – 2005 : khi luồng gió đổi mới được thổi vào các doanh nghiệp, CBCNV
hăng hái thi đua lao động sản xuất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu
dùng, công ty thực sự phát huy được tính năng động của tập thể, sản xuất ổn định, chất
lượng sản phẩm được quản lý chặt chẽ, không để bị hư hỏng nhiều do trục trặc kỹ thuật
hoặc do quá trình quản lý, hạn chế đến mức thấp nhất sản phẩm bị hao hụt lãng phí trong
từng khâu của quá trình sản xuất. Máy móc thiết bị được duy tu, bảo dưỡng đúng quy
định. Thực hiện nghiêm túc các quy định về môi trường, an toàn lao động. Về kinh doanh
: mạnh dạn đổi mới cơ chế tiêu thụ sản phẩm; áp dụng các chính sách hợp lý đối với hệ
thống tiêu thụ và người tiêu dùng; triển khai chương trình sữa học đường đồng thời đấy
mạnh tiếp thị bằng nhiều hình thức phù hợp. Giai đoan này công ty đã mở được thị

trường xuất khẩu sang các nước Trung đông, SNG, thị trường khó tính EU và Bắc Mỹ ,
kim ngạch xuất khẩu trong 6 năm ( bắt đầu xuất khẩu từ 1 năm 1998 ) đạt 479 triệu đô la
Mỹ . Năm 2003, phát huy thành quả của công cuộc đổi mới đồng thời thực hiện đường
lối kinh tế của Đảng, công ty chuyển sang hoạt động theo mô hình cổ phần hóa nhằm
thực hiện chủ trương của Nhà nước tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều sở hữu, trong
đó có đông đảo người lao động để sử dụng cao nhất hiệu quả nguồn vốn, tài sản vào mục
đích phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động
cho doanh nghiệp, phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và
tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hòa lợi ích doanh
nghiệp và người lao động
Có thể nói quá trình xuyên suốt từ 1996 tới năm 2005, sản xuất kinh doanh không ngừng
được nâng cao và phát triển, tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 15 – 45%, doanh thu tăng từ
1,5 đến 2,6 lần; nộp ngân sách nhà nước tăng từ 1,1 đến 6,5 lần; thị phần Vinamilk chiếm
75 -90% tùy từng chủng loại sản phẩm; xuất khẩu tăng dần theo từng năm : từ 28 triệu


USD ( 1998 ) lên 168 triệu USD ( 2002); Tổng sản lượng sản xuất hàng năm trung bình
đạt 220 – 250 triệu lít. Sản xuất luôn luôn gắn với thị trường, luôn luôn ổn định trong mọi
điều kiện khó khăn phức tạp của cơ chế ban đầu cũng như nhiều khó khăn xã hội trong
từng giai đoạn.Vùng nguyên liệu nội địa được tiếp tục phát triển tạo điều kiện giảm dần
nhập khẩu nguyên liệu tiến tới cân đối xuất nhập; sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và
đầu tư có hiệu quả các dự án phát triển sản xuất, trong đó xây dựng một số nhà máy mới :
Nhà máy sữa Cần Thơ ( tháng 5/2001); Nhà máy sữa Bình Định ( tháng 5/2003); : Nhà
máy sữa Sài gòn ( tháng 9/2003); : Nhà máy sữa Nghệ An ( tháng 6/2005); : Nhà máy sữa
Tiên Sơn ( tháng 12/2005). Cũng trong giai đoạn này công ty thành lập Xí nghiệp Kho
vận sài gòn ( tháng 3/2003) nhằm đảm bảo dịch vụ vận chuyển, phục vụ khách hàng tiêu
thụ sản phẩm Vinamilk. Mặt khác công ty tiếp tục nâng cao trình độ khoa học công nghệ,
đổi mới kỹ thuật tạo nhiều mặt hàng mới, chất lượng cao. Đổi mới công tác quản lý lao
động, đào tạo, xây dựng có chất lượng đội ngũ quản lý, công nhân lành nghề, xác địng
thái độ lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao. Tham gia có hiệu quả công tác

