Tải bản đầy đủ (.pdf) (372 trang)

Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.46 MB, 372 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
----------------------

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2008 - 2009

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đề tài:

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT,
TẬP HỢP THANH NIÊN CÁC DÂN TỘC Ở
TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
Chủ nhiệm đề tài : TS. Lê Văn Đính
Thư ký đề tài
: ThS. Trần Văn Thạch
Cơ quan chủ trì : Học viện CT - HC khu vực III

7490
21/8/2009
Đà Nẵng, tháng 06 năm 2009


TẬP THỂ TÁC GIẢ

1. TS. Lê Văn Đính

(Chủ nhiệm đề tài)

Học viện CT – HC khu vực III

(Thư ký đề tài)



Học viện CT – HC khu vực III

2. ThS. Trần Văn Thạch

3. PGS, TS. Nguyễn Hồng Sơn

Học viện CT – HC khu vực III

4. PGS, TS. Phạm Hảo

Học viện CT – HC khu vực III

5. PGS, TS. Trương Minh Dục

Học viện CT – HC khu vực III

6. PGS, TS. Hồ Tấn Sáng

Học viện CT – HC khu vực III

7. TS. Trần Tăng Khởi

Học viện CT – HC khu vực III

8. TS. Vũ Anh Tuấn

Học viện CT – HC khu vực III

9. TS. Nguyễn Thị Tâm


Học viện CT – HC khu vực III

10. TS. Nguyễn Văn Lý

Học viện CT – HC khu vực III

11. TS. Chu Xuân Việt

Ủy Ban Thanh niên Việt Nam

12. ThS. Nguyễn Thị Lệ Thủy

Học viện CT – HC khu vực III

13. ThS. Mai Thị Hồng Liên

Học viện CT – HC khu vực III

14. CN. Nguyễn Duy Trình

Học viện CT – HC khu vực III

15. CN. Nguyễn Văn Quang

Học viện CT – HC khu vực III


CÁC TỪ VÀ CÁC VĂN BẢN VIẾT TẮT


ATGT

An toàn giao thông

BTV

Ban thường vụ

BCH

Ban chấp hành

CNXH, XHCN

Chủ nghĩa xã hội, Xã hội chủ nghĩa

CCB

Cựu chiến binh

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hóa

CT - TTg

Chỉ thị - Thủ tướng

CĐ, ĐH


Cao đẳng, Đại học

DTTS, DTNT

Dân tộc thiểu số, Dân tộc nội trú

ĐVTN

Đoàn viên thanh niên

ĐCĐC

Định canh định cư

GD - ĐT

Giáo dục - đào tạo

GDPL

Giáo dục pháp luật

HTCT

Hệ thống chính trị

HĐND

Hội đồng nhân dân


KT - XH

Kinh tế - xã hội

KHKT

Khoa học kỹ thuật

LHTN

Liên hiệp thanh niên

LHPN

Liên hiệp phụ nữ

LLCT

Lý luận chính trị

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

NQ, QĐ

Nghị quyết, Quyết định

SL


Số lượng

TN

Thanh niên

TNTN

Thanh niên tình nguyện

TNXK

Thanh niên xung kích

TNCS

Thanh niên cộng sản



Trung ương

THCN

Trung học chuyên nghiệp

THCS, THPT,

Trung học cơ sở, Trung học phổ thông


UB, UBND

Ủy ban, Uỷ ban nhân dân

UNHCR

Cao uỷ tị nạn Liên hiệp quốc


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

01

Chương 1: Đoàn kết, tập hợp thanh niên - một yêu cầu khách quan trong
chiến lược đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng

08

1.1. Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên ở nước ta hiện nay

08

1.1.1. Khái niệm thanh niên và công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên

08

1.1.2. Tính tất yếu khách quan trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên


13

1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong công
tác đoàn kết, tập hợp thanh niên và sự vận dụng của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam

18

1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác đoàn kết, tập
hợp thanh niên

18

1.2.2. Chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về thanh niên và công tác đoàn kết, tập
hợp thanh niên

24

1.2.3. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp thanh niên Việt
Nam trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên

27

Chương 2: Thực trạng công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân
tộc ở Tây Nguyên

30

2.1. Khái quát những đặc điểm về vị trí, điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị,
văn hoá - xã hội ở Tây Nguyên


30

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

30

2.1.2. Một số nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội có ảnh hưởng đến công tác đoàn
kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên

32

2. 2. Thực trạng công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên ở Tây Nguyên thời gian qua

49

2.2.1. Tình hình, đặc điểm thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên

49

2.2.2. Thực trạng công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên ở Tây Nguyên trong thời gian qua
(thành tựu, nguyên nhân, hạn chế)

59

Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác đoàn kết,
tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay
157
3.1. Phương hướng, mục tiêu


157

3.1.1. Phương hướng chung

157


3.1.2. Phương hướng cụ thể trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên ở Tây Nguyên

158

3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác đoàn kết, tập hợp
thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên
159
3.2.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục pháp luật,
giữu gìn bản sắc văn hoá cho thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên
159
3.2.2. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các cấp bộ Đoàn - Hội;
đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng trong thanh niên các dân tộc
172
3.2.3. Nâng cao trình độ học vấn, dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh
niên các dân tộc nói chung và thanh niên dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói
riêng
185
3.2.4. Nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai
trò của thanh niên và công tác thanh niên - đặc biệt là thanh niên các dân tộc
thiểu số; tích cực tham mưu với cấp uỷ Đảng và phối hợp với Chính quyền,
đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác đoàn kết, tập hợp rộng rãi thanh niên;
tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo của Đoàn
201

3.2.5. Các đề án cần tập trung triển khai nhằm tăng cường đoàn kết, tập hợp
thanh niên khu vực Tây Nguyên trong thời gian đến
206
Kết luận và kiến nghị

208

Danh mục tài liệu tham khảo

218


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Tính tất yếu khách quan trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên ở
nước ta hiện nay
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do
các thanh niên"1. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta cũng đã xác định: "Các
vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc và tôn giáo đều là những vấn đề
chính trị lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta"... và là
vấn đề "có tính đặc thù quan trọng"2. Trong chiến lược đó, Đảng ta luôn coi công tác
vận động TN là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ cách mạng, coi việc xây dựng tổ
chức Đoàn và Đội TNTP Hồ Chí Minh vững mạnh thành hạt nhân đoàn kết, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp TN luôn là nhiệm vụ cách mạng có tính chiến lược3. Hiện nay,
trước những biến động phức tạp của tình hình trong nước và thế giới; diễn biến tư
tưởng, tâm lý của TN đang có nhiều vấn đề đặt ra cần phải suy nghĩ. Do vậy, công
tác đoàn kết, tập hợp TN càng cần phải được coi trọng và được đổi mới: "Đoàn kết
tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên trong các tổ chức của Hội liên hiệp thanh
niên Việt Nam, do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh làm nòng cốt…”4..Tuy nhiên, thời gian

qua: “Bản thân tổ chức Đoàn cũng chưa có những biện pháp kịp thời, hiệu quả để
khắc phục những lệch lạc. Trong khi đó, các thế lực thù địch không ngừng chống
phá, có nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm lôi kéo thanh niên, lợi dụng các chiêu bài dân
chủ, nhân quyền, vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ thanh niên, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân. Kẻ thù muốn tha hoá thanh niên về chính trị, làm băng hoại về thể lực,
trí tuệ hòng dẫn tới sự chuyển hoá chế độ. Vì vậy, đoàn kết, tập hợp, giáo dục, rèn
luyện thanh niên, tổ chức đưa đoàn viên tham gia các phong trào cách mạng là nhiệm
vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, của Đoàn và của toàn xã hội, có ý nghĩa sống
còn đối với vận mệnh và tương lai của dân tộc”5. Do vậy, đoàn kết, tập hợp TN nói
chung và TN các dân tộc ở Tây Nguyên là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đóng vai trò nòng cốt trong công tác này hơn ai hết là vai trò của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội LHTN Việt Nam.

