Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Phân tích hoạt động sử dụng thuốc tại bệnh viện tim hà nội giai đoạn 2008 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 105 trang )

1

ĐẢT VẤN ĐỀ
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và là nguồn lực quan trọng cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam cũng như hầu hết các nước
trên thế giới coi việc chăm sóc sức khỏe toàn dân trở thành một trong các chiến lược
y tế hàng đầu. Việc đảm bảo cung ứng thuốc thường xuyên và sử dụng thuốc hợp lý
là một trong các yếu tố quan trọng góp phần vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe con người.
Sử dụng thuốc không hợp lý không chỉ làm tăng đáng kể chi phí cho người
bệnh [32], tạo gánh nặng cho nền kinh tế xã hội, mà còn gây ra những hậu quả lớn về
sức khỏe trong cộng đồng, đặc biệt là đối với những bệnh mãn tính phải sử dụng
thuốc trong một thời gian dài và thường xuyên phải kết hợp nhiều thuốc như các
bệnh về tim mạch. Ngày nay, bệnh tim mạch đã và đang là một gánh nặng cho xã hội
với tỷ lệ tử vong và tàn phế cao. Theo tổ chức Y tế thế giới, năm 2005 đã có khoảng
17 triệu người chết vì các bệnh tim mạch [40]. Ở Việt Nam, theo các thống kê gần
đây, số ca đột quỵ ở nước ta tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước, tỷ lệ nhồi máu cơ
tim tăng gấp 6 lần so với những năm 1960. Do đó, việc thuốc tim mạch được sử dụng
hợp lý, an toàn, hiệu quả là điều cần thiết.
Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển với mô hình bệnh tật
ngày càng phức tạp, nhu cầu chăm sóc sức khỏe đòi hỏi cao với nguồn lực lại hạn
hẹp. Vì vậy, việc đảm bảo nguồn lực và nâng cao hiệu quả hoạt động của các bệnh
viện là những vấn đề rất được quan tâm. Chính sách giao quyền tự chủ theo Nghị
định 10/2002/NĐ-CP và sau này là Nghị định 43/2006/NĐ-CP cho các bệnh viện
công lập được hy vọng sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí, tăng nguồn
thu cho bệnh viện, đồng thời nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Với mục đích đó,
năm 2001, bệnh viện tim Hà Nội ra đời - là bệnh viện hạng I chuyên khoa về tim
mạch, đồng thời cũng là bệnh viện đầu tiên của Sở y tế Hà Nội thí điểm mô hình đơn
vị sự nghiệp y tế có thu tự hạch toán. Đã ra đời và hoạt động gần 10 năm với số
lượng người bệnh đến khám và điều trị ngày càng đông nhưng tại bệnh viện chưa có



2

đề tài nào nghiên cứu đánh giá về công tác sử dụng thuốc. Vì vậy, chúng tôi chon đề
tài “Phân tích hoat đông sử dung thuốc tai bênh viên tim Hà Nôi, giai đoạn 2008
- 2010”, với mục tiêu:
1. Mô tả hoạt động sử dụng thuốc tại bệnh viện tìm Hà Nội, giai đoạn 2008
- 2010 dựa trên một số chỉ tiêu.
2. Phân tích tác động của cơ chế tự quản tới hoạt động sử dụng thuốc.
Từ đó đưa ra các kiến nghị và đề xuất để góp phần nâng cao chất lượng sử
dụng thuốc và quản lý sử dụng thuốc hiệu quả tại bệnh viện tim Hà Nội.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. MỘT số KHÁI NIỆM cơ BẢN
1.1.1. MÔ hình bênh tât
• •

Mô hình bệnh tật (MHBT) của một xã hội, một cộng đồng, một quốc gia nào
đó sẽ là tập hợp tất cả những tình trạng mất cân bằng về thể xác, tinh thần dưới tác
động của những yếu tố khác nhau, xuất hiện trong cộng đồng đó, xã hội đó trong
những khoảng thời gian nhất định [7].
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và là một nước nhiệt đới. MHBT ở
Việt Nam hiện nay là song song tồn tại 2 loại bệnh, đó là các bệnh nhiễm trùng vẫn
chiếm tỷ lệ cao, đồng thòi các bệnh không do nhiễm trùng như tăng huyết áp, ung thư,
bệnh tâm thần, các tai nạn trong đời sống... ngày càng tăng, các bệnh do thiếu dinh
dưỡng, di chứng do chiến tranh, tật nguyền vẫn còn tồn tại.
Không giống như MHBT ở cộng đồng, bệnh viện là nơi chữa bệnh (và khám
bệnh) cho người mắc bệnh ữong cộng đồng. Ở Việt Nam cũng như ưên thế giới có 2