xã hội, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho Cán bộ công nhân viên . Đặc
điểm ghi nhận là trong cái khó luôn xuất hiện nhiều nhân tố mới cả về vật chất lẫn tinh
thần, dù trong hoàn cảnh nào công ty luôn hướng về phía trước, tự tạo cho mình thế và
lực để hoàn thiện bước đi và tiến đến những thắng lợi cao nhất . Đánh giá những thành
tựu cả một quá trình đổi mới công ty vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu ANH
HÙNG LAO ĐỘNG vào năm 2000 và kết thúc giai đoạn 1996 – 2005 Công ty được
tặng Huân chương Độc lập Hạng Ba .


Giai đoạn 2005 – đến nay :

Sau 5 năm đổi mới cơ chế quản lý theo
mô hình cổ phần hóa, công ty đã đạt thành tích rất xuất sắc về phát triển sản xuất kinh
doanh. Các chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước giao đều vượt so với năm cuối trước khi cổ phần
hóa góp phần không nhỏ vào sự thăng hoa của nền kinh tế nước nhà : tổng doanh thu từ
tăng 188%; lợi nhuận sau thuế tăng 5,2 lần; tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu
tăng 75%; Nộp ngân sách nhà nước tăng 4,6 lần; đầu tư hàng ngàn tỷ đồng hiện đại hòa
máy móc thiết bị - công nghệ; kim ngạch xuất khẩu đạt 444,7 triệu USD sản lượng sản


xuất trung bình hàng năm đạt trên 560 ngàn tấn; thu mua sữa tươi tăng hàng năm từ 10 –
17% sản lượng và giá trị; tổng vốn sở hữu chủ tăng hàng năm đến nay ( 2011) đạt con số
trên 11 ngàn tỷ đồng; thu nhập bình quân của người lao động tăng 68% . Các nhà máy
của Công ty luôn tuân thủ nguyên tắc sản xuất phải gắn với thị trường, dựa trên nhu cầu
của thị trường để điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho phù hợp.. Thực hiện quản lý chặt chẽ
và nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh phát triển các ngành hàng, đa dạng hoá các
chủng loại sản phẩm, ưu tiên những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh và có giá trị cao, có
thị trường ổn định. Thực hành tiết kiệm trên mọi khâu của quá trình sản xuất, đặc biệt là
nguyên – nhiên vật liệu. Về kinh doanh : công ty thực hiện chiến lược chiếm lĩnh 75% thị
phần toàn quốc ; mở rộng thị trường trong đó lấy thị trường nội địa làm trung tâm; Đẩy

mạnh và phủ đều điểm bán lẻ trên tất cả mọi vùng, địa bàn lãnh thổ của cả nước với
mạng lưới rất mạnh bao gồm 183 nhà phân phối, 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64/64
tỉnh, thành phố. Đổi mới công tác tiếp thị và các hoạt động Marketing có hiệu quả. Đối
với thị trường ngoài nước, công ty tích cực xúc tiến quan hệ đối ngoại, tìm kiếm thị
trường mới để xuất khẩu đồng thời giữ vững thị trường truyền thống .

5. Giới thiệu về sữa tiệt trùng không Lactoza đầu tiên tại Việt Nam
- Lactoza là một loại đường chủ yếu có trong sữa và được tiêu hóa trong ruột nhờ sự trợ

giúp của men lactase. Men lactase giúp cắt đôi phân tử đường lactoza thành 2 thành phần
đơn giản dễ hấp thu hơn là galactose và glucose. Nếu không có hoặc thiếu hụt men này
cơ thể bạn sẽ không dung nạp được lactoza, dẫn đến tình trạng đường lactoza (không
được hấp thu) bị lên men, gây ra một loạt các triệu chứng khó chịu như đầy bụng, đau
bụng, tiêu chảy…
- Sản phẩm giúp người tiêu dùng hoàn toàn yên tâm thưởng thức hương vị thơm
ngon của sữa và hấp thu các dưỡng chất từ sữa mà không ngại hiện tượng không
sôi bụng, khó tiêu do cơ thể không dung nạp lactoza.


II.

