Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều nguyễn giai đoạn 1802 1885 (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.79 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-------------------------------

Lê Tiến Công

TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ HOẠT ĐỘNG
BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13

Huế, 2015


Công trình được hoàn thành tại khoa Lịch sử,
trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Bang
PGS.TS. Nguyễn Văn Đăng
Phản biện 1: ………………………………………………
Phản biện 2: ……………………………………………….
Phản biện 2: ……………………………………………….

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học
Huế họp tại: số 3, đường Lê Lợi, TP Huế.
Vào hồi…….ngày….. tháng…… năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế và Thư viện Quốc gia.



CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. Báo cáo khoa học
1. Lê Tiến Công (2006), “Thông tin liên lạc trong việc bảo vệ
biển dưới thời Gia Long, Minh Mạng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
(366), tháng 10. ISSN 08667497.
2. Lê Tiến Công (2007), “Vị thế của biển trong cái nhìn của các
vua Nguyễn”, Xưa & Nay, (275,276). ISSN 868-331X.
3. Lê Tiến Công (2008), “Tuần tra, kiểm soát vùng biển thời
Nguyễn sơ”, tham luận tại hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3,
Hà Nội.
4. Lê Tiến Công (2012), “Những cuộc đụng độ của nhà Nguyễn
với phương Tây tại Đà Nẵng trước năm 1858”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử Xứ Quảng, số 1.
5. Lê Tiến Công (2012), “Ví trí chiến lược Nam Trung bộ trong
cái nhìn an ninh biển đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Huế Xưa & Nay,
số 10. ISSN 1859-2163.
6. Lê Tiến Công (2012), “Những người Việt lưu lạc trong cuộc
chiến với Hà Lan năm 1644”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, 12. ISSN
1859-2163.
7. Lê Tiến Công (2012) “Tổ chức phòng thủ vùng biển Miền
Trung dưới triều Nguyễn”, Hội thảo khoa học Biển Đông - hợp tác
và phát triển, Học viện chính trị Quốc gia, Khu vực III.
8. Lê Tiến Công (2013), “Biến cố trên Côn Đảo đầu thế kỷ
XIII”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, số 2/ 2013. ISSN 1859-2163.
9. Lê Tiến Công (2013), “Tổ chức phòng thủ vùng biển Miền
Trung đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển, số 1
(99). ISSN. 1859-0152.



10. Lê Tiến Công (2013), “Tuần tra, kiểm soát vùng biển thời
Nguyễn Sơ”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 6. ISSN 18591388.
11. Lê Tiến Công (2013), “Tìm thấy tư liệu quý về công tác tuần tra vùng
biển tại Cù Lao Chàm- Tân Hiệp, Hội An”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, số 119.
ISSN 1859-2163.
12. Lê Tiến Công (2013), “Hệ thống phòng thủ cảng biển miền
Trung trong cuộc kháng chiến chóng ngoại xâm dưới triều Nguyễn
(1858-1883)”, Hội thảo khoa học Triều Nguyễn với công cuộc bảo
vệ biển đảo tổ quốc vào thế kỷ XIX do Hội KHLS tỉnh Thừa Thiên
Huế tổ chức. Đã xuất bản trong sách: Đỗ Bang chủ biên (2014),
Triều Nguyễn với công cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc thế kỷ XIX,
NXB Đà Nẵng.
13. Lê Tiến Công (2014), “Việc bố phòng tại các cửa biển miền
Trung trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm (1858-1883)”, Tạp
chí Xưa & Nay, số 448, tháng 6. ISSN 868-331X
14. Lê Tiến Công (2014), “Về công tác vẽ bản đồ, thăm dò
đường biển và vận tải công trên biển dưới triều Nguyễn”, Tạp chí
Nghiên cứu & phát triển, số 3 (110). ISSN. 1859-0152.
15. Lê Tiến Công (2014), “Triều Nguyễn với công tác cứu hộ,
cứu nạn tại vùng biển miền Trung”. Tạp chí KHXH&NV, sở
KHCN Nghệ An, số tháng 7.
II. Đề tài nghiên cứu khoa học
Tham gia đề tài: Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt
Nam thời Nguyễn giai đoạn 1802-1885. Đề tài khoa học Nafoted
do PGS.TS. Đỗ Bang chủ nhiệm, thời gian thực hiện: 2012-2014.


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vùng biển Việt Nam dài rộng, có vị trí đặc biệt quan trọng đối
với kinh kế xã hội và an ninh quốc phòng. Hiện nay, trong điều kiện
hội nhập quốc tế, vùng biển và hải đảo được Đảng, Nhà nước đặc
biệt quan tâm. Đó là, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát
triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, nhằm bảo đảm vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,
trong đó có vùng biển và hải đảo.
Từ trong lịch sử, các triều đại quân chủ Việt Nam luôn coi
trọng vị trí chiến lược của biển đảo. Vào đầu thế kỷ XIX, để đối phó
với âm mưu xâm lược từ bên ngoài triều Nguyễn vừa phải quan tâm
bảo vệ biên giới trên đất liền, vừa phải quan tâm đến công tác phòng
thủ quốc gia từ phía biển. Mặc dù triều Nguyễn không thành công
trong công cuộc chống ngoại xâm vào nửa sau thế kỷ XIX nhưng
những nỗ lực trong bảo vệ đất nước mà triều đại này đã làm vẫn là bài
học kinh nghiệm quý cho hậu thế trong xây dựng và bảo vệ vùng biển,
bảo vệ đất nước. Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa lớn hơn trong giai đoạn
hiện nay, khi Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn dần trên
Biển Đông, không phải từ các nước xa lạ mà chính từ nước láng giềng.
Vùng biển luôn có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Bảo vệ vững chắc và xây dựng vùng biển đảo giàu
mạnh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế xã
hội trên từng địa bàn lãnh thổ góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nghiên cứu truyền