loại MHBT bệnh viện:
’_______________________

Mô hình
------------- bệnh tật
bệnh viện
Hình 1.1: MHBT của hệ thống bệnh viện
Mô hình bệnh tật bệnh viện
đa khoa
(gồm các bệnh thông
thường
và bệnh chuyên khoa)
1.1.2. Danh mục thuốc thiết yếu

Mô hình bệnh tật của bệnh
viện chuyên khoa, viện có
giường bệnh
(gồm chủ yếu là bệnh chuyên
khoa và bệnh thông thường)


Do nhận thức được các mặt hạn chế của việc sử dụng thuốc kém an toàn, hợp
lý, việc lựa chọn thuốc còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
Năm 1977, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra một danh mục mẫugọi là danh
mục thuốc thiết yếu (DMTTY).
Danh mục thuốc thiết yếu là danh mục những loại thuốc thỏa mãn nhu cầu
chăm sóc sức khỏe cho đa số nhân dân. Những loại thuốc này luôn sẵn có bất cứ lúc
nào với số lượng cần thiết, dạng bào chế thích hợp, giá cả hợp lý.
Trong đó thuốc thiết yếu (TTY) là những thuốc cần thiết cho chăm sóc sức
khỏe (CSSK) của đa số nhân dân, được nhà nước đảm bảo bằng chính sách thuốc

quốc gia, gắn liền nghiên cứu, sản xuất, phân phối với nhu cầu thực thế CSSK của
nhân dân, được lựa chọn và cung ứng để luôn sẵn có với số lượng đầy đủ, dạng bào
chế phù hợp, chất lượng tốt, an toàn và giá cả phù hợp.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 150 nước đã áp dụng và có DMTTY. Năm
2005, Bộ Y tế (BYT) đã ban hành DMTTY lần V kèm theo quyết định số
17/2005/QĐ/BYT gồm 355 thuốc tân dược của 314 hoạt chất, 94 thuốc y học cổ
truyền, 60 cây thuốc nam và 215 vị thuốc [14].
1.1.3. Danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu
Tại Việt Nam, ngày 01/02/2008 BYT đã ban hành danh mục thuốc chủ yếu
(DMTCY) kèm theo Quyết định số 05/2008/QĐ-BYT với mục tiêu:
-

Đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả;

-

Đáp ứng yêu cầu điều trị cho người bệnh;

-

Đảm bảo quyền lợi về thuốc chữa bệnh cho người bệnh tham gia bảo hiểm y tế;

-

Phù hợp vói khả năng kinh tế của người bệnh và khả năng chi ưả của quỹ bảo
hiểm y tế.
DMTCY xây dựng trên cơ sở DMTTY của Việt Nam và của WHO hiện hành;

Có hiệu quả trong điều trị; Không đưa vào danh mục các thuốc nằm trong diện
khuyến cáo không nên sử dụng của WHO, của Bộ Y tế Việt Nam hay thuốc lạc hậu

và có nhiều tác dụng phụ; Thuốc Y học cổ truyền (YHCT): ưu tiên lựa chọn thuốc sản
xuất tại Việt Nam, các chế phẩm cổ phương, thuốc có công thức trong Dược điển Việt