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.185 - 186.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003, tr.5 -7.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb. Sự Thật,
Hà Nội, 1993.
4
Ban Dân vận Trung ương: Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động TN trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr.54.
5
Nông Đức Mạnh: Tuổi trẻ Việt Nam phấn đấu xứng đáng thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng, Báo Nhân dân,
ngày 9/12/2003, tr.7.
2

1



1.2. Tính tất yếu khách quan trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các
dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay
Tây Nguyên - khu vực được xác định là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng
về KT - XH, chính trị, quân sự của cả nước - gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk
Lăk, Lâm Đồng, Đăk Nông; có diện tích 54.474km2 (bằng 16,8% diện tích cả nước);
dân số hơn 4,8 triệu người (chiếm hơn 5,3% dân số cả nước); có 47 thành phần dân
tộc anh em (trong đó đồng bào DTTS tại chỗ có 1,5 triệu người). TN khu vực Tây
Nguyên có 1.275.301 người (chiếm trên 26% dân số) – trong đó TN DTTS là
433.602 người (chiếm 34% tổng số TN). Trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay có 4 tôn
giáo chính với khoảng 1,4 triệu tín đồ - trong đó tín đồ là người DTTS khoảng 0,5
triệu, chủ yếu theo đạo Công giáo và Tin Lành.
Trên cơ sở đánh giá đúng vị trị chiến lược đặc biệt quan trọng của Tây Nguyên, từ
sau ngày đất nước thống nhất đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung nhiều công sức
và trí tuệ, phương tiện vật chất và có nhiều chính sách phát triển KT - XH, quốc phòng an
ninh ở đây1. Điều này bước đầu đã làm thay đổi bộ mặt của Tây Nguyên trên các phương
diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế và đời sống của đồng bào các dân
tộc... Đánh giá một cách khách quan thì tình hình KT - XH, quốc phòng, an ninh đang
từng bước đi vào ổn định; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc ở Tây
Nguyên nói chung và TN các dân tộc nói riêng từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, trên bình diện chung mà xét thì quá trình thực hiện các chính sách
(kinh tế, văn hoá, dân tộc, tôn giáo, xã hội, tư tưởng...) của Đảng, Nhà nước ở các tỉnh
Tây Nguyên vẫn bộc lộ nhiều khuyết điểm, tồn tại cần khắc phục. Những khuyết điểm,
tồn tại đó được bộc lộ một cách rõ nét ở các phương diện: Kinh tế (vấn đề đời sống,
đất đai, công ăn việc làm, thu nhập..); chính trị - xã hội (vấn đề hệ thống chính trị cơ
sở, vấn đề cán bộ, dân tộc, tôn giáo, quản lý trật tự ở nông thôn, ý thức pháp luật, tư
tưởng, phân hoá giàu nghèo...); văn hoá - xã hội (vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống các dân tộc, giáo dục, y tế, nguồn nhân lực...); quốc phòng - an
ninh (vấn đề diễn biến hoà bình, biên giới, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân...) và đặc biệt là trong lĩnh vực đoàn kết, tập hợp TN các dân tộc trên địa bàn. Cuộc

bạo loạn chính trị diễn ra vào đầu tháng 2/2001, tháng 4/2004… là hệ quả của những
nguyên nhân đã đề cập trên và nó cũng đã lôi kéo không ít TN dân tộc tham gia. Trên lĩnh
vực KT - XH, an ninh quốc phòng mà xét thì có thể thấy rằng đời sống đồng bào và TN
vùng DTTS còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao; còn một bộ phận không
nhỏ TN không đi học, mù chữ, chưa có điều kiện tiếp cận với khoa học kỹ thuật; các nhu
cầu bức xúc của TN như thu nhập, việc làm, vui chơi và giải trí chưa thực sự được đầu tư
1

Nghị quyết số 10/NQ/TƯ ngày 18/01/2002 của Bộ Chính trị “Về phát triển KT - XH và bảo đảm quốc phòng, an
ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 - 2010”; Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001 của Thủ tướng
Chính phủ “Về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 phát triển KT - XH vùng Tây Nguyên”; Thông
báo kết luận số 148 - TB/TƯ ngày 16/7/2004 của Bộ Chính trị “Về tình hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát
triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững”…

2


và thiếu các giải pháp đồng bộ - tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp và không ổn định
trong TN dân tộc khá phổ biến; các giải pháp trợ giúp TN dân tộc phát triển kinh tế ở một
số nơi còn chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao; tình hình tội phạm và tệ
nạn xã hội trong TN còn diễn biến phức tạp – vẫn còn một bộ phận TN bị các thế lực thù
địch kích động, lôi kéo vào các cuộc bạo loạn chính trị. Trên bình diện tư tưởng - văn hoá
mà xét thì công tác nắm bắt tình hình tư tưởng trong TN vẫn còn hạn chế; hình thức giáo
dục chưa hấp dẫn, chưa phù hợp với trình độ nhận thức, tư duy, phong tục tập quán của
TN DTTS; công tác giáo dục về chính sách dân tộc, tôn giáo và tuyên truyền nâng cao ý
thức phòng chống “Diễn biến hoà bình” chưa đáp ứng được yêu cầu “hiệu quả của công
tác giáo dục chính trị chưa cao, chưa sâu và chưa thực sự sắc bén nhất là công tác tuyên
truyền giáo dục bộ phận TN bị các thế lực mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo. Công tác nắm bắt
tình hình tư tưởng, tâm trạng và nguyện vọng của ĐVTN chưa sát và chưa kịp thời. Bên
cạnh đó việc định hướng lý tưởng lối sống của một bộ phận TN còn nhiều lệch lạc, thiếu ý

thức rèn luyện, ngại tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, non kém về nhận thức chính
trị đã bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo chống phá khối đại đoàn kết toàn dân, đi
ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc”. Trên bình diện vai trò của tổ chức Đoàn - Hội trong
công tác đoàn kết, tập hợp TN mà xét thì hình thức và phương thức đoàn kết, tập hợp TN
nhiều nơi còn lúng túng và thiếu tính đa dạng, linh hoạt trong nội dung và phương thức
sinh hoạt; do vậy, chưa khai thác tốt tiềm năng, sức trẻ và tinh thần xung kích, tình
nguyện của TN; phong trào TN tình nguyện một số địa phương chưa mang lại hiệu quả
thiết thực; chế độ sinh hoạt chi đoàn – đặc biệt ở cơ sở - không được duy trì thường xuyên
“Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên chậm đổi mới về hình thức, phương pháp tiếp
cận thanh niên; trình độ, năng lực, kỹ năng của cán bộ đoàn - Hội chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ; hình thức tập hợp còn nghèo nàn; một số cơ sở Đoàn - Hội còn nặng tư tưởng
bao cấp, phong cách làm việc hành chính chậm khắc phục, chưa nắm chắc được thanh
niên”. Trên phương diện công tác tổ chức mà xét thì nhìn chung công tác cán bộ của tổ
chức Đoàn - Hội nhiều nơi còn lúng túng, thụ động; không ít địa phương cán bộ đoàn Hội vừa thiếu và vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ; công tác chỉ đạo và kiểm tra đôn đốc
các phong trào còn thiếu sâu sát và chưa kịp thời. Trên phương diện công tác lãnh đạo
điều hành của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền đối với công tác TN khu vực Tây Nguyên
thì vẫn còn một số cấp uỷ Đảng, Chính quyền và một số ngành chưa thấy hết trách nhiệm
đối với công tác TN và chưa quan tâm đầu tư, chưa có cơ chế chính sách cụ thể tạo điều
kiện cho tổ chức Đoàn - Hội làm tốt công tác vận động TN…; trong lúc đó “các thế lực
thù địch luôn tìm mọi cách lôi kéo, kích động TN tham gia vào các hoạt động chống phá
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nhằm thực hiện âm mưu cơ bản và lâu dài của
chúng”1. Hệ quả của những hạn chế đó được thể hiện ở chỗ hiện nay “một bộ phận thanh
niên dân tộc thiểu số còn sống thụ động, một số thờ ơ với thời cuộc, đứng ngoài các hoạt
1
Nguyễn Mộng Hoàng (Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy Gia Lai): Đoàn kết, tạp hợp TN là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đăk Lăk 9,10/01/2007.