Phát triển sản phẩm mới sữa tươi không đường Lactoza của VINAMILK

tại Việt Nam
1. Hình thành ý tưởng sản phẩm mới
Trong tự nhiên hiếm có một loại thực phẩm nào có thành phần dinh dưỡng đầy đủ và
hài hòa như sữa tươi. Sữa vừa cung cấp cho con người nguồn năng lượng dồi dào, vừa
cung cấp các chất cần thiết cho sự tạo lập cơ thể. Các thành phần chính trong sữa gồm
có: + Protein trong sữa được tạo thành bởi các amino axit. Có khoảng 20 loại amino
axit khác nhau, trong đó có 8 loại cần thiết cho người lớn và 9 loại cần thiết cho trẻ

em. Protein trong sữa rất giàu các loại amino axít này, nên có giá trị dinh dưỡng và có
hệ số sử dụng cao so với nguồn protein thực vật. Các protein trong sữa gồm 2 nhóm
chính: * Proteinn hoà tan như: albumin, imunoglobulin, lisozim, lactoferin,


lactoperoxydaza * Protein ở trạng thái keo không bền (casein) gồm một phức hệ
mixen hữu cơ của các caseinat và canxi phosphat. + Lipit của sữa bao gồm: chất béo,
các phosphatit, glicolipit, steroit Chất béo sữa là một thành phần quan trọng. Về mặt
dinh dưỡng, chất béo có độ sinh năng lượng cao, có chứa các vitamin hòa tan trong
chất béo (A, D, E). Chất béo tồn tại trong sữa ở dạng hình cầu có kích thước rất nhỏ
từ 0,1 – 15µm . Mỗi thể cầu mỡ được bao bọc bởi một lớp màng mỏng. Màng này rất
bền, có tác dụng bảo vệ, giữ cho chúng không kết hợp được với nhau và bảo vệ chất
béo khỏi bị phân huỷ bởi các enzym có trong sữa và do đó tạo ra mùi ôi. + Gluxit:
Lactoza chiếm vị trí quan trọng nhất trong gluxit của sữa. Hàm lượng lactoza trong
sữa thay đổi từ 3,6 – 5,5%. Lactoza tồn tại trong sữa ở dạng tự do và dạng liên kết với
các protein và các gluxit khác. Độ ngọt của lactoza kém sacaroza 30 lần, độ hòa tan
trong nước cũng kém hơn. Lactoza là một trong những nguồn năng lượng quan trọng,
chúng chuyển thành hợp chất năng lượng cao, có thể tham gia vào tất cả các phản ứng
sinh hóa.
2. Lựa chọn ý tưởng:
 Lựa chọn thị trường mục tiêu:
- Thời gian vừa qua tạo nên sự bùng nổ mạnh mẽ tạo làm sóng lớn ở nhiều các lĩnh

vực. Đặc biệt là ở các loại sữa tươi, người tiêu dùng ngày càng tìm đến những
thương hiệu nổi tiếng hơn là những thương hiệu bình thường để đảm bảo an toàn
-

cho gia đình khi sử dụng.
Nghiên cứu chỉ ra rằng ở một số nước Châu Á, có đến 90% dân số có cảm giác
đầy bụng, khó tiêu khi uống sữa, thậm chí có một số người còn cho rằng uống sữa

gây tiêu chảy. Tuy chưa có con số thống kê chính thức tại Việt Nam, hiện tượng
này không có gì xa lạ đối với chính chúng ta hay những người quanh ta. Hội

chứng này là hệ quả của hệ tiêu hóa không dung nạp được lactoza có trong sữa.
 Chiến lược định vị:
• Xác định đối thủ cạnh tranh: khi thâm nhập thị trường thì sữa không đường
Lactoza phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh có thể là
các sản phẩm khác như: Cô gái Hà Lan, sữa đậu nành Fami…