Nam, thuốc giữ được phương pháp bào chế truyền thống đồng thời bảo đảm dạng
dùng thích họp cho sử dụng, bảo quản và lưu thông phân phối [15].
DMTCY lần thứ V bao gồm 750 hoạt chất, 57 thuốc phóng xạ và hợp chất
đánh dấu, 95 thuốc chế phẩm YHCT xếp theo 11 nhóm tác dụng, 237 vị thuốc
YHCT. Căn cứ vào Danh mục thuốc, đồng thòi căn cứ vào MHBT và kinh phí của
bệnh viện, giám đốc bệnh viện lựa chọn cụ thể tên thành phẩm của thuốc theo nguyên
tắc đã nêu trên.
1.1.4. Danh mục thuốc bệnh viện
Danh mục thuốc bệnh viện (DMTBV) là danh mục những loại thuốc cần thiết
thỏa mãn nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh và thực hiện y học dự phòng của bệnh viện
phù họp với MHBT, kỹ thuật điều trị và bảo quản, khả năng tài chính của từng bệnh
viện và khả năng chi trả của người bệnh. Những loại thuốc này trong phạm vi thời
gian, không gian, trình độ xã hội, khoa học kỹ thuật luôn sẵn có bất cứ lúc nào với số
lượng cần thiết, chất lượng tốt, dạng bào chế thích hợp, giá cả họp lý [25],
DMTBV cần đạt được các mục đích sau:
-

Đe đảm bảo hiệu lực, an toàn và các yêu cầu khác trong điều trị, yêu cầu đa số
thuốc trong DMTBV là TTY.

-

Hướng cộng đồng và xã hội vào sử dụng TTY, các thành phần kinh tế tích cực
tham gia sản xuất, tồn trữ và cung ứng TTY.

-


Đảm bảo quyền lợi được điều trị bằng thuốc cho người bệnh, quyền được chi trả
tiền thuốc cho người có thẻ bảo hiểm y tế.

-

DMTBV phải đáp ứng được thuốc cho điều trị tại bệnh viện.
DMTBV là danh mục đặc thù cho mỗi bệnh viện. Danh mục này được xem

xét cập nhật diều chỉnh từng thời kỳ theo yêu cầu diều trị. Việc bổ sung hoặc loại bỏ
thuốc ra khỏi danh mục cần phải được cân nhắc thận trọng. Danh mục thuốc phản ánh
sự thay đổi trong thực hành sử dụng thuốc để điều trị nhằm đạt hiệu quả cao.
1.2. CHU TRÌNH CUNG ỨNG THUỐC
Trong thời gian vừa qua, các bệnh viện đã có nhiều cố gắng trong việc cung
ứng thuốc cho người bệnh, đặc biệt từ năm 1997 đến nay, các Hội đồng thuốc và diều
trị (HĐT-ĐT) bệnh viện đã hoạt động tích cực, góp phần cung cấp đủ thuốc đảm bảo


chất lượng và sử dụng thuốc họp lý, an toàn, chất lượng điều trị ngày một nâng cao.
Chu trình cung ứng thuốc được mô tả như ở hình 1.2


Lựa chọn thuốc

Hình 1.2: Sơ đồ chu trình cung ứng thuốc
Cung ứng thuốc là một chu trình khép kín gồm 4 nhiệm vụ: lựa chọn thuốc,
mua sắm thuốc, phân phối thuốc, sử dụng thuốc. Mỗi nhiệm vụ này được xây dựng
nên từ nhiệm vụ trước và tạo tiền đề cho nhiệm vụ sau. Tại trung tâm của chu t rình là
các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý cung ứng thuốc: thông tin, khả năng tài chính,
nguồn nhân lực, MHBT... Các yếu tố này đảm bảo gắn kết các nhiệm vụ trong chu

trình. Ngoài ra, toàn bộ chu trình dựa ưên chính sách và khuôn khổ pháp lý và các
chính sách hỗ trợ cung ứng thuốc thiết yếu [35].
1.2.1. Lựa chọn thuốc
Lựa chọn thuốc là công việc đầu tiên trong chu trình cung ứng thuốc. Lựa
chọn thuốc liên quan đến việc xem xét MHBT, phác đồ điều trị, khả năng tài chính,
chọn thuốc với số lượng, đường dùng và loại thuốc phù họp với từng cơ sở y tế.
WHO đã xây dựng một số tiêu chí lựa chọn thuốc:
-

Chỉ chọn những thuốc có đủ bằng chứng tin cậy về hiệu quả điều trị, độ an toàn.

-

Thuốc lựa chọn phải sẵn có ở dạng bào chế đảm bảo sinh khả dụng, ổn định về
chất lượng trong điều kiện bảo quản nhất định.

-

Khi có 2 thuốc hoặc nhiều hơn 2 thuốc tương đương nhau về 2 tiêu chí fren cần
phải lựa chọn trên cơ sở giá cả, khả năng cung ứng.