1


thống quốc phòng, an ninh nói chung, bảo vệ biển nói riêng dưới
triều Nguyễn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lịch sử
và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong truyền thống giữ

nước. Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu việc tổ chức và
hoạt động bảo vệ quốc gia trên biển, trực tiếp là hệ thống phòng thủ
vùng biển dưới triều Nguyễn có ý nghĩa thời sự, khoa học và thực
tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở trong nước
Những năm đầu thế kỷ XX, tạp chí Những người bạn cố đô Huế
có một số bài viết giới thiệu các tư liệu liên quan đến quá trình xâm
nhập của phương Tây vào Việt Nam. Giai đoạn trước năm 1975 đáng
chú ý nhất là Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa trên tập san Sử Địa
số 29 năm 1975 với các bài viết giá trị cung cấp nhiều tư liệu và luận
cứ khoa học khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa được người Việt khẳng
định chủ quyền từ nhiều thế kỷ trước. Sau 1975, việc nghiên cứu chú
trọng nhiều về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa, lịch
sử thủy quân và lịch sử chống ngoại xâm. Đáng chú ý là các sách trắng
về Hoàng Sa, Trường Sa vừa cung cấp tư liệu, vừa phân tích tính pháp
lý về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
Năm 1995, đề tài cấp Quốc gia về lịch sử chủ quyền của Việt Nam
ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Nguyễn Quang Ngọc làm chủ
nhiệm được thực hiện thành công với nhiều đóng góp trong tiến trình
nghiên cứu về Hoàng Sa, Trường Sa đặc biệt ở góc độ bản đồ, tài liệu thư
tịch cổ trong nước và tư liệu phương Tây. Năm 2003, Nguyễn Nhã bảo vệ
luận án Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường

2


Sa và Hoàng Sa. Luận án chứng minh quá trình chiếm hữu thực sự, hoà
bình và thực thi liên tục của các nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bên cạnh đó có một số đề tài liên quan như: Đề tài Hệ thống công
trình phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885) do Đỗ Bang
làm chủ nhiệm. Đề tài Font tư liệu về chủ quyền của Việt Nam với huyện
đảo Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng do Trần Đức Anh Sơn làm chủ
nhiệm... Từ đầu năm 2012 đến cuối năm 2014, Hội Khoa học Lịch sử
Thừa Thiên Huế chủ trì thực hiện đề tài khoa học “Tổ chức và hoạt
động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn thời kỳ 18021885”. Đề tài do Đỗ Bang làm chủ nhiệm, mã số IV4-2011.10, thuộc
quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia (Nafosted). Ở đề tài
trên chúng tôi thực hiện các nội dung: “Hệ thống các công trình
phòng thủ ở các cửa biển miền Trung dưới triều Nguyễn”, “Chống
ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền biển đảo”, “Cứu hộ, cứu nạn”. Bên
cạnh đó, chúng tôi tham gia viết các phần chống cướp biển (phần
miền Trung), vẽ bản đồ, vận tải biển, kiểm soát tàu thuyền.
Những năm gần đây có nhiều cuốn sách liên quan đến Biển Đông
được xuất bản của của một số tác giả như Nguyễn Nhã, Đinh Kim Phúc,
Nguyễn Văn Kim, Trần Công Trục, Vũ Hữu San, Nguyễn Q. Thắng,
Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Ngọc Trường... Điểm nổi bật của các công
trình trên là tiếp tục công bố những tài liệu, bản đồ và phân tích cơ sở
pháp lý của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Bên cạnh
đó còn có một số cuốn sách có liên quan trực tiếp đến đề tài như Tuyển
tập các Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Ủy ban Biên giới Quốc gia). Một

3


số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông (Viện
nghiên cứu Hán Nôm). Tháng 5.2014, sách Triều Nguyễn với công
cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc thế kỷ XIX do Đỗ Bang chủ biên là

cuốn sách mới nhất có liên quan trực tiếp đến đề tài. Cuốn sách cung
cấp cho người đọc cái nhìn khách quan về Triều Nguyễn – với tư
cách là triều đại quản lý lãnh thổ, lãnh hải rộng lớn. Cũng trong cuốn
sách này, chúng tôi có thực hiện phần “Hệ thống phòng thủ cảng biển
miền Trung trong cuộc kháng chiến chóng ngoại xâm dưới triều
Nguyễn (1858-1883)”. Tháng 9.2014, Trần Đức Anh Sơn (đứng tên và
chủ biên) công bố 3 cuốn sách về thuyền chiến và tư liệu Hoàng Sa,
Trường Sa góp phần vào thành tựu nghiên cứu về biển đảo Việt Nam.
Các tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Quân sự, Xưa & Nay,
Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu & Phát Triển, Huế xưa & nay,
… trong những năm qua đã đăng nhiều bài viết liên quan đến Hoàng
Sa – Trường Sa cũng như các nội dung liên quan đến đến đề tài.
Ngoài ra còn phải kể đến một số luận án, luận văn nghiên cứu về
công tác phòng thủ và hoạt động chống ngoại xâm dưới triều Nguyễn
của các tác giả Lưu Trang, Lưu Anh Rô, Lê Thị Toán, Lê Tiến Công,
Bùi Gia Khánh, Đinh Thị Hải Đường…
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài
Các học giả phương Tây có nghiên cứu về lịch sử chủ quyền
Biển Đông phải kể đến Marwyn S. Samyels, Tranh chấp Biển Đông,
Methuen. Monique Chemillier- Gendreau, Chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Braice M. Claget, Những yêu sách và
đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vựa bãi ngầm Tư