Đánh giá vị trí của các đối thủ cạnh tranh: từ việc nghiên cứu thông tin từ thị
trường sẽ đưa lại những kết quả giúp cho sữa không đường Lactoza có thể xác
định được thị phần của mình cũng như của đối thủ cạnh tranh, biết được
nguyên nhân người tiêu dùng không sử dụng sản phẩm của mình mà lại sử
dụng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh từ đó đánh giá đúng vị trí của các đối
thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh chính của Vinamilk là Friesland Campina
với sản phẩm sữa bột là Dutchlady Complete và đẩy mạnh quảng cáo cho nhãn

hàng Friso.
Phân tích sự ưa chuộng của người tiêu dùng:
Nghiên cứu chỉ ra rằng ở một số nước Châu Á, có đến 90% dân số có cảm giác


-

đầy bụng, khó tiêu khi uống sữa, thậm chí có một số người còn cho rằng uống sữa
gây tiêu chảy. Tuy chưa có con số thống kê chính thức tại Việt Nam, hiện tượng
này không có gì xa lạ đối với chính chúng ta hay những người quanh ta. Hội


-

chứng này là hệ quả của hệ tiêu hóa không dung nạp được lactoza có trong sữa.
• Ra quyết định:
Đối với trẻ nhỏ và cả người lớn, nhu cầu uống sữa để bổ sung các dưỡng chất
thiết yếu có trong sữa như Canxi và Vitamin D là rất lớn nhưng khi hệ tiêu hóa gặp
phải những triệu chứng như trên, người ta ngại uống sữa hoặc thậm chí dừng hẳn
việc hấp thu nguồn dinh dưỡng quan trọng này.


-

Vì vậy, Vinamilk quyết định đưa ra thị trường sản phẩm này nhằm giúp những
người tiêu dùng không dung nạp được lactoza có cơ hội uống sữa để bổ sung các

dưỡng chất thiết yếu có trong sữa.
3. Soạn thảo và xét duyệt dự án mới:
 Hệ thống phân phối, các vị trí kinh doanh và giá cả: Sản phẩm Sữa Tiệt Trùng
Flex không Lactoza có bán tại siêu thị, cửa hàng giới thiệu sản phẩm Vinamilk và
các điểm bán lẻ trên toàn quốc từ tháng 11/2013. Giá bán lẻ khuyến nghị:
27.000đ/1 lốc 4 hộp giấy 180ml. Giá cả được nhận định là tương đối phù hợp với
túi tiền và thu nhập của người tiêu dùng đây được coi là một trong những lợi thế
-

của Vinamilk.
Để đẩy mạnh tăng trưởng, công ty chọn hướng đón đầu áp dụng công nghệ mới,
lắp đặt các thiết bị máy móc chế biến hiện đại, tăng công suất chế biến và mở rộng
cơ sở sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu nội địa...với tổng vốn đầu tư 5 năm



2005 – 2010 là 4.469 tỷ đồng. Sự đầu tư trên đã tạo ra năng suất lao động cao, quy
mô sản xuất phát triển mạnh góp phần tạo doanh thu lớn, lợi nhuận cao. Công tác
sắp xếp , đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp theo
Nghị quyết Trung ương 3, khoá IX đã được công ty thực hiện và phát huy hiệu
quả rõ rệt: làm tăng thêm hàng ngàn tỷ đồng vào phần vốn ngân sách Nhà nước;
cổ tức đảm bảo theo Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông hàng năm, các ngành
nghề kinh doanh được đa dạng hoá. Tiếp tục thực hiện mô hình hạch toán tập
trung nhằm tăng điều kiện hiện đại hoá máy móc thiết bị, công nghệ. Thành lập
các trung tâm tư vấn dinh dưỡng sức khoẻ trên cả nước, khám và cung cấp sữa
miễn phí hàng năm cho hàng ngàn lượt trẻ em, học sinh tiểu học và đối tượng suy
dinh dưỡng. Công tác khoa học công nghệ luôn được coi là mũi nhọn đột phá làm
tăng dần chủng loại qua từng năm. Trong 5 năm nghiên cứu cho ra đời trên 30 sản
phẩm mới, xét duyệt nhiều sáng kiến làm lợi cho Nhà nước hàng trăm tỷ đồng,
điển hình như sản phẩm Dielac Anpha 1,2,3; sản phẩm sữa tươi 100%...
 Chất lượng sản phẩm: Vinamilk đã chọn cho mình một lối đi riêng phù hợp với
nhu cầu uống sữa của người Việt như: sữa bột, sữa tươi, sữa chua, sữa đặc…đó là
các bằng chứng khẳng định chất lượng sản phẩm của. Bên cạnh đó Vinamilk còn
không ngừng cải tiến và phát triển sản phẩm trên thị trường và dành vị trí dẫn đầu
-