-

Trong một số trường hợp việc lựa chọn thuốc còn phụ thuộc vào một số yếu tố
khác như: đặc tính dược động học, trang thiết bị bảo quản, hệ thống kho tàng, nhà
cung ứng tại địa phương đó.

-


Thuốc ghi tên gốc hoặc tên chung quốc tế (INN), tránh đề cập tên biệt dược hoặc
tên nhà sản xuất cụ thể [35].
HĐT-ĐT cần phải thống nhất rõ ràng các tiêu chí lựa chọn thuốc dựa trên các

tiêu chí đã có của WHO để đảm bảo quy trình lựa chọn thuốc được khách quan, có cơ
sở khoa học và phù hợp với từng bệnh viện.
1.2.2. Mua sắm thuốc
Quá trình mua thuốc có hiệu quả mới đảm bảo cung cấp đúng thuốc, đúng số
lượng với giá cả họp lý và với tiêu chuẩn chất lượng được thừa nhận. Quá trình này
bao gồm các bước sau:
-

Tập họp các thông tin tiêu dùng về thuốc: tác dụng dược lý, dược động học, tác
dụng không mong muốn, liều dùng...

-

Xác định nhu cầu thuốc, cân đối với kinh phí hiện có của bệnh viện.

-

Lựa chọn phương thức mua thuốc: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định
thầu, chào hàng cạnh tranh...

-

Lựa chọn nhà cung ứng.

-


Giám sát đơn đặt hàng: xem chủng loại, số lượng, chất lượng có đúng như trong
họp đồng không.

-

Nhận thuốc và kiểm tra thuốc.

-

Thanh toán.

-

Nhập thuốc vào kho.

1.2.3. Cấp phát thuốc
Sau khi thuốc được nhập vào kho, khoa dược tồn trữ, bảo quản và cấp phát
đến các khoa lâm sàng, cận lâm sàng và phục vụ bệnh nhân. Quy trình cấp phát thuốc
từ khoa dược đến các khoa lâm sàng, cận lâm sàng được xây dựng cụ thể dựa trên
tính chất, đặc điểm của từng bệnh viện dựa trên nguyên tắc cấp phát kịp thời, thuận
tiện. Việc cấp phát ảnh hưởng trực tiếp đến việc diều trị bệnh. HĐT-ĐT bệnh viện
xây dựng quy trình cấp phát càng khoa học thì khoa lâm sàng và khoa dược càng chủ
động trong việc cấp phát và nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân [10].


1.2.4. Sử dụng thuốc
Thuốc là một yếu tố quan trọng trong việc chăm sóc và điều trị bệnh cho người
bệnh. Neu sử dụng thuốc không hợp lý trên một diện rộng sẽ gây nên những hậu quả
lớn về kinh tế, xã hội. Trước tiên, nó làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh
và ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị, tăng nguy cơ xảy ra các phản ứng có hại

(ADR), trong một số trường hợp làm cho người bệnh lệ thuộc quá mức vào thuốc.
Ngoài ra, sử dụng thuốc không đúng còn làm tăng chi phí chăm sóc sức khoẻ của
người bệnh cũng như làm lãng phí nguồn lực tài chính bệnh viện.
Vậy sử dụng thuốc hợp lý là gì?
Theo Tổ chức y tế thế giói WHO (1998) thì: “ Sử dụng thuốc hợp lý là người
bệnh phải nhận được thuốc thích hợp với đòi hỏi của lâm sàng và liều lượng đáp ứng
được yêu cầu cá nhân người bệnh trong một khoảng thời gian thích họp và với chi
phí ít gây tổn kém nhất cho người bệnh và cho cộng đồng” [35].
Các yếu tố dẫn đến việc sử dụng thuốc không họp lý
Hệ thống cung cấp dịch vụ
+ Sai thuốc + Thuốc quá hạn
+ Thiếu thuốc + Cung cấp
không đảm bảo

Người kê đon
f Thiếu đào tạo f Chưa xây
dựng rõ nvụ f Thông tin
không đầy đủ f Quan tâm
đến tài chính

Sử dụng
thuổc
không hop
ly
Bệnh nhân và cộng đồng
+ Văn hoá và niềm tin + Thời
gian tư vấn ngắn + Thái độ
người kê đơn + Thiếu thông
tín được in ấn


Nhà phân phối
+ Đào tạo kém + Không có
giám sát + Thiếu phương
tiện + Quá nhiều bệnh nhân
+ Áp lực của doanh số