4


Chính và Thanh Long trong Biển Đông. Philippe Devillers, Nước Pháp
và người An Nam, bạn hay thù?… Liên quan đến về quá trình ứng phó
của vua đầu triều Nguyễn đối với âm mưu xâm lược của phương Tây
phải kể đến các luận án tiến sĩ của Trương Bá Cần, Cao Huy Thuần,

Y. Tsuboi… Nếu như các học giả phương Tây có những nghiên cứu
khách quan về lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa thì các học giả Trung Quốc lại ngụy biện trong các
công trình của họ. Tiêu biểu trong các nghiên cứu của Trung Quốc là
cuốn sách của Hàn Chấn Hoa có tựa đề Ngã quốc Nam Hải chư đảo
sử liệu hối biên. Tuy nhiên nghiên cứu của họ bị các nhà nghiên cứu
Việt Nam bác bỏ bằng các tư liệu trong và ngoài nước. Đặc biệt hơn,
các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng chỉ ra trong các sử liệu của Trung
Quốc không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà các nhà
nước quân chủ Việt Nam đã chiếm hữu.
Như vậy, nghiên cứu về Biển Đông mà đặc biệt là chủ quyền
của Việt Nam trên Biển Đông là chủ đề không mới. Tuy nhiên, các
nghiên cứu tập trung nhiều về vấn đề lịch sử xác lập và thực thi chủ
quyền của Việt Nam trên Biển Đông, trong khi những nghiên cứu về
vấn đề bảo vệ vùng biển chưa được quan tâm đúng mức như: hệ
thống phòng thủ, công tác tuần tra, kiểm soát vùng biển, chống cướp
biển, cứu hộ cứu nạn, vận tải công,… đều là những hoạt động thường
xuyên, liên tục trong suốt giai đoạn độc lập của nhà Nguyễn.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển từ kết quả nghiên cứu luận văn
thạc sĩ của tác giả bảo vệ năm 2006, chúng tôi mở rộng về thời gian
nghiên cứu cũng như hệ thống và cập nhật những tư liệu, kết quả
nghiên cứu mới nhất để thực hiện luận án tiến sĩ. Quá trình nghiên

5


cứu luận án cũng là quá trình tác giả tham gia thực hiện đề tài khoa
học mã số IV4-2011.10. Tác giả là người tham gia viết các phần liên
quan trực tiếp đến hệ thống phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển
miền Trung. Luận án cũng là sản phẩn đào tạo thuộc đề tài khoa học

nói trên. Trong luận án chúng tôi bổ sung nhiều tư liệu điền dã là các văn
bản Hán Nôm, bằng sắc thủy quân, các văn bia, đặc biệt là các Châu
bản triều Nguyễn chưa từng được công bố để nghiên cứu nhằm bổ sung,
góp phần nghiên cứu về lịch sử bảo vệ biển đảo dưới triều Nguyễn.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về việc tổ chức và các hoạt động bảo vệ vùng biển
miền Trung của triều Nguyễn nhằm thấy được một cách cụ thể và
khái quát những thành công và hạn chế về công cuộc bảo vệ vùng
biển cũng là bảo vệ quốc gia đương thời. Nhiệm vụ của luận án là
nêu và phân tích các chính sách, biện pháp của triều Nguyễn trong
việc thực hiện phòng thủ và bảo vệ vùng biển. Nghiên cứu, đánh giá
hệ thống phòng thủ vùng biển miền Trung trong mối tương quan với
nhiệm vụ phòng thủ đất nước dưới triều Nguyễn. Nghiên cứu về cách
thức tổ chức, huấn luyện và trang bị của thủy quân; các hoạt động
bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển, bao gồm chống ngoại xâm,
chống cướp biển, tuần tra kiểm soát vùng biển, cứu hộ cứu nạn. Luận
án cũng nghiên cứu việc tổ chức bảo vệ và thực thi chủ quyền trên
quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa dưới triều Nguyễn, nhằm thấy được
tính liên tục và quyết tâm khẳng định chủ quyền của các vua triều
Nguyễn trên hai quần đảo này...

6


4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng của đề tài là nghiên cứu toàn bộ công cuộc tổ chức
phòng thủ và những hoạt động bảo vệ vùng biển ở miền Trung Việt
Nam dưới triều Nguyễn, được thể hiện bằng những chủ trương, cơ
chế tổ chức cũng như những hoạt động cụ thể, sinh động đương thời.
Đề tài giới hạn trong phạm vi không gian vùng biển các tỉnh miền

Trung Việt Nam đương thời, bao gồm tất cả vùng biển, bờ biển, cửa
biển, hải đảo, chú trọng đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thời gian nghiên cứu trong đề tài từ năm 1802 đến năm 1885, đây là
giai đoạn từ khi triều Nguyễn thành lập đến sự kiện Kinh đô thất thủ,
đất nước rơi vào tay thực dân Pháp.
5. NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
Nguồn tư liệu quan trọng nhất là các tư liệu gốc liên quan trực
tiếp đến triều Nguyễn. Đặc biệt nguồn tư liệu quan trọng được chúng
tôi khai thác là Châu bản triều Nguyễn. Nhiều Châu bản triều
Nguyễn được chúng tôi sử dụng trong luận án là những tư liệu quý
chưa từng được công bố. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tham khảo một
số công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước gồm các nhóm tài liệu
như: các báo cáo kết quả công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên
khảo, các luận án, luận văn, các bài báo khoa học được công bố trên
các tạp chí chuyên ngành, các tham luận hội thảo quốc gia và quốc tế.
Một nguồn tài liệu quan trọng khác là các tư liệu điền dã của tác giả tại
miền Trung. Đó là các văn bản Hán Nôm (chưa công bố) gồm các sắc,
bằng, chế, báo cáo của thủy quân; các văn bia, tài liệu địa chí địa
phương. Bên cạnh đó, tác giả xác định vị trí, đo vẽ một số di tích còn
lại trên thực tế nhằm bổ sung và củng cố các luận chứng trong luận án.