về thị phần
Đặc biệt sản phẩm Sữa Tiệt Trùng Flex Không Lactoza của Vinamilk tuy không bổ
sung đường -nhưng có vị ngọt nhẹ hoàn toàn tự nhiên, vì nhờ công nghệ lên men
tiên tiến, lactoza có trong sữa đã được chuyển hóa thành 2 loại đường dễ hấp thu:

-

glucose và galactose.
Ngoài ra chúng còn cung cấp nguyên liệu cho quá trình tổng hợp một số hợp chất

hoá học quan trọng trong cơ thể. + Trong sữa có nhiều loại vitamin nhưng đều với
một hàm lượng tương đối thấp. Các vitamin trong sữa được chia thành 2 nhóm:
nhóm hoà tan trong chất béo (A, D, E, K) và nhóm hoà tan trong nước (các
vitamin B và C). Các vitamin đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
sống của cơ thể. + Các chất khoáng trong sữa chiếm khoảng 1%, muối khoáng có
trong các dung dịch, trong nước sữa hoặc trong các hợp chất casein. Các muối


quan trọng nhất là muối canxi, natri, kali và magie. Chúng có dưới dạng photphat,
cloride, citrat và caseinat. Muối kali và muối canxi có nhiều nhất trong sữa thường
-

có chứa các enzym thường gặp trong tự nhiên.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2006 là 8,2%, GDP tăng 7,8% và thu nhập bình
quân đầu người đạt 715 USD. Cùng với mức sống của người dân dần được nâng
cao, nhu cầu sử dụng các sản phẩm thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cũng
tăng lên. Do vậy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến sữa là một hệ quả
tất yếu, phù hợp với xu thế thời đại. Bên cạnh đó, sữa là một trong những yếu tố
cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển nòi giống, tăng chiều cao, cải thiện
thể chất cho người Việt Nam. Do đó việc phát triển chăn nuôi bò sữa và sản xuất
sữa rất cần thiết cho việc giải quyết các vấn đề suy dinh dưỡng và bệnh tật cho các
nước đang phát triển trong đó có nước ta. Ngày 26/04/2005 Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp đã ký Quyết định số 22/2005/QĐ-BCN về việc phê duyệt - Quy hoạch phát
triển ngành công nghiệp Sữa Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm

2020.
 Dịch vụ khách hàng: Với hàng loạt các chương trình khuyến mãi hấp dẫn, cơ sở
vật chất và trang thiết bị trong nhà máy luôn sạch sẽ - an toàn –vệ sinh. Thái độ
của nhân viên luôn nhiệt tình, nhanh nhẹn, đảm bảo, sử dụng quy trình công nghệ
mới hiện đại tạo nên một hệ thống dịch vụ đẳng cấp. Chính vì những điều này mà

người tiêu dùng luôn cảm thấy thoải mái và an tâm hơn khi đến với các đại lý hay
cửa hàng bán sữa của Vinamilk.
 Nguồn lực tài chính: . Nếu như năm 2009, khoảng cách chênh lệch thị phần giữa
hai công ty này chỉ hơn 13% thì đến năm 2012 đã nâng lên gần gấp đôi với con số
25,1%. Vinamilk liên tục gặt hái được thành tựu khi doanh thu năm 2012 đạt
-

27.300 tỷ đồng, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt gần 180 triệu USD.
Bằng các nguốn vốn tự có và tận dụng các nguồn vốn khác, Công ty đã tự mình
đáp ứng đầy đủ nhu cầu thật sự cần thiết, nhất là những chương trình kinh doanh
có hiệu quả. Trong 5 năm, Công ty đã đầu tư khoảng 4.500 tỷ đồng hiện đại hoá
máy móc thiết bị, công nghệ cho sản xuất và xây dựng thêm 2 nhà máy chế biến
mới và 2 chi nhánh, xí nghiệp: Nhà máy Sữa Lam Sơn ( tháng 12/2005); nhà máy