3



động do đoàn thể tổ chức. Ở một số vùng, bọn phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, truyền đạo trái phép, lôi kéo thanh niên, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc”; “một số
kẻ xấu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng mà đối tượng chủ yếu chúng nhằm vào
là thanh niên”1. Điều đó cho thấy việc “Đoàn kết, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp thanh
niên vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh vì lợi ích thiết
thực chính đáng của mọi tầng lớp thanh niên, xây dựng tổ chức Đoàn - Hội thực sự vững
mạnh làm hạt nhân nòng cốt cho các phong trào ở cơ sở, góp phần đấu tranh, ngăn chặn
âm mưu lôi kéo thanh thiếu niên của các thế lực thù địch là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng”2.
1.3. Tóm lại, trong sự đan xen của các ưu điểm và các mặt hạn chế trong vấn đề
đoàn kết, tập hợp TN các dân tộc ở Tây Nguyên của các cấp ủy đảng, chính quyền,
đoàn thể - trong đó trọng tâm là các cấp bộ Đoàn - Hội; thiết nghĩ cần có một cách
nhìn toàn diện, khoa học và công bằng để từ đó nhằm đưa ra những chính sách, giải
pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác vận động TN. Điều này cũng thực sự
có tính cấp bách; có ý nghĩa trên cả bình diện lý luận và thực tiễn; góp phần vào việc
cung cấp luận cứ khoa học trong việc hoạch định và thực hiện những quyết sách chính
trị của Đảng, Nhà nước về công tác TN ở địa bàn “đặc thù” như Tây Nguyên. Xuất
phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường đoàn kết,
tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay” đăng ký làm đề tài cấp Bộ
năm 2008.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Trong những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá ở Tây Nguyên
- Có thể điểm qua tình hình nghiên cứu chủ yếu như sau: Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ 1997 - 1998: “Một số chính sách kinh tế - xã hội đối với các dân tộc ít người ở
Tây Nguyên”, do PGS, TS. Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp cơ sở 2003: “Điểm nóng chính trị - xã hội và một số kinh nghiệm rút ra từ việc xử
lý điểm nóng chính trị - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên”, của Khoa Chính trị học, Phân
viện Đà Nẵng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
2006: “Một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm ổn định chính trị trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên hiện nay” do PGS, TS. Phạm Hảo làm chủ nhiệm. Trong thời gian
qua, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị liên quan đến vấn đề
Tây Nguyên được xuất bản thành sách như: Sách “Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên” do GS, TS. Lê Hữu
Nghĩa chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001. Sách “Một số vấn đề về xây dựng hệ
thống chính trị ở Tây Nguyên”, do PGS, TS. Phạm Hảo - TS. Trương Minh Dục đồng
1

Nguyễn Huy Lộc (chủ biên): Tổng quan tình hình TN, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nửa nhiệm
kỳ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII (2002 – 2005), Nxb. Thanh niên, 2006, tr.101 - 106.
2
Nguyễn Mộng Hoàng: Sđd.

4


chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003. Sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên” của PGS. TS Trương Minh Dục. Nxb. CTQG,
Hà Nội, 2005,…
2.2. Về các công trình nghiên cứu liên quan đến tình hình thanh niên và
công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên
- Về Sách có các công trình sau: Sách“Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến
lược phát triển thanh niên” của TS. Chu Xuân Việt (Uỷ ban Quốc gia về TN Việt
Nam), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2003; Sách “Một số vấn đề về công tác thanh niên
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Trung ương Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên; Sách “Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên vùng
tôn giáo, dân tộc” của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội, 2003; Sách “Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên vùng có đông tín đồ tôn
giáo” của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1998…
- Các đề tài nghiên cứu, luận án gồm có: Đề tài khoa học cấp Bộ “Công tác

đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo” của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Hà Nội, 1995; Luận án Tiến sĩ Chính trị học “Gia đình Phật tử và công tác đoàn kết,
tập hợp thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo ở nước ta hiện nay” của tác giả Lê Văn
Đính, Hà Nội, 10/2004.
2.3. Những công trình nghiên cứu đó đã tiếp cận, phân tích và luận giải các
vấn đề nổi cộm ở Tây Nguyên ở các giác độ: về KT - XH (vấn đề đất đai, phân hoá
giàu nghèo); về chính trị - xã hội (vấn đề hệ thống chính trị cơ sở, cán bộ, dân tộc, tôn
giáo, tư tưởng, ý thức pháp luật…); về văn hoá - xã hội (vấn đề dân trí, học vấn, bảo
tồn các giá trị văn hoá…); về an ninh - quốc phòng (vấn đề diễn biến hoà bình, biên
giới, bạo loạn...) và cũng đã nêu lên được cơ sở lý luận của chiến lược phát triển TN, vai
trò của TN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; thực trạng của công tác đoàn kết, tập
hợp TN tín đồ các tôn giáo,…
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về
các giải pháp đoàn kết, tập hợp TN các dân tộc ở Tây Nguyên. Tình hình nói trên đã
cho thấy tính cấp thiết trong công tác đoàn kết, tập hợp TN nói chung và TN các dân
tộc ở Tây Nguyên nói riêng. Điều đó cho thấy việc lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Giải
pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay”
là có tính cấp thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Đánh giá thực trạng của công tác đoàn kết, tập hợp các dân tộc ở Tây Nguyên
của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể – trong đó trọng tâm là các cấp bộ Đoàn
- Hội - trên cơ sở đó dự báo xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần

5


thực hiện tốt công tác vận động TN trong khối đại đoàn kết toàn dân hiện nay ở địa
bàn Tây Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và các khái niệm cơ bản của đề tài như công tác đoàn kết,
tập hợp TN và vai trò Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam trong công tác
đoàn kết, tập hợp TN.
- Phân tích và đánh giá thực trạng của công tác đoàn kết, tập hợp TN các dân tộc
ở Tây Nguyên của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể - trong đó trọng tâm là các
cấp bộ Đoàn - Hội - trong thời gian qua.
- Dự báo xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện tốt
công tác đoàn kết, tập hợp TN các dân tộc trong khối đại đoàn kết toàn dân ở địa bàn
Tây Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác đoàn kết, tập hợp TN các dân tộc ở Tây Nguyên của các cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể – trong đó trọng tâm là các cấp bộ Đoàn - Hội.
4.2. Khách thể nghiên cứu
TN các dân tộc và các cán bộ Đoàn - Hội của các tỉnh, thành ở Tây Nguyên.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng.
- Thời gian nghiên cứu: 18 tháng (1/2008 - 6/2009).
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở phương pháp luận
- Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Dựa trên các quan điểm, chủ trương chính sách về chiến lược đại đoàn kết
toàn dân, về TN và công tác TN của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước và
Chiến lược TN của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thống kê, phân tích tài liệu: Là những tài liệu thu thập được từ các báo cáo
tổng kết; các thống kê, các tài liệu nghiên cứu khác liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Điều tra xã hội học: Điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi (ankét) với số lượng

1000 phiếu. Trong đó, 600 phiếu dành cho TN các dân tộc 4 tỉnh (mỗi tỉnh 150 phiếu)
và 400 phiếu dành cho cán bộ đoàn - Hội 4 tỉnh (mỗi tỉnh 100 phiếu)1.