7


6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này tác giả sử dụng phương pháp duy vật
lịch sử và phương pháp lôgic để nghiên cứu. Chúng tôi áp dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu liên ngành: Khảo cổ học, bản đồ,
thống kê, so sánh,…
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Luận án là kết quả của một quá trình nghiên cứu có tính hệ
thống của tác giả, được hoàn thiện và bổ sung bằng các tư liệu mới
phát hiện, đặc biệt là các tư liệu điền dã, bao gồm các văn bia, văn
bản Hán Nôm như: sắc phong, bằng, chế, báo cáo… liên quan đến
thủy binh triều Nguyễn. Bên cạnh tư liệu điền dã, tác giả cũng đã
khai thác các tư liệu Châu bản triều Nguyễn liên quan đến đề tài,
nhiều tài liệu châu bản sử dụng trong luận án chưa được công bố.
Đóng góp mới của luận án là cung cấp những tư liệu mới, có hệ thống,
khách quan liên quan đến chủ đề bảo vệ đất nước và vùng biển Miền
Trung dưới triều Nguyễn.
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về
công cuộc tổ chức và bảo vệ biển đảo tại miền Trung dưới triều
Nguyễn. Tác giả đã nghiên cứu và làm rõ những nỗ lực bảo vệ chủ
quyền, an ninh vùng biển của nhà Nguyễn. Luận án chỉ ra những cơ
sở tác động đến việc tổ chức phòng thủ. Quá trình xây dựng và thiết
lập hệ thống phòng thủ, lực lượng, phương tiện phòng thủ. Các hoạt
động thực thi chủ quyền vùng biển… được nêu và phân tích những
mặt tích cực, hạn chế của các hoạt động này. Thông qua kết quá
nghiên cứu về công cuộc bảo vệ biển, bảo vệ đất nước dưới triều

8


Nguyễn, luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học có thể tham khảo
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay.
8. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung luận án được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở tác động đến việc tổ chức phòng thủ và hoạt động
bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885

Chương 2: Tổ chức phòng thủ vùng biển miền Trung dưới triều
Nguyễn giai đoạn 1802-1885
Chương 3: Hoạt động bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển
miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885
Chương 1
CƠ SỞ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC TỔ CHỨC PHÒNG THỦ
VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885
1.1. VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG
Vùng biển miền Trung có vị trí quan trọng trong tổng thể biển
đảo Việt Nam, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với
nhiều đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm
soát và làm chủ vùng biển. Với vị trí quan trọng của nó, từ trong lịch
sử, vùng biển đã được cha ông chú ý khai thác và bảo vệ, thực thi chủ
quyền lãnh thổ như là một phần máu thịt của quốc gia Đại Việt.
1.2. TRUYỀN THỐNG BẢO VỆ VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO TẠI MIỀN TRUNG TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN

9


1.2.1. Truyền thống bảo vệ biển
Dưới thời chúa Nguyễn, tài liệu ghi nhận những chiến công
trong việc bảo vệ vùng biển đảo, chống lại sự đe dọa của các thế lực
bên ngoài. Tiêu biểu là năm 1559, tàu Tây Ban Nha đã bị lực lượng
phòng hải của chúa Nguyễn đuổi ra khỏi vùng biển. Giữa thế kỷ
XVII, thủy quân chúa Nguyễn cũng giành thắng lợi trong cuộc đụng
độ với tàu Hà Han tại vùng biển miền Trung. Đầu thế kỷ XVIII, quân
chúa Nguyễn đã đẩy lui quân Anh muốn xâm chiếm Côn Đảo. Dưới
thời Tây Sơn, tuy thời gian tồn tại không dài nhưng triều đại này rất

chú trọng là tăng cường thủy quân theo hướng quân thủy biển. Như
vậy mặc dù có sự quan tâm khác nhau nhưng các triều đại trong lịch
sử Việt Nam luôn chú ý đến phòng thủ ở các cửa biển, vùng biển
chiến lược. Bên cạnh hệ thống phòng thủ là việc thường xuyên trang
bị thuyền chiến, vũ khí sẵn sàng thực thi chủ quyền khi cần thiết.
1.2.2. Bảo vệ và khai thác nguồn lợi trên quần đảo Hoàng Sa –
Trường Sa trước triều Nguyễn
Đồng thời với quá trình Nam tiến của dân tộc, các chúa
Nguyễn đã tiếp tục quản lý các quần đảo ngoài khơi. Đây là hai quần
đảo nằm xa bờ, không phải là dải cát ven biển miền Trung kéo dài từ
cửa Nhật Lệ (Quang Bình) tới Tư Dung (Thừa Thiên Huế) thường
được gọi là “Đại Trường Sa”, “Tiểu Trường Sa”. Điều này được các
nhà hàng hải phương Tây ghi chép và luôn xem các quần đảo giữa
Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Trong
sách Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, người Trung Quốc sang
Đàng Trong năm 1695 có đoạn miêu tả về Vạn Lý Trường Sa thuộc
sự quản lý của chúa Nguyễn. Ở Việt Nam, những tư liệu được chép