Hình 1.3: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thuốc hợp lý


Chu trình quản lý sử dụng thuốc được mô tả như sau

Hình 1.4: Chu trình quản lý sử dụng thuốc
1.1.4.1. Kê đơn đúng quy định
Kê đơn là hoạt động xác định xem người bệnh cần dùng những thuốc gì, liều
dùng cùng với liệu trình diều trị phù hợp.
Đe kê đơn thuốc đúng quy định, người kê đơn cần tuân thủ quy chế kê đơn,
mà bắt đầu bằng việc chẩn đoán để xác định rõ những vấn đề phải can thiệp, sau đó
xác định mục đích điều trị. Người kê đơn dựa fren các thông tin được cập nhật về
điều trị bệnh và thuốc, để lựa chọn cách điều trị phù hợp với cá thể người bệnh.
Thuốc tốt để điều trị cho người bệnh là thuốc được lựa chọn theo tác dụng, độ an
toàn, tính sẵn có và giá cả. Sau đó thuốc phải được hướng dẫn để người bệnh hiểu rõ
liều, thời gian, đường dùng thuốc. Người kê đơn nên cung cấp thông tin phù hợp về
thuốc và tình trạng bệnh cho người bệnh. Người kê đơn cũng cần theo dõi người bệnh
để có can thiệp kịp thời khi các biến cố có thể xảy ra trong quá trình điều trị.
> Giám sát kê đon thuốc trong điều trị ngoại trú Chỉ thị 05/2004/CT-BYT
về việc chấn chỉnh công tác cung ứng, sử dụng thuốc trong bệnh viện đã yêu cầu:
“Tăng cường kiểm tra việc thực hiện qui chế kê đơn và bán thuốc theo đơn trong bệnh
viện” [13], Giám sát việc thực hiện quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú của
bác sỹ theo quyết định 04/2008/QĐ-BYT như: qui định về ghi đơn thuốc, thuốc
hướng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc, thuốc gây nghiện, kê đơn thuốc trong

diều trị mãn tính...[9].


> Giám sát chỉ định thuốc trong hồ Stf bệnh án
Thực hiện đúng các quy định về sử dụng thuốc, quy định chẩn đoán bệnh, làm
hồ sơ bệnh án và kê đơn điều trị.
• Ghi đầy đủ họ và tên, tuổi, địa chỉ và căn bệnh của bệnh nhân, trẻ em dưới
một năm phải ghi tháng tuổi.
• Y lệnh dùng thuốc ghi đầy đủ, rõ ràng vào hồ sơ bệnh án gồm: tên thuốc,
hàm lượng, liều dùng, đường dùng và thời gian dùng.
• Thuốc sử dụng có trong DMTB V, ghi đầy đủ và rõ ràng tên thuốc.
• Ghi y lệnh dùng thuốc theo trình tự thuốc tiêm, thuốc viên, thuốc nước tiếp
đến các phương pháp điều trị khác.
• Dùng thuốc gây nghiện, kháng sinh phải theo dõi ngày dùng, liều dùng,
tổng liều [11].
> Giám sát thực hiện danh mục thuốc
Hoạt động giám sát thực hiện DMT là giám sát việc tuân thủ theo DMTBV.
Tuân thủ DMTBV bao gồm việc thực hiện các quy định của DMTBV và sự thích ứng
với thực tế của DMT. Nếu xây dựng DMT dùng trong bệnh viện không dựa trên
những căn cứ khoa học, thì ngay từ yếu tố ban đầu để sử dụng thuốc hợp lý đã không
đạt được. Hàng năm DMT cần được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình
thực tế của diều trị, phù hợp với khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong điều trị.
1.1.4.2. Đóng gói, dán nhãn
Những thuốc được chuẩn bị để cấp phát theo đơn cho người bệnh cần được
đóng gói cẩn thận sao cho người bệnh có thể cất giữ đảm bảo chất lượng thuốc và
hiểu rõ cách sử dụng. Việc dán nhãn có vai trò quan trọng vì thuốc được sử dụng
thường xuyên không đúng cách sẽ không đạt được hiệu quả điều trị mong muốn.
Nhãn thuốc cần phải được viết rõ dễ đọc, đảm bảo cung cấp thông