1

Mẫu phiếu điều tra xã hội học ở Phụ lục Đề tài

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần nhận thức đúng về tình hình TN và thực trạng công tác đoàn kết,
tập hợp TN các dân tộc ở Tây Nguyên của các các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể
- trong đó trọng tâm là các cấp bộ Đoàn - Hội hiện nay. Đây cũng là cơ sở của việc cụ
thể hoá chiến lược TN trong thời kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết lần thứ tư BCH
Trung ương Đảng (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa X) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đoàn kết,
tập hợp TN các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên không đơn thuần chỉ nhằm để giữ
vững ổn định chính trị - xã hội; mà điều quan trọng và có ý nghĩa chiến lược hơn là
nhằm phát huy mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của thế hệ trẻ ở Tây Nguyên trong
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Kết quả đề tài có thể dùng làm tài liệu để Đảng, Nhà nước, Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Uỷ ban Quốc gia về TN nói chung và các cấp uỷ Đảng, Chính
quyền, các cấp bộ Đoàn - Hội ở địa phương nói riêng tham khảo, nghiên cứu trong
việc hoạch định và thực hiện có hiệu quả chính sách TN và công tác vận động TN tập
hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng (nhất là đối với địa
bàn có tính đặc thù như Tây Nguyên).
7. Kết cấu nội dung
Đề tài gồm có phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện trong 3 chương, 6 tiết, trình
bày trên 223 trang trên khổ giấy A4.
Sau đây là toàn bộ nội dung đề tài:

7


CHƯƠNG 1

ĐOÀN KẾT, TẬP HỢP THANH NIÊN - MỘT YÊU CẦU KHÁCH QUAN
TRONG CHIẾN LƯỢC ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN DƯỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1.1. CÔNG TÁC ĐOÀN KẾT, TẬP HỢP THANH NIÊN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1.1. Khái niệm thanh niên và công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên
1.1.1.1. Khái niệm thanh niên và tổ chức thanh niên
1.1.1.1.1. Thanh niên
Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu và góc độ tiếp cận của nhiều ngành khoa học
người ta có thể đưa ra các định nghĩa khác nhau về TN: Các nhà sinh học coi tuổi TN
là một giai đoạn trong tiến trình tiến hoá của cơ thể trong đó thấy rõ sự cường tráng về
thể lực, sự phát triển về trí tuệ, sự trưởng thành về sinh dục, tính dục. Các nhà tâm lý
học quan tâm tới các quy luật phát triển tâm lý của lứa tuổi TN mà đặc trưng là sự tự ý
thức, tự khẳng định, hăng say hoạt động và sáng tạo... Các nhà xã hội học coi TN là
một giai đoạn của quá trình xã hội hoá, chuyển tiếp từ tuổi thơ lệ thuộc sang giai đoạn
độc lập, từng bước hình thành ý thức trách nhiệm công dân, chuẩn bị và tự nâng cao
kiến thức để lao động cống hiến.Về mặt kinh tế - chính trị, các nhà nghiên cứu nhìn
nhận TN là một lực lượng lao động xã hội hùng hậu, là nguồn lực thường xuyên bổ
sung cho đội ngũ lao động trên mọi lĩnh vực, là bộ phận quan trọng cấu thành lực
lượng sản xuất, rất năng động, nhạy cảm, gắn bó với tiến trình phát triển xã hội với tư
cách là lớp người xung kích, đi đầu trong cuộc đấu tranh, sáng tạo ra xã hội mới, tham

gia xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng các lực lượng vũ trang.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng
thành”1. Khái niệm này bao hàm: TN là những người có độ tuổi còn trẻ và độ tuổi đó
đang trưởng thành. Khái niệm TN hoàn toàn được hiểu theo lứa tuổi2. Một quan niệm
khác cho rằng: “Thanh niên là một nhóm nhân khẩu – xã hội đặc thù bao gồm những
người trong một độ tuổi nhất định, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng
lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có vai trò lớn trong hiện tại và
giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương lai của xã hội”3. Mục 2 (điều kiện xét
kết nạp đoàn viên), Điều 1, Chương I (Đoàn viên) của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cho
rằng: “Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30, tích cực học tập, lao động và bảo vệ Tổ
quốc, được tìm hiểu về Đoàn và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt động trong
một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp vào Đoàn”.
Chương II, Điều 5 (Hội viên) trong Điều lệ Hội LHTN Việt Nam được Đại hội Đại
1

Viện ngôn ngữ học. Từ điển Tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng 1995, 881.
Trần Văn Miễu. Phong trào TN với việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ. Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr.32.
3
Vũ Trọng Kim. Quản lý nhà nước về công tác TN trong tình hình mới. Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999, tr.14.
2

8


biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ V thông qua ngày 25 tháng 02 năm 2005
lại ghi rằng: Công dân Việt Nam từ 15 đến 35 tuổi tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện
gia nhập Hội thì được xét công nhận là hội viên Hội LHTN Việt Nam...
+ Ở nước ta hiện nay, độ tuổi TN quy định trong Luật Thanh niên là từ đủ 16
đến 30 tuổi1. Có thể nói tuỳ thuộc vào trình độ phát triển KT - XH, đặc điểm của từng
thời đại lịch sử, các yếu tố truyền thống của từng quốc gia dân tộc… mà độ tuổi của

TN có sự quy định khác nhau: Hiện nay hầu như các nước trên thế giới điều quy định
tuổi TN bắt đầu từ 15 tuổi, nhưng tuổi kết thúc thì có sự khác nhau (như các nước
phương Tây quy định là 25 tuổi; Philippine, Hàn Quốc quy định là 30 tuổi; Ấn độ,
Maldives là 35 tuổi; Malaysia là 40 tuổi…)2.
Trong công tác TN và việc nghiên cứu chính sách phát triển TN, khái niệm TN
được xem xét tổng hợp từ những đặc điểm chung về mặt sinh học và đặc điểm về mặt
xã hội3. Đặc điểm về sinh học của TN là giai đoạn kết thúc tuổi thiếu niên, có sự tăng
trưởng nhanh về cơ thể, cường tráng về thể lực, trưởng thành về sinh học, tính dục.
Đặc điểm về tâm lý lứa tuổi của TN là sự tự ý thức, tự khẳng định, thích sáng tạo, phát
triển khả năng phân tích và suy luận. Đặc điểm về mặt xã hội của TN là quá trình xã
hội hoá cá nhân, định hình nhân cách, xác lập vai trò cá nhân qua các hoạt động độc
lập với tư cách công dân. Đặc điểm về cơ cấu xã hội của TN là TN có mặt trong tất cả
các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Nếu hình dung cơ cấu xã hội chia thành các giai cấp,
tầng lớp... là chia theo chiều dọc thì TN là lớp cắt ngang chứa đựng tất cả những người
ở một độ tuổi nhất định của các giai cấp, tầng lớp xã hội đó. Nói đến khái niệm TN cần
xem xét một cách tổng hợp nhiều mặt, tính đến những quy luật bên trong của sự
trưởng thành về thể chất và tinh thần của TN cũng như các đặc điểm lịch sử, các điều
kiện KT - XH. Như vậy, có thể hiểu TN là thời kỳ quan trọng nhất trong quá trình phát
triển con người, kết thúc giai đoạn thiếu niên để đạt đỉnh cao của tuổi trưởng thành với
trách nhiệm xã hội của công dân. Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 25/7/2008 của BCH
Trung ương (Khoá X) cũng đã nêu rõ: Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong
những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ
yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức
khoẻ và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ,
luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình4.
+ Từ những vấn đề trên đây, có thể rút ra các đặc điểm sau:
- TN là một bộ phận đông đảo trong dân cư.
- TN là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù: So với lứa tuổi thiếu niên, ở TN có
sự biến đổi nhanh về tâm lý – khả năng phân tích, suy luận, có khả năng sáng tạo, nhạy
1


Điều 1. Luật TN. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ
8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
2
TS. Chu Xuân Việt: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến lược phát triển TN, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2003, tr.13.
3
TS. Chu Xuân Việt: Sđd tr.12
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa X), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, tr.7.