10


trước thế kỷ XIX hầu hết có những nội dung tương đồng, trong đó
sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết vào năm 1776 có thể xem
là đầy đủ nhất. Sách Đại Việt sử ký tục biên hay về sau là Đại Nam
thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí căn bản không khác ghi
chép của Lê Quý Đôn. Nhiều văn bản hiện còn lưu trữ trong dân gian
ở huyện đảo Lý Sơn cũng bổ sung thêm tư liệu về việc quản lý và
khai thác tại Hoàng Sa...
Có thể nói việc quản lý và khai thác quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa trước thế kỷ XIX đã được ghi chép trong các thư tịch

trong và ngoài nước. Các tư liệu đều khẳng định từ đầu thế kỷ XVII,
chúa Nguyễn đã quản lý và khai thác tại đây. Đây là công việc do nhà
nước quản lý và đội Hoàng Sa, Bắc Hải thực thi nhiệm vụ. Hàng năm
vào lúc thuận gió, từ tháng 3 đến tháng 8 họ lại ra biển để làm nhiệm
vụ của Nhà nước giao phó. Họ đã xác định được tại đây có hơn 130
bãi cát và hải trình đi tới các hòn đảo như thế nào. Bên cạnh đó, họ tổ
chức thu lượm hóa vật, sản vật đem về phủ Phú Xuân giao nộp. Hoạt
động này diễn ra thường xuyên, được duy trì dưới thời Tây Sơn và
được kế tục, nâng cao hơn dưới triều Nguyễn.
1.3. BỐI CẢNH CẢNH LỊCH SỬ DƯỚI TRIỀU

NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1885
Vào đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn thành lập thì bối cảnh
thế giới đang có bước chuyển biến mạnh mẽ. Đây là thời đại của các
nước tư bản ráo riết tranh giành thị trường và xâm lược thuộc địa.
Nhiều nước phương Đông lần lượt bị thôn tính, điều đó trực tiếp đe
dọa đến chủ quyền của các quốc gia phương Đông, trong đó có Việt
Nam. Các vua Nguyễn đã luôn coi phương Tây có những đe dọa tiềm

11


tàng đối với an ninh và rối loạn tư tưởng thống trị là Nho giáo. Trong
bối cảnh đó các vua Nguyễn nhận thấy những nguy cơ tiềm ẩn buộc
phải thực thi một số chính sách về quốc phòng, an ninh nói chung,
phòng thủ biển nói riêng nhưng nhìn chung không đủ để vươn tới tầm
khoa học kỹ thuật của thời đại.
1.4. BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG TRONG TẦM NHÌN QUỐC
PHÒNG - AN NINH DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
Cơ sở cho việc triều nguyễn tổ chức phòng thủ vùng biển miền

Trung có sự kết thừa từ truyền thống hướng biển từ các triều đại trước.
Các vua từ Gia Long tới Tự Đức đều phải chăm lo xây dựng và củng
cố chính quyền, phát triển kinh tế xã hội lại phải đặc biệt quan tâm đến
an ninh quốc phòng, bảo vệ đất nước. Nghiên cứu về cái nhìn hướng
biển của các vua Nguyễn, chúng tôi nhận thấy quan điểm về biển của
các vua đầu triều Nguyễn không chỉ thể hiện sâu sắc qua những phát
biểu trong các buổi nghị sự, những chỉ dụ mà còn được thể hiện qua
những đánh giá xác thực về tầm quan trọng của biển cả. Cái nhìn về an
ninh quốc phòng vùng biển miền Trung còn được thể hiện qua hệ
thống phòng thủ, thủy quân hay tổ chức thực thi chủ quyền trên vùng
biển đảo... Tất cả những điều đó là cơ sở để vua Nguyễn thực thi một
số biện pháp trong tổ chức phòng thủ vùng biển miền Trung, vừa bảo
vệ vùng biển, vừa trực tiếp bảo vệ cho Kinh đô của mình.

12


CHƯƠNG 2:
TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1885
2.1. HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH PHÒNG THỦ VÙNG BIỂN
Từ việc đánh giá cao vị thế quan trọng của vùng biển và hải
đảo miền Trung nên suốt một dải miềm Trung từ bắc vào nam nhà
Nguyễn đều cho đặt các cơ sở phòng thủ vùng biển, là các thành đồn,
tấn sở trong đó ưu tiên đặc biệt cho cửa Thuận An, Đà Nẵng. Các
tỉnh duyên hải “không đâu không lập pháo đài”. Điều đáng lưu ý là
mỗi khi Đà Nẵng hữu sự thì các vua Nguyễn đều tỏ ra vô cùng lo
lắng và tăng cường bố phòng cửa Thuận An. Nhìn chung dưới triều
Nguyễn đứng trước nguy cơ bị tấn công từ phía biển, nhà nước đã
cho xây dựng tại các cảng biển miền Trung một hệ thống các công

trình phòng thủ khá kiên cố. Tùy theo mức độ quan trọng để bố trí
lực lượng tại các cửa biển. Các công trình phòng thủ vùng biển nói
trên được xây dựng vào thời bình, về sau, với cuộc kháng chiến
chống xâm lược, hệ thống này được tiếp tục tăng cường theo hướng
chú trọng các cửa biển quan trọng. Cho đến nay, những di tích đáng
kể của hệ thống phòng thủ cửa biển là di tích Thành Trấn Hải, Hải
Vân Quan và thành Điện Hải. Cũng qua khảo sát tại Hải Vân Quan,
chúng tôi xác định vị trí đặt cửa ải này không phải là chỗ “hiểm yếu”
nhất mà là chỗ dễ quan sát xuống cửa biển Đà Nẵng nhất.
2.3. TỔ CHỨC, HUẤN LUYỆN THỦY QUÂN
2.3.1. Tổ chức thủy quân