Nước giải khát Việt Nam ( 2010); , 01 Chi nhánh Cần Thơ (1998); Xí nghiệp kho
vận Hà Nội ( 2010 ), đồng thời đang xúc tiến xây dựng 2 trung tâm Mega hiện đại
tự động hóa hoàn toàn ở Phía Bắc ( Tiên Sơn ) và phía Nam ( Bình Dương ), 2
Nhà máy : sữa bột Dielac2 tại Bình Dương và Nhà máy sữa Đà Nẵng. Dự kiến các
nhà máy này sẽ đi vào hoạt động cuối năm 2012. Nhiều dây chuyền tinh chế hiện
đại xuất xứ từ các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Đan Mạch, Ý, Đức, Hà
Lan...đã được lắp đặt bởi các chuyên gia hàng đầu thế giới hướng dẫn vận hành và
chuyển giao công nghệ đã cho ra đời trên 300 chủng loại sản phẩm chất lượng cao.
Đồng thời với việc trao quyền tự chủ trong sản xuất cho các nhà máy thành viên
đã phát huy năng lực, trí tuệ từ cơ sở chứng tỏ hiệu quả rất lớn trong thời kỳ đổi
mới.
 Nguồn nhân lực: nguồn nhân lực của Vinamilk rất ổn định, các nhân viên làm việc

có nhiều kinh nghiệm do thâm niên làm việc giúp cho đời sống vật chất và tinh
thần của họ được nâng cao hơn. Vinamilk đã bán sản phẩm thông qua trên 220 nhà

phân phối cùng với hơn 141.000 điểm bán hàng tại toàn bộ 63 tỉnh thành của cả
nước. Sản phẩm mang thương hiệu Vinamilk cũng có mặt tại Mỹ, Canada, Ba Lan,
-

Đức, Trung Quốc,…
Đội ngũ bán hàng nhiều kinh nghiệm gồm 1.787 nhân viên bán hàng trên khắp đất
nước đã hỗ trợ cho các nhà phân phối phục vụ tốt hơn các cửa hàng bán lẻ và

-

người tiêu dùng, đồng thời quảng bá sản phẩm của Vinamilk
Về công tác nhân lực, những năm qua đã tuyển chọn trên 50 con, em cán bộ công
ty và học sinh giỏi qua các kỳ thi tuyển về công nghệ sữa làm nòng cốt lực lượng
kế thừa trong tương lai gửi đào tạo ở nước ngoài. Hơn 100 cán bộ khoa học, kỹ sư
được cử đi tiếp thu công nghệ ngắn ngày trong nước; 12 người theo học các lớp
đào tạo giám đốc; 15 cán bộ được đào tạo Lý luận chính trị cao cấp; 9 cán bộ theo
các lớp đào tạo cán bộ Công đoàn. Thực hiện nâng lương, nâng bậc đúng niên hạn
cho CBCNV. Bổ nhiệm 7 giám đốc điều hành, 15 giám đốc đơn vị và 17 giám đốc
chuyên ngành nhà máy, Xí nghiệp, Chi nhánh; 12 giám đốc các Phòng, Trung
tâm . Hàng năm thu nhập bình quân năm sau cao hơn năm trước từ 10 – 20,3%; tổ
chức trên 2.000 lao động tham quan trong và ngoài nước; 10 đợt khám sức khoẻ


định kỳ cho tất cả người lao động trong công ty ; tham gia thành phố 5 đợt Hội
thao; 2 đợt Hội diễn văn nghệ; các chế độ bảo hiểm Y tế, bảo hiểm xã hội, học tập
nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn được đảm bảo đầy đủ .
4. Chiến lược marketing cho sản phẩm mới
- Rất nhiều trẻ em sau khi uống sữa bị sôi bụng, đau bụng, tiêu chảy... vậy đâu là

giải pháp để trẻ tránh được hiện tượng này và có loại sữa không đường lactose nào