9


bén, có nhu cầu tự khẳng định mình, có xu hướng đổi mới, cách mạng… cùng với sự
phát triển của văn minh xã hội, nhìn chung trình độ học vấn, năng lực trí tuệ và thể
chất của thanh niên ngày càng được nâng cao hơn; là lớp người quyết định tương lai
của mỗi quốc gia, dân tộc…1.
- TN Việt Nam có mặt trong tất cả các giai cấp và các tầng lớp xã hội: TN nông
dân, công nhân, viên chức, trí thức, học sinh - sinh viên, TN các lực lượng vũ trang...
và giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực KT - XH của đất nước.
- TN Việt Nam có mặt trong các dân tộc: Kinh, Thái, Mường, H Mông, Ê Đê...
- TN có mặt và giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực KT - XH của đất nước;
có mặt ở tất cả vùng miền đô thị, đồng bằng, miền núi, ven biển, hải đảo...
- TN là đối tượng được nhiều bộ môn khoa học quan tâm nghiên cứu trong đó
đáng chú ý là Sinh lý học, Tâm lý học, Xã hội học... ở mỗi thời kỳ trong đời sống của
con người, sự phát triển về thể chất, tâm lý và cả nhân cách có quy luật riêng2.
Như vậy, có thể hiểu TN là một nhóm xã hội nhân khẩu đặc thù bao gồm những
người trong độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi có sự phát triển nhanh chóng về thể chất, tâm lý,
trí tuệ, thuộc mọi giai cấp, tầng lớp xã hội; có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã
hội; có vai trò to lớn trong xã hội hiện tại và giữ vai trò quyết định đối với sự phát

triển trong tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc3.
1.1.1.1.2. Tổ chức thanh niên
Tổ chức TN là tổ chức tự nguyện của TN nhằm đoàn kết, tập hợp TN, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của TN; phát huy vai trò của TN trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tổ chức TN bao gồm Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam, Hội
sinh viên Việt Nam và các tổ chức khác của TN được tổ chức và hoạt động theo Điều
lệ của tổ chức và trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật: Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh là tổ chức chính trị - xã hội của TN Việt Nam, giữ vai trò nòng cốt trong phong
trào TN; tổ chức, hướng dẫn hoạt động của thiếu niên, nhi đồng, phụ trách Đội TNTP
Hồ Chí Minh. Hội LHTN Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của TN và các tổ chức
TN, nhằm đoàn kết tập hợp mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thanh niên4.
1.1.1.2. Công tác thanh niên và đoàn kết, tập hợp thanh niên
1.1.1.2.1. Công tác thanh niên

1

TS. Chu Xuân Việt: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến lược phát triển TN, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2003, tr.16 - 17.
Trần Văn Miễu: Phong trào TN với việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr.33-34.
3
Vũ Trọng Kim: Quản lý nhà nước về công tác TN trong tình hình mới, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999, tr.14.
TS. Chu Xuân Việt: Sđd tr.18
4
Điều 32, 33, 34. Luật TN. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
2

10



Với vai trò và vị trí quan trọng của TN đối với sự phát triển trong tương lai của
mỗi quốc gia, dân tộc; nên bất kỳ một chính đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức tôn giáo,… nào đều cũng quan tâm tác động một cách có ý thức tới TN tuỳ
theo mục đích của mình. Để hiểu rõ hơn bản chất của công tác đoàn kết, tập hợp TN
của đề tài, cần thiết xem xét khái niệm công tác TN và quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta về vấn đề này: Điều 4, Chương I, Luật Thanh niên chỉ rõ trách nhiệm của Nhà nước,
gia đình và xã hội đối với TN là: “Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng
xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia
đình và xã hội. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động,
giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức
công dân, ý chí vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm góp phần tích
cực vào việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên”. Điều 5,
Chương I, Luật Thanh niên ghi rõ Nội dung quản lý nhà nước về công tác TN bao
gồm: “Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược,
chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên; đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên; thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về
thanh niên và công tác thanh niên; quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh
niên. Trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác thanh niên được quy định như sau:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên; các bộ, cơ quan ngang
bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh niên theo sự phân công
của Chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh
niên ở địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ”1.
Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ghi rõ: “Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng xung kích cách
mạng, là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, đại diện chăm lo và bảo vệ

quyền lợi hợp pháp, chính đáng của tuổi trẻ; phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ
Chí Minh; là lực lượng nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và trong các tổ
chức thanh niên Việt Nam. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của
hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn
thể và tổ chức xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và
bảo vệ thanh thiếu niên; tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc
quản lý nhà nước và xã hội”2. Điều lệ Hội LHTN Việt Nam: “Hội liên hiệp thanh
1

Điều 4, 5 Chương I. Luật TN. Sđd.
Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ IX thông
qua ngày14/10/2007.
2

11


niên Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh niên
Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp
và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”1.
Các cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi nói đến công tác TN thường nhấn mạnh
vấn đề tạo cơ hội cho TN phát triển bình đẳng trong các lĩnh vực giáo dục, lao động việc làm, chăm sóc y tế - sức khỏe và tạo cơ hội cho TN tham gia vào đời sống xã hội.
Có ý kiến cho rằng công tác TN là những hoạt động có chủ đích tác động đến
đối tượng TN để giáo dục, rèn luyện TN theo những yêu cầu của xã hội. Ý kiến này
thường chỉ nhấn mạnh yêu cầu của xã hội mà ít chú trọng đúng mức nhu cầu của chính
TN. Trước đây và cả hiện nay chúng ta hay sử dụng cụm từ công tác thanh vận – một bộ
phận của công tác dân vận – để chỉ công tác vận động các đối tượng TN tích cực thực
hiện thắng lợi các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm xây dựng thành

công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, trong thực tiễn nhiều khi cũng đã
xảy ra tình trạng hiểu không đầy đủ công tác thanh vận – chỉ hiểu thiên về góc độ phát
huy, sử dụng lực lượng TN; mà ít quan tâm đến góc độ giáo dục, bồi dưỡng, đáp ứng
những nhu cầu, lợi ích chính đáng của TN; tạo điều kiện cho sự phát triển của TN.
Như vậy công tác TN cần được hiểu một cách toàn diện là hoạt động của các
chủ thể lãnh đạo quản lý trong việc đáp ứng nhu cầu và lợi ích của TN; chăm lo, đào
tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của TN… Cụ thể là; công tác thanh niên được hiểu
khái quát là toàn bộ những hoạt động của Đảng, Nhà nước và các chủ thể xã hội khác
trong đó có Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp thanh niên Việt
Nam nhằm tác động đến mọi đối tượng thanh niên một cách đồng bộ để giáo dục, bồi
dưỡng, tổ chức, động viên thanh niên phát huy mọi tiềm năng và thế mạnh, tạo điều
kiện cho thanh niên phát triển, cống hiến, trưởng thành vì sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa2.
1.1.1.2.2. Đoàn kết, tập hợp thanh niên
Đoàn kết, tập hợp TN là toàn bộ những hoạt động của Đoàn, Hội nhằm tập
trung TN thành một lực lượng để giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho TN phát
triển và trưởng thành; phát huy tiềm năng thế mạnh của lực lượng TN trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất coi trọng công tác đoàn kết, tập hợp TTN. Những nội dung cơ bản trong công
tác đoàn kết, tập hợp TN hiện nay là: Xây dựng lớp TN giàu lòng yêu nước, biết đặt
lợi ích của bản thân trong lợi ích chung của tập thể, đất nước; có lý tưởng cách mạng
và bản lĩnh chính trị vững vàng; có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao
1

Điều lệ Hội LHTN Việt Nam được Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ V thông qua ngày
25 tháng 02 năm 2005.
2
TS. Chu Xuân Việt: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến lược phát triển TN, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2003, tr.20