13


Quân thủy thời Nguyễn gồm bộ phận đóng ở kinh và các tỉnh.
Thủy quân đóng ở Kinh đô gọi là Thủy sư kinh kỳ. Vào đầu thời Gia
Long, lực lượng thủy quân có 5 doanh, gồm các doanh Nội thủy,
Tiền thủy, Tả thủy, Hữu thủy, Hậu thủy. Thời Minh Mạng chia đặt lại
làm 3 doanh là Trung, Tả, Hữu. Mỗi doanh 5 vệ, mỗi vệ 10 đội. Thủy
quân ở các tỉnh đến năm 1827 dưới thời Minh Mạng cho đổi là vệ, chịu
sự chỉ huy trực tiếp của Đề đốc hoặc Lãnh binh (tỉnh lớn), Lãnh binh
hoặc Phó lãnh binh (tỉnh nhỏ). Ở các tỉnh, tùy theo vị trí mà quân số
và biên chế có khác nhau. Các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Quảng Trị, Quảng Bình đều chỉ có 1 vệ (khoảng 500
người). Các tỉnh Quảng Nam, Bình Thuận, Thanh Hóa đều có 2 vệ,
riêng Nghệ An có 4 vệ. Cần lưu ý rằng quân số tại cửa biển Đà Nẵng
là quân chính qui của triều đình được chia đóng luân phiên thay đổi
tại đây. Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi có tiếp cận các tài liệu
chữ Hán hiện lưu giữ ở địa phương chưa từng được công bố cho thấy

rất nhiều các tư liệu trong dân gian về các dòng họ có truyền thống
bám biển, giữ biển được nhà nước trọng dụng vào việc công. Những
tư liệu phát hiện tại địa phương đã bổ sung những tư liệu quý vào
chính sử triều Nguyễn về công tác bảo vệ biển và tính cộng đồng giữ
biển dưới triều đại này.
2.3.2. Huấn luyện thủy quân
Công tác huấn luyện của thủy quân dưới thời Nguyễn chủ yếu
là các cuộc diễn tập tại các cửa biển. Bên cạnh đó, nhà Nguyễn cũng
kết hợp giữa việc diễn tập với công tác tuần tra hay vận tải. Vua
Minh Mạng từng khẳng định: khi đưa thủy quân ra biển là một việc
mà có 3 điều lợi, vừa giúp vận tải, tuần tra – thao diễn, vừa quen

14


đường biển. Trên biển, thủy quân thao diễn cách bắn đại bác vào mô
hình thuyền giả định. Đó là cách diễn tập theo mô hình tĩnh, chủ động
tạo đích bắn phá trong các cuộc tập luyện. Về chiến thuật, hiện nay
chúng ta không tìm thấy những tài liệu riêng biệt nói về chiến thuật
dụng binh, trong đó về thủy binh và cách bố trí thuyền chiến mỗi lúc
xung trận mặc dù từ khi Nguyễn Ánh còn ở Gia Định, thủy quân của
ông đã biết sử dụng chiến thuật hàng hải.
2.3. THUYỀN CHIẾN, VŨ KHÍ VÀ THÔNG TIN LIÊN LẠC
2.3.1. Thuyền chiến của thủy quân
Thuyền chiến dưới triều Nguyễn có nhiều loại nhưng đáng chú ý
và chiếm số lượng nhiều là thuyền bọc đồng. Theo thống kê của
chúng tôi, trong các năm từ năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đến năm
Tự Đức thứ 4 (1852), có 43 lần đóng thuyền bọc đồng nhiều dây.
Trong đó, thuyền đồng được đóng nhiều nhất dưới thời Minh Mạng
(29 chiếc). Thiệu Trị chỉ cho đóng 10 chiếc, nhưng trong đó có

những chiếc rất lớn với chiều dài lên tới 8, 9 trượng. Cũng cần lưu ý
rằng thuyền đồng không chỉ được đóng ở kinh mà còn được đóng ở
các tỉnh sẵn có vật liệu tốt để đóng thuyền. Thuyền công hay thuyền
tuần dương thời Nguyễn đều mang nặng yếu tố quân thuyền do đặc
điểm cần triển khai nhanh, phối hợp chiến đấu khi cần thiết. Bên
cạnh thuyền bọc đồng là thuyền máy hơi nước. Tuy có những khó
khăn trong việc đóng tàu hơi nước nhưng dưới thời Minh Mạng đã
cho đóng được 3 chiếc tàu hơi nước là Yên Phi, Vân Phi, Vụ Phi.
Thiệu Trị cho mua một thuyền máy hơi nước mới rất lớn là Điện Phi.
Ngoài tàu chiến do nhà nước đóng hàng năm để trang bị cho thủy
quân thì các địa phương cũng được khuyến khích đóng các thuyền

15


nhanh nhẹ, có thể huy động vào việc quân khi cần. Các Châu bản
triều Nguyễn chúng tôi đã tiếp cận và công bố trong luận án góp phần
chứng minh vai trò quan trọng của thuyền chiến các địa phương.
2.4.2. Vũ khí của thủy quân
Vũ khí được trang bị cho các thành đồn tại các cửa biển quan
trọng nhất là súng thần công. Nguồn cung cấp vũ khí cho thủy quân
là công xưởng nhà nước và đặt mua tại nước ngoài. Số lượng súng
đạn được sản xuất tại công xưởng chủ yếu là súng thần công. Các
loại vũ khí phân phát trong phòng thủ cửa biển, tùy theo mức độ và
thời điểm mà đặt nhiều hay ít, trong đó bố trí nhiều nhất tại Thuận
An và Đà Nẵng. Bên cạnh đó các thuyền đi tuần tra, công vụ nước
ngoài đều có mang theo súng. Vũ khí trên các pháo đài thường được
nhắm vào các vị trí phòng thủ để cho bắn thử để biết được sức mạnh
cũng như hiệu quả tại chỗ. Đối với các thuyền quân kiêm vận tải trong
nước đều có mang theo vũ khí để tự vệ, đặc biệt là chống bọn cướp

biển. Bên cạnh các loại súng, dưới triều Minh Mang còn chế ra ống
phun lửa dùng để phòng ngự, đánh đồn giặc, phóng xuống thuyền giặc.
2.4.3. Thông tin liên lạc trong bảo vệ vùng biển
Để đảm bảo nắm bắt nhanh chóng tình hình trên biển, cửa biển
nhà Nguyễn đã cho thực thi nhiều biện pháp như xây dựng các đài
phong hỏa, chạy ngựa trạm hay các vọng lâu, kỳ lâu. Tùy theo tình
hình hiệu quả cụ thể mà triển khai ứng dụng hay thoái triệt chỉ sau
một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, các công cụ hỗ trợ thông tin là các
hiệu cờ, hiệu súng được qui định thống nhất đối với các trường hợp
cụ thể. Hỗ trợ cho việc nhận biết, nhà Nguyễn đã cho sử dụng phổ
biến kính Thiên lý, được ca ngợi là hỗ trợ đắc lực tại các cửa biển,