-

phù hợp cho bé để bé không mất đi lượng canxi quan trọng từ sữa.
Lactose là một dạng đường có trong sữa bò và những sản phẩm từ sữa (kể cả sữa

-

mẹ).
Không dung nạp được lactose có nghĩa là cơ thể không sản xuất ra đủ lactase –

-

một enzym cần thiết để tiêu hóa lactose.
Kết quả, hàm lượng lactose không được tiêu hóa sẽ tích tụ ở ruột và gây nên vấn
đề về đường ruột. Hiện tượng này thường gây khó chịu cho bé nhưng lại không
nguy hiểm. Tình trạng không hấp thụ lactose có khả năng kéo dài ngay cả khi bé

-

bước vào tuổi mẫu giáo hoặc đã đi học.
Cân bằng dinh dưỡng cho bé: Nếu bé nhạy cảm với những sản phẩm từ sữa, bạn
nên tăng cường những thực phẩm giàu canxi để bé phát triển hệ xương, răng.
Những thực phẩm giàu canxi lại không có nguồn gốc từ sữa là: các loại rau màu

-

xanh sậm, súp lơ xanh, sữa đậu nành, cá hồi, nước cam, tôm, cua, ốc…
Sữa tiệt trùng Flex không lactoza của Vinamilk được sản xuất với công nghệ lên
men tiên tiến, cắt đôi hoàn toàn đường lactose thành glucose và galactose, giúp cơ
thể dễ dàng hấp thụ. Ngoài ra, với thành phần chứa hàm lượng Canxi, Vitamin D

cao, giúp cho phát triển chiều cao và cho xương chắc khỏe. Như vậy, với sản phẩm
sữa tiệt trùng Flex - không lactoza , người tiêu dùng hoàn toàn có thể yên tâm

uống sữa để bổ sung đầy đủ các dưỡng chất quan trọng cho cơ thể.
5. Phát triển sản phẩm
- Chiến lược phát triển sản phẩm của Vinamilk từ trước tới nay vẫn luôn hướng đến
sự an toàn và lợi ích sức khỏe của người tiêu dùng cả về thể chất và trí tuệ. Vì thế
chúng tôi vô cùng cẩn trọng trong từng giai đoạn: từ lên công thức sản phẩm,
quyết định nguồn nguyên liệu đến thiết kế kiểu dáng và bao bì sản phẩm nhằm
đảm bảo sự an toàn tối đa cho người sử dụng. Ngoài ra, chúng tôi tuyệt đối không


sử dụng những thành phần có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu
dùng như chất bảo quản cho tất cả sản phẩm của Vinamilk hiện tại và tương lai.
-

Với lợi thế về vốn, Vinamilk không ngừng mở rộng quy mô sản xuất khi có 1 nhà
máy sản xuất sữa ở New Zealand và 11 nhà máy sản xuất sữa từ Bắc vào Nam đã
chạy hết 100% công suất. Với mục tiêu lọt vào top 50 công ty sản xuất sữa lớn
nhất thế giới năm 2017, Vinamilk sẽ khánh thành 2 nhà máy chế biến sữa hiện đại
bậc nhất Thế giới vào đầu quý II năm 2013. Ngoài ra Vinamilk còn đẩy mạnh hoạt
động sản xuất sang các mảng kinh doanh khác gồm sữa bột, sữa đậu nành và nước
uống đóng chai. Mới đây Vinamilk cho ra mắt nhãn hiệu nước uống ICY. Thị
trường nước uống không cồn đang được nhiều ông lớn ngành hàng tiêu dùng quan
tâm. Khác với Vinamilk đẩy mạnh sang mảng nước uống và sữa đậu nành,
FrieslandCampina Việt Nam lại tập trung hơn đến các sản phẩm sữa bột. Mới đây
công ty này tung ra nhãn hiệu mới trong mảng sữa bột là Dutchlady Complete và
đẩy mạnh quảng cáo cho nhãn hàng Friso. Và mới đây nhất chính là sản phẩm sữa
không đường Lactoza của Vianmilk.