12


động giỏi; có văn hoá và sống tình nghĩa; có sức khoẻ thể chất và tinh thần lành mạnh;
giàu nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần tình nguyện. Người TN của thời kỳ mới vừa biết
giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa biết làm giàu văn
hoá dân tộc bằng những giá trị, những tinh hoa văn hoá nhân loại, là hiện thân tiêu
biểu của các giá trị văn hoá Việt Nam.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên
Đoàn kết, tập hợp TN luôn là vấn đề trọng yếu trong chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc: Đoàn kết, tập hợp TN nhằm động viên khả năng to lớn của toàn bộ thế
hệ trẻ phục vụ sự nghiệp chung, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh là một vấn đề có tính cấp bách, có tính tất yếu khách quan. Khách quan
ở chỗ, đó là một bộ phận trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Đảng ta. Nó
không chỉ là vấn đề lực lượng cách mạng, mà còn liên quan đến vấn đề chủ quyền
quốc gia, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển đất nước cường thịnh. Thật
vậy, nếu không được tổ chức lại, không được giáo dục rèn luyện theo định hướng đúng
đắn thì nhiều khi họ rất dễ bị sa ngã trước những cám dỗ tầm thường; rất dễ bị các thế
lực thù địch lôi kéo, lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Nó còn là nhu cầu
thiết thân của bản thân mỗi TTN. Hiện nay trước những biến động phức tạp của tình
hình trong nước và thế giới; diễn biến tư tưởng, tâm lý của TTN đang có nhiều vấn đề
đặt ra cần phải suy nghĩ. Do vậy, công tác đoàn kết, tập hợp TTN càng cần phải được coi
trọng và được đổi mới. Một trong năm phương hướng lớn của “Công tác vận động thanh
niên và chính sách thanh niên của Đảng ta” được xác định tại Hội nghị lần thứ 4 BCHTƯ
Đảng (khoá VII) là: “Đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên trong các tổ chức
của Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam, do Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
làm nòng cốt”. Đoàn kết, tập hợp TN nói chung và TN Tây Nguyên nói riêng là vấn đề
có tính tất yếu khách quan. Tính khách quan đó được biểu hiện ở những nội dung sau:
- Thứ nhất, đó là một bộ phận trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta:
TN được xác định “là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết

định tương lai, vận mệnh dân tộc”; “là lực lượng xung kích trong giai đoạn cách mạng
mới”; là lực lượng đáp ứng “yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế sâu rộng và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế”1. Việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TN xuất phát từ vị trí, vai trò của TN
và công tác TN: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng CNXH. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến
lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người”. Do đó “Chăm lo, phát triển,

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa X), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, tr.7, 8.

13


thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững
bền của đất nước”1.
Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là đã xây dựng
được thế hệ TN có phẩm chất nổi bật là: “Có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khoẻ, tư
duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào hùng của Đảng và
dân tộc, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
không ngại khó khăn, gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình,
xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính
đáng, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin
tưởng, được cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống văn hoá
tinh thần lành mạnh phong phú, môi trường sống an toàn. Dù còn nhiều tâm trạng khác
nhau, song đa số thanh niên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và phát triển của
đất nước”2.

Tuy nhiên, “Thanh niên là lớp người trẻ tuổi, còn thiếu nhiều kinh nghiệm, nên
cần được giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi trước và toàn xã hội”3. Đặc biệt, thời gian
qua vẫn còn “một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan
tâm tới tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời
truyền thống văn hoá dân tộc. Học vấn của một bộ phận thanh niên nhất là thanh niên
nông thôn, thanh niên DTTS còn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến thức và kỹ năng
trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào
tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tình
trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang gia tăng và diễn biến ngày càng
phức tạp. Tỉ lệ thanh niên nhiễm HIV/AIDS còn cao”4. Nguyên nhân của hạn chế đó
là: “Không ít cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên về thanh niên và công tác thanh niên
chưa đầy đủ, nhiều mặt còn khoán trắng cho Đoàn. Quản lý nhà nước về công tác
thanh niên còn nhiều bất cập; bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên và cơ
chế phối hợp liên ngành trong công tác thanh niên chưa rõ ràng. Công tác GD - ĐT,
dạy nghề, giải quyết việc làm, phòng, chống tệ nạn xã hội, hoạt động văn hoá, thể
thao, báo chí, xuất bản có nhiều khuyết điểm, yếu kém nhưng chậm khắc phục đã ảnh
hưởng không nhỏ đến các thế hệ thanh niên. Công tác giáo dục, ngăn ngừa và đấu
tranh với những tác động, lôi kéo thanh niên của các thế lực thù địch, sự truyền bá lối
sống nước ngoài không phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc còn nhiều yếu kém,
thậm chí bị buông lỏng. Việc quản lý, tập hợp thanh niên trong tình hình mới khó khăn
hơn. Điều kiện, phương tiện hoạt động của Đoàn, Hội, chính sách cho cán bộ đoàn,
nhất là cán bộ đoàn cơ sở còn bất cập. Năng lực, trình độ của không ít cán bộ đoàn
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; khả năng tập hợp, tổ chức phong trào thanh niên
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.13.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.9.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.7.
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.11.
2

14


trong công tác thanh niên còn hạn chế”1. Điều đó phù hợp với những kết quả nghiên
cứu của Viện Nghiên cứu TN trong những năm gần đây cho thấy: Bên cạnh mặt tích
cực là đa số TN ta đã biểu lộ niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; ủng hộ và
tham gia tích cực, có hiệu quả công cuộc đổi mới và thực hiện CNH, HĐH đất nước
với tinh thần năng động tự lực, tự cường, tự vươn lên lập thân, lập nghiệp,... thì trên
thực tế nhiều TN không có việc làm, bế tắc trong cuộc sống đã tìm đến tôn giáo - coi
đó là chỗ dựa và lối thoát - hoặc sa vào các tệ nạn xã hội và bị cám dỗ, bị mua chuộc
vào những hành động phạm pháp. Đây là một hiện tượng cần được quan tâm nghiên
cứu, giải quyết; bởi vì nếu không được tổ chức lại, không được giáo dục rèn luyện theo
định hướng đúng đắn thì nhiều khi một bộ phận rất dễ bị sa ngã trước những cám dỗ
tầm thường; rất dễ bị các thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân.
Do vậy, hơn lúc nào hết việc tăng cường “Sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác thanh niên là vấn đề có tính nguyên tắc” và “mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp
thanh niên là nội dung quan trọng của công tác Đoàn”2 trong giai đoạn hiện nay. Nghĩa
là, cần “Tăng cường công tác thanh niên tôn giáo, dân tộc, góp phần xây dựng lực
lượng chính trị cơ sở, tạo ra sức mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động
của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá cách mạng”3,
“Mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên của Đoàn là một bộ phận quan trọng trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng... Đoàn kết, tập hợp thanh niên dân tộc, tôn giáo...
là nhiệm vụ hàng đầu của các cấp bộ Đoàn”4; "...đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tức là của Đảng, Nhà nước, của Mặt trận, các
đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội khác, trong đó hạt nhân là các tổ chức Đảng..."5.
Điều này phụ thuộc rất nhiều vào: “Sự đổi mới hoạt động của Đoàn thanh niên

cộng sản và Hội liên hiệp thanh niên, hoạt động của các tổ chức xã hội khác, đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng của thế hệ trẻ và hướng thanh thiếu niên… thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến hành thắng lợi quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Thứ hai, đó là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội: Chương III, Luật
Thanh niên đã quy định một cách rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã
hội đối với TN trong các lĩnh vực: Trong học tập và hoạt động khoa học, công nghệ;
trong lao động; trong bảo vệ Tổ quốc; trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, vui chơi,
giải trí; trong bảo vệ sức khoẻ và hoạt động thể dục, thể thao; trong hôn nhân và gia
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.12.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.13-15.
3
Đoàn TN Cộng sản Hồ Chí Minh: Báo cáo của Ban chấp hành đoàn khóa VII tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần
thư VIII, Hà Nội, 2002, tr.32.
4
Đoàn TN Cộng sản Hồ Chí Minh: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Hà
Nội, 2003, tr.6-14.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. CTQG,
Hà Nội, 2003, tr.83.
2