16


nhất là mỗi khi đi tuần tiễu đều phải sử dụng. Đó là những sáng kiến
quan trọng trong điều kiện kỹ thuật lý bấy giờ đáp ứng được một
phần công tác thông tin trong bảo vệ biển. Tuy nhiên trên thực thế,
khi nghiên cứu các tài liệu từ Châu bản triều Nguyễn cho thấy nhiều
báo cáo bằng văn bản của các quan tấn thủ gửi về triều đình về tất cả
các diễn biến diễn ra tại cửa biển, điều đó cho thấy các báo cáo chính
thức và quan trọng nhất là báo cáo chạy trạm và đó chính là phương
tiện hữu hiệu nhất. Bên cạnh đó là hệ thống thuyền buôn và thuyền
đánh cá của các địa phương cũng tham gia tích cực vào việc thông
báo tin tức trên biển.
Chương 3:
HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN
VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
GIAI ĐOẠN 1802-1885
3.1. HOẠT ĐỘNG TUẦN TRA, KIỂM SOÁT VÙNG BIỂN

VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN QUẦN ĐẢO HOÀNG SA –
TRƯỜNG SA
3.1.1. Hoạt động tuần tra, kiểm soát vùng biển
Tuần tra kiểm soát là hoạt động quan trọng trong bảo vệ và thực
thi chủ quyền vùng biển. Mục đích của tuần tra mặt biển được vua
Minh Mạng chỉ rõ là một việc mà có đến ba điều lợi là làm quen
đường biển, thao luyện thủy quân và phòng trừ cướp biển. Một trong
những cái lợi trực tiếp nữa là bảo vệ vận tải biển, vốn được sử dụng rất
nhiều trong việc vận chuyển sản vật và vật liệu ở các địa phương về

17


Kinh đô. Trên thực tế, hoạt động tuần tra được thực hiện thường xuyên
nhưng chú trọng nhiều nhất vào khoảng tháng 3 đến tháng 7. Đây là
những tháng thuận lợi cho việc vận tải đưởng thủy và đây cũng chính
là thời điểm có nhiều cướp biển. Việc tuần tra, kiểm soát vùng biển nói
chung được giao cho đội quân chính qui, song ở các địa phương
thường được giao quyền chủ động. Các tỉnh lấy dân địa phương (dân
ngoại tịch) rồi lập thành các đội tuần tra. Những qui định về việc kiểm
soát tại cửa biển, nhất là đối với người phương Tây là rất chặt chẽ vì
vua Nguyễn đã ý thức rất rõ nguy cơ đe dọa từ bên ngoài.
3.1.2.Tổ chức bảo vệ và thực thi chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa – Trường Sa
Sau khi thành lập triều Nguyễn, Gia Long đã tiếp tục truyền
thống của các triều đại trước trong việc quản lý Hoàng Sa - Trường
Sa. Các vua nối nghiệp đều tiếp tục công việc khai thác và bảo vệ
Hoàng Sa, Trường Sa, coi đây là hải cương quan trọng hiểm yếu về
phía biển. Dưới triều Nguyễn việc quản lý và khai thác tại Hoàng Sa,
Trường Sa được thực hiện thường xuyên và liên tục. Đặc biệt triều

Nguyễn đã tích hợp hoạt động của nhà nước với địa phương, của
thủy quân, dân binh và dân phu để quản lý và khai thác tại hai quần
đảo này. Hàng năm cứ tháng 3 đến tháng 6 nhà nước lại cử các đoàn
công vụ tại Hoàng Sa. Công việc chủ yếu là đo đạc, cắm mốc, vẽ bản
đồ, khai thác sản vật, cứu hộ… Điều đặc biệt là những thông tin về
quá trình khai thác tại Hoàng Sa nói trên có sự ghi nhận trong các bản
đồ của người nước ngoài. Ở trong mước, thể hiện rõ nhất trong sách
Đại Nam thực lục chính biên và từ tài liệu Châu bản triều Nguyễn,
đây là là văn bản hành chính đặc biệt của Nguyễn chứng minh quá

18


trình chiếm hữu liên tục tại quần đảo quan trọng này của triều
Nguyễn mà không có bất kỳ một sự tranh chấp nào đối với các thế
lực bên ngoài.
3.2. HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG CƯỚP BIỂN
Cướp biển có nguồn gốc, xuất thân khá phức tạp là một trong
những lý do làm cho công tác phòng chống gặp rất nhiều khó khăn.
Bọn cướp biển chủ yếu là chặn cướp thuyền công vận tải, thuyền
buôn và thuyền đánh cá của ngư dân. Thời gian hoạt động của thuyền
vận tải, thuyền buôn cũng chính là thời điểm thuận lợi cho thuyền
cướp biển ra tay cướp hại. Công tác tuần tra thường xuyên đem đến
nhiều hiệu quả trong việc giữ yên mặt biển. Hầu hết những lần đụng
độ với cướp biển thì phần thắng vẫn thuộc về thủy quân nhà Nguyễn.
Nhìn chung, nhà Nguyễn đã cố gắng và có nhiều biện pháp phòng
chống cướp biển. Nạn cướp biển phần nào được giải quyết song ở
một mức độ nào đó vẫn chưa thể triệt để, cướp biển vẫn là mối đe
doạ lớn về an ninh trong vùng biển.
3.3. CÔNG TÁC CỨU HỘ, CỨU NẠN