-

Không Lactoza giúp hạn chế hiện tượng sôi bụng, dễ tiêu hóa.
Đồng thời bổ sung thêm Canxi & Vitamin D giúp phòng ngừa loãng xương.
Sữa được xử lý bằng công nghệ tiệt trùng UHT hiện đại, hoàn toàn không sử dụng

-

chất bảo quản
Đối tượng sử dụng: Dành cho cả gia đình, đặc biệt phù hợp cho các đối tượng
muốn uống sữa để bổ sung Canxi và Vitamin D nhưng lại có hiện tượng sôi bụng
và khó tiêu do cơ thể không dung nạp Lactoza


-

Đội ngũ nghiên cứu và phát triển sản phẩm của Vinamilk luôn cập nhật các kiến
thức mới nhất về công nghệ, cũng như tìm hiểu sâu sát thị trường trong và ngoài

-

nước để tìm kiếm cơ hội và ý tưởng phát triển sản phẩm.
Ngày nay, xu hướng sử dụng thảo dược có nguồn gốc từ thiên nhiên, tốt cho sức
khỏe và sắc đẹp, đang là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng. Nắm bắt được
nhu cầu đó, Vinamilk đã cho ra đời sản phẩm nước uống từ linh chi kết hợp với
mật ong được chắt lọc tinh túy từ tự nhiên, tiện lợi cho khách hàng trong việc
chăm sóc sức khỏe.

KẾT LUẬN
Ngày nay ở các nước phát triển chỉ có khoảng 10% số sản phẩm mới là thực hiện sự đổi

mới với thế giới. Những sản phẩm này có chi phí và rủi ro rất lớn, vì chúng mới cả đối
với doanh nghiệp lẫn thị trường. Do đó, phần đông các doanh nghiệp thường tập trung cố


gắng của mình vào việc nghiên cứu cải tiến các sản phẩm hiện có thay vì nghiên cứu phát
triển sản phẩm hoàn toàn mới. Ví dụ hãng Sony dành 80% hoạt động về sản phẩm mới
cho công việc cải tiến các sản phẩm hiện có của mình. Việc phát triển sản phẩm mới
thường gặp nhiều khó khăn hơn là thành công. Tại sao có nhiều sản phẩm mới bị thất
bại? có nhiều lý do như sau:
-

Nhà quản trị cấp cao có thể đã ủng hộ ý tưởng mà ông ta ưa thích mà bất chấp
những kết quả marketing cho thấy là bất lợi. Hoặc ý tưởng thì tốt, nhưng người đã
đánh giá quá cao quy mô thị trường của nó. Hoặc sản phẩm đã không được chế tạo
hoàn hảo đúng mức. Hoặc nó đã bị định vị sai trong thị trường hay không được
quảng cáo chu đáo, hay do định giá quá cao. Đôi khi những chi phí cho việc triển
khai lại co hơn dự kiến, hoặc các đối thủ cạnh tranh đã phản ứng mạnh hơn mức
doanh nghiệp dự tính.

-

Càng ngày việc triển khai sản phẩm mới sẽ càng khó thành cồn hơn vì những lý do
sau:
 thiếu những ý tưởng hay về sản phẩm mới
 Tthị trường ngày càng manh mún và cạnh tranh gay gắt
 Những đòi hỏi của xã hội và chính quyền về an toàn trong tiêu dùng và bảo vệ

môi trường ngày càng cao hơn
 Quá trình triển khai sản phẩm mới quá tốn lém do áp lực về chi phí nghiên cứu


phát triển và marketing
 Thiếu vốn đầu tư cho nghiên cứu triển khai những ý tưởng tốt có triển vọng
 Chu kỳ sống của các sản phẩm ngày càng rút ngắn lại làm tăng nguy cơ khó

thu hồi vốn đầu tư cho nghiên cứu phát triển sản phẩm mới
-

Như thế các doanh nghiệp gặp phải tình trạng tiến thoái lưỡng nam, họ phải triển
khai sản phẩm mới nhưng không chắc gì thành công. Các doanh nghiệp có thể hạn
chế rủi ro bằng việc lập kế hoạch có tính hệ thống hơn và thiết lập một tiến trình
phát triển sản phẩm mới có hiệu quả hơn




×