15


đình; trong tham gia quản lý nhà nước và xã hội; chính sách của Nhà nước đối với TN
DTTS; chính sách của Nhà nước đối với TN xung phong; chính sách của Nhà nước
đối với TN có tài năng; chính sách của Nhà nước đối với TN khuyết tật, tàn tật, TN

nhiễm HIV/AIDS, TN sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo1. Chương IV, Luật Thanh
niên cũng đã quy định một cách rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội
trong việc bảo vệ và bồi dưỡng TN từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi: Có
chính sách bảo đảm cho TN từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi hoàn thành
chương trình phổ cập giáo dục; tạo điều kiện học nghề, lựa chọn việc làm, vui chơi,
giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao phù hợp với khả năng và lứa
tuổi; miễn, giảm phí tham quan bảo tàng, di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng. Bảo vệ
TN từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi không bị xâm hại tình dục và không bị
lạm dụng sức lao động. Bảo đảm việc thực hiện các chính sách về hình sự, hành chính,
dân sự đối với TN từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi theo quy định của pháp
luật nhằm bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho những TN này phát triển lành mạnh2.
- Thứ ba, là do nhu cầu thiết thân của bản thân mỗi TN: Trước những thắng lợi
của công cuộc đổi mới, TN càng tin tưởng phấn khởi tích cực tham gia vào việc thực
hiện các nhiệm vụ phát triển KT - XH. Phần đông trong số họ đều mong muốn có một
cuộc sống đầy đủ hơn, sống trong môi trường ổn định về chính trị, được tham gia các
hoạt động tập thể và hoạt động xã hội có tính cộng đồng cao. Do đó “Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh cần tiến hành công tác đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
thanh niên thông qua các Hội thanh niên và các phong trào hành động cách mạng của
tuổi trẻ, các loại hình CLB, các trung tâm vui chơi giải trí, trung tâm sáng tạo của tuổi
trẻ, các chương trình dự án... tập trung xây dựng tổ chức và hoạt động Đội trong nhà
trường, hoạt động của Đội trên địa bàn dân cư”3.
- Thứ tư, là do âm mưu của các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn để tranh giành
lớp trẻ, nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc: Những năm gần đây, tình hình dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo ở trong nước và trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp - nghĩa là
bên cạnh những sinh hoạt lành mạnh, đúng pháp luật; vẫn còn những phần tử lợi dụng
tôn giáo, tín ngưỡng, tôn giáo tuyên truyền quan điểm chống Đảng, Nhà nước; gây
chia rẽ dân tộc, tôn giáo. Gần đây, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch có
chiều hướng mở rộng và diễn biến phức tạp: “Thông qua chiến lược “diễn biến hoà
bình”, kẻ thù bằng nhiều con đường khác nhau từ kinh tế, ngoại giao, chính trị tiếp tục
có sự chống phá cách mạng nước ta, âm mưu chuyển đổi thể chế chính trị, xoá bỏ vai

trò lãnh đạo của Đảng. Điển hình như vụ lôi kéo, kích động ở Tây Nguyên và nhiều vụ
lợi dụng nhân quyền, các diễn đàn văn hoá, tôn giáo để chống phá chế độ…”. Điều đó
đòi hỏi, Đảng và nhân dân ta, nhất là tuổi trẻ “Phải có sự cảnh giác cao độ, kiên quyết
1

Điều 17 – 27, Luật TN, Sđd.
Điều 28, Luật TN. Sđd.
3
Đoàn TN Cộng sản Hồ Chí Minh: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Thanh niên, Hà Nội,
1997, tr.20-89.
2

16


đấu tranh, đập tan âm mưu của các thế lực thù địch”. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
cũng đã cảnh báo và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp bộ Đoàn trong việc đoàn
kết, tập hợp, giáo dục rèn luyện TN: “Bản thân tổ chức Đoàn cũng chưa có những biện
pháp kịp thời, hiệu quả để khắc phục những lệch lạc. Trong khi đó, các thế lực thù
địch không ngừng chống phá, có nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm lôi kéo thanh niên, lợi
dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ thanh niên,
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Kẻ thù muốn tha hoá thanh niên về chính trị, làm
băng hoại về thể lực, trí tuệ hòng dẫn tới sự chuyển hoá chế độ. Vì vậy, đoàn kết, tập
hợp, giáo dục, rèn luyện thanh niên, tổ chức đưa đoàn viên tham gia các phong trào
cách mạng là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, của Đoàn và của toàn xã hội,
có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh và tương lai của dân tộc”1.
Thời gian qua ở nước ta đã xuất hiện tình trạng: "Ở nơi nào hoạt động của Đoàn
thanh niên yếu kém, phong trào quần chúng chưa mạnh, ở nơi đó hoạt động của các
tôn giáo trở nên mạnh mẽ và sức thu hút thanh thiếu niên tham gia khá đông đảo, đời
sống tâm linh phức tạp hơn nhiều, hiệu quả phong trào cách mạng suy giảm"2. Ở nhiều

nơi, nhiều lúc một bộ phận học sinh, sinh viên đã có tình trạng "nhạt Đảng, khô Đoàn,
chán chính trị"3; trong lúc đó các hội đoàn tôn giáo (trong đó có Phật giáo) đang tăng
cường xâm nhập vào lực lượng học sinh, sinh viên bằng nhiều phương thức khác nhau
(Ở thành phố Hồ Chí Minh qua thống kê 16 trường cao đẳng, đại học thì có 27.048
sinh viên theo các tôn giáo - trong đó có 11.719 sinh viên là TN tín đồ Phật giáo).
“Công tác giáo dục, ngăn ngừa và đấu tranh với những tác động, lôi kéo thanh niên
của các thế lực thù địch, sự truyền bá lối sống nước ngoài không phù hợp với truyền
thống văn hoá dân tộc còn nhiều yếu kém, thậm chí bị buông lỏng”4.
Tóm lại, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp để đoàn kết, tập hợp TN là nhằm
mục đích nâng cao nhận thức tư tưởng, xây dựng niềm tin và thế giới quan khoa học,
phát huy tính tích cực chính trị - xã hội trong TN; nhằm phát huy vai trò to lớn của lực
lượng trẻ trong việc thực hiện “đồng hành dân tộc” trong công cuộc phát triển KT - XH;
tránh cho tuổi trẻ thoát khỏi những cám dỗ mù quáng, lầm lạc trên cơ sở: “Phát huy
sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và
lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc”5. Điều này không đơn thuần
chỉ nhằm để giữ vững ổn định chính trị - xã hội; mà điều quan trọng và có ý nghĩa
chiến lược hơn là nhằm phát huy mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của thế hệ trẻ
1

Nông Đức Mạnh: "Tuổi trẻ Việt Nam phấn đấu xứng đáng thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng", Báo Nhân
dân, ngày 9/12/2003, tr.7.
2
Nguyễn Tài Thư: (chủ biên), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997, tr.207.
3
Nguyễn Tài Thư: (chủ biên), Sđd, tr.29.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa X), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, tr.12.

5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr.123.

17


trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đóng vai trò nòng cốt trong công tác này hơn ai
hết là vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội LHTN Việt Nam.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, CỦA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM TRONG CÔNG TÁC ĐOÀN KẾT, TẬP HỢP THANH NIÊN
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH,
HỘI LIÊN HIỆP THANH NIÊN VIỆT NAM
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác đoàn
kết, tập hợp thanh niên
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của mình, Bác Hồ đã không ngừng
chăm lo ân cần, dành nhiều tâm sức cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng phát huy TN và
công tác TN của Đảng, của Nhà nước đặc biệt là của Đoàn TN. Trong di sản tinh thần to
lớn mà Người để lại cho chúng ta, có thể khái quát luận điểm của Bác về TN và công tác
TN có liên quan đến việc xây dựng chiến lược TN trong thời kỳ cách mạng mới.
1.2.1.1. Khẳng định vai trò và khả năng của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng
Sinh thời; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng sự phát triển trong tương
lai của đất nước và tiền đồ vẻ vang của dân tộc nằm trong tay TTN “thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà”1; “…tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”2.
Những luận điểm rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên được thể
hiện ở những nội dung cơ bản sau:
a. Về vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên:
- Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ, khi các cuộc khởi nghĩa, các
phong trào yêu nước bị kẻ thù dìm trong biển máu, nhưng lại có không ít TN thờ ơ với
sự nghiệp cứu nước thì dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra luận điểm nổi tiếng là: “Thức tỉnh thanh niên đi tới thức tỉnh dân tộc”.

- Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Thanh niên là bộ phận quan
trọng của dân tộc”3 và “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên”. Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh tính đúng đắn và khoa học
trong luận điểm này của Người. Bất kỳ ở thời kỳ nào, trong cách mạng dân tộc dân
chủ hay trong cách mạng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, TN luôn là lực
lượng xã hội to lớn, đóng vai trò quyết định trong các tiến trình lịch sử của cách mạng
Việt Nam, nhà nước thịnh hay suy, yếu hay mạnh phụ thuộc vào TN bởi họ là bộ phận
quan trọng của dân tộc. Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách đây nửa thế
kỷ vẫn còn nguyên giá trị.
b. Luôn đặt niềm tin và mong đợi ở thanh niên
1

Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980, tr.84.
Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Sđd, tr.69.
3
Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980, tr.84.
2

18


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tương lai của đất nước, của dân tộc nằm trong tay các
thế hệ TN, những người sẽ tiếp bước cha anh đưa ngọn cờ cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng. Khi nói đến nhiệm vụ kiến thiết lại đất nước sau 80 năm bị bóc lột và khai thác tàn
bạo của chủ nghĩa đế quốc, Người đã chỉ rõ: “...dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh
vai cùng các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các cháu”1. Bác biểu lộ một niềm tin vững chắc vào thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến
thiết đó, nhà nước trông cậy, mong đợi ở các cháu rất nhiều”. Trong thời kỳ xây dựng cơ
sở vật chất của CNXH ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận TN là lớp người

“Xung phong trong công tác phát triển kinh tế, văn hoá, trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội”; TN là “lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an, dân quân tự vệ đang
hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc” và “trong mọi việc thanh niên thi đua
thực hiện khẩu hiệu đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Trong những
lúc khó khăn nhất của cách mạng ở miền Nam, Bác Hồ luôn khẳng định vai trò của thế
hệ trẻ với niềm tin yêu vô cùng vững chắc: “Các cháu thanh niên miền Nam sinh ra và
lớn lên trong hai cuộc đấu tranh yêu nước đã được rèn luyện thành một thế hệ thanh
niên vô cùng gan dạ, thông minh, không sợ gian khổ hy sinh, quyết chiến quyết
thắng”. Bằng sự đánh giá khách quan, khoa học, khả năng cách mạng to lớn của TN,
Bác đi tới một dự báo hết sức đúng đắn, thiên tài nay đã thành hiện thực: “Với một thế
hệ thanh niên hăng hái, kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”2… Đất nước càng phát triển,
vị thế của đất nước và dân tộc ta càng được bạn bè khắp năm châu tôn vinh, nhất là
qua hơn 20 năm thực hiện đổi mới với những thành tựu to lớn do Đảng ta khởi xướng,
lãnh đạo dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh càng chứng minh một cách sâu sắc tính
đúng đắn, khách quan, khoa học trong sự nhìn nhận về thế hệ trẻ nước ta đối với sự
nghiệp cách mạng mà Bác Hồ đã khẳng định suốt nửa thế kỷ qua.
1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh niên
Trên cơ sở nhìn nhận vai trò quyết định của TN đối với sự nghiệp cách mạng và
tương lai của dân tộc, đất nước, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác
TN. Chính Người đã là một chiến sĩ tiên phong “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh đấu giành tự do, độc lập”3. Và cũng chính
Người đã sáng lập, rèn luyện Đoàn TNCS, đã chỉ thị trực tiếp cho Trung ương Đảng
về nhiệm vụ công tác TN sau khi Đảng được thành lập. Sau khi giành được chính
quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhà nước đề ra chính sách TN phù hợp với
từng thời kỳ cách mạng, đặc biệt là về mặt giáo dục, đào tạo. Công tác TN mà cơ bản
là đào tạo, giáo dục, phát huy TN, theo Người là sự tác động đồng bộ của các chủ thể
từ gia đình, đoàn thể, xã hội cho đến các cấp Đảng và Nhà nước.
1


Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Sđd, tr.84.
Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Sđd, tr.375.
3
Hồ Chí Minh: tuyển tập, tập II, Nxb. Sự Thật, 1980, tr.129.
2

19


- “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”: Năm 1958, trong buổi nói chuyện
với lớp học chính trị của các giáo viên cấp II và cấp III toàn miền Bắc, Hồ Chủ tịch đã
nhấn mạnh luận điểm nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người”1. Để thực hiện mục tiêu “trồng người” như đã nêu trên,
Bác chủ trương thực hiện nguyên lý giáo dục toàn diện. Người dạy: “Trong việc giáo
dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: Đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, lao động và sản xuất”2. “Trồng người” không chỉ là
sự nghiệp lâu dài, gian khổ, sự nghiệp của cả trăm năm mà còn là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội theo tinh thần mà V.I.Lênin đã dạy: “Chúng ta phải
chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để họ biết xây dựng đến cùng và hoàn thành triệt
để sự nghiệp mà chúng ta đã bắt đầu”3.
- Nội dung công tác thanh niên là hình thành “lớp người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên”.
Tư tưởng “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” và “trồng người” chính là
tinh thần xuyên suốt, là nội dung quán xuyến trong mọi thời kỳ đối với công tác TN.
Những tư tưởng này đã được Bác Hồ đưa vào cuộc sống từ khi Người bắt tay xây
dựng Đảng, rèn luyện Đoàn và đào tạo thế hệ TN cách mạng hồi đầu thế kỷ chứ không
phải chờ đến sau này. Từ ý nghĩa lớn lao của vấn đề, từ nhiệm vụ mang tính quy luật,
Bác đã chỉ ra mục tiêu của công tác “trồng người” và sự nghiệp “bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau”. Đó chính là mối quan hệ giữa “ hồng và chuyên” mà chúng ta
thường gọi là “đức và tài” hoặc “phẩm chất và năng lực”. “Hồng” (trong khái niệm

đầy đủ về đạo đức) theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”4. “Chuyên” (trong khái niệm về tài,
về năng lực hoạt động thực tiễn) theo tư tưởng Hồ Chí Minh là có trình độ chính trị,
văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quân sự, Bác dạy: “Đảng yêu cầu cán bộ chẳng những
thạo về chính trị mà còn giỏi về chuyên môn”5. Để thực hiện nội dung và mục đích
công tác TN là hình thành lớp người kế thừa xây dựng CNXH “vừa hồng vừa chuyên”
không có cách nào khác là phải giáo dục và tổ chức TN. Trong giáo dục phải theo
phương châm giáo dục toàn diện. Đó là: giáo dục, bồi dưỡng về lý tưởng cách mạng;
giáo dục, bồi dưỡng về chí khí cách mạng; giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng.
Giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và quân
sự. Giáo dục, bồi dưỡng về thể chất và nếp sống văn hoá.
1.2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, tập hợp thanh niên
Nhằm đảm bảo thực hiện nội dung công tác TN có kết quả, đồng thời với việc
chăm lo giáo dục toàn diện cho TN, vấn đề quan trọng mà Bác Hồ nêu lên là phải tổ chức
1

Hồ Chí Minh: tuyển tập, tập II, Sđd, tr.129.
Hồ Chí Minh: Tuyển tập, tập I, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1984, tr.179.
3
V.I.Lênin: Bàn về TN, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1981, tr.231.
4
Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980, tr.287.
5
Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Sđd, tr.296, 404.
2

20



×