Dưới thời Nguyễn nhà nước đã có nhiều hoạt động cứu hộ cứu
nạn trên vùng biển do mình quản lý. Rất nhiều thuyền công sai,
thuyền nước ngoài, thuyền binh, thuyền buôn gặp nạn trên vùng biển
miền Trung đã được cứu giúp. Sách Thực lục ghi chép khá nhiều việc
cứu hộ, cứu nạn. Hội điển có chép một số trường hợp cứu hộ điển
hình và đặc biệt trong Châu bản triều Nguyễn chúng tôi nhận thấy có
rất nhiều Châu bản nói về công tác cứu hộ các tàu thuyền gặp nạn tại
các cửa biển và vùng biển do nhà Nguyễn quản lý. Tựu trung không
phân biệt là thuyền công hay thuyền tư, thuyền trong nước hay

19


thuyền nước ngoài đều được quan tâm ứng cứu kịp thời. Tùy vào các
trường hợp cụ thể, có thể có những chuẩn cấp đặc biệt cho các thuyền
công sai của nước ngoài gặp nạn trên vùng biển Việt Nam. Nhìn
chung, đây là một trong những hoạt động nhân đạo thường xuyên và
hiệu quả tại các cửa biển. Các đồn biển ngoài nhiệm vụ quan sát,
phòng thủ còn làm nhiệm vụ cứu nạn thuyền công giặp gió, tìm kiếm
tàu thuyền, người gặp nạn. Cứu hộ cứu nạn là hoạt động có nhiều đóng
góp, hỗ trợ rất nhiều cho tàu thuyền gặp nạn. Nhà Nguyễn đã làm rất
tốt hoạt động nhân đạo này.
3.4. CHỐNG NGOẠI XÂM, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
Tháng 9 năm 1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng xâm
lược Việt Nam và nhanh chóng giành thế áp đảo. Tuy nhiên quân
Pháp không thể tiến sâu vào nội địa do sự kháng cự quyết liệt của
quan quân nhà Nguyễn. Đến tháng 3.1860 chúng đốt phá rồi kéo đi,
kết thúc chiến trận Đà Nẵng mà không đạt được mục đích. Ngay sau
biến cố Đà Nẵng năm 1858, bên cạnh việc phái quân sĩ tập trung tại
chiến trường Đà Nẵng thì các cửa biển khác cũng tiếp tục được tăng

cường phòng bị, trong đó đặc biệt quan tâm đến Thuận An. Tháng 8
năm 1883, Pháp quyết định tấn công Thuận An, quân nhà Nguyễn
thất bại sau 3 ngày bị pháo kích. Ngày 21.8.1883, quân Pháp chiếm
Thuận An. Các pháo đài ở Thuận An vốn là công sức, tâm huyết của
vua quan nhà Nguyễn, biểu tượng của lòng tự tôn, sức mạnh phòng
thủ phải giao lại cho Pháp quản lý. Trong cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm thủy quân không thể hiện được vai trò bảo vệ đất nước từ
phía biển. Mặc dù có rất nhiều cố gắng trong việc tổ chức bố phòng,
kháng chiến chống ngoại xâm, vua quan nhà Nguyễn đã chống đỡ

20


được cuộc tấn công vào Đà Nẵng, khiến chúng phải rút lui sau 18
tháng không thu được kết quả, tuy thế, nỗ lực cuối cùng đã bị khuất
phục bằng tàu lớn và đại bác.
KẾT LUẬN
Sau khi thành lập triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX, vua Gia
Long đã chọn Phú Xuân để đóng đô, lợi dụng địa thế hiểm yếu của
núi sông, cửa biển miền Trung để xây dựng hệ thống phòng thủ. Đây
là nơi hội tụ của các yếu tố phòng thủ tự nhiên, có các cửa biển chiến
lược có thể trông cậy để xây dựng lực lượng phòng thủ chống lại kẻ
thù, đặc biệt là sự đe dọa từ các tàu chiến phương Tây. Các vua triều
Nguyễn cũng rất quan tâm tới các đảo chiến lược, trong con mắt của
các vua Nguyễn, vị thế của biển, đảo được đánh giá rất cao, thể hiện
cái nhìn hướng biển đúng đắn. Đó là cơ sở để các vua Nguyễn tổ
chức và tiến hành các hoạt động bảo vệ vùng biển.
1. Từ việc đánh giá cao vị thế quan trọng của vùng biển và hải
đảo nên các tỉnh miền Trung, nhà Nguyễn đều cho đặt các cơ sở
phòng thủ vùng biển, trong đó ưu tiên đặc biệt cho cửa Thuận An, Đà

Nẵng. Các tỉnh duyên hải “không đâu không lập pháo đài”. Trong
thời bình cũng như trong thời chiến, tùy vào bối cảnh cụ thể nhưng
luôn quan tâm tới công tác bố phòng. Việc phòng thủ vùng biển ở các
địa phương hầu hết Nhà nước đều giao quyền chủ động tác chiến cho
địa phương, trong đó Nhà nước giữ vai trò chỉ đạo. Các cửa biển nhỏ
thì giao cho dân trong vùng phụ giữ, tùy theo mức độ quan trọng của
cửa biển mà tăng cường hay thoái triệt lực lượng tại tấn sở. Việc tổ
chức phòng thủ đất nước, trong đó chú trọng vùng biển và các cửa

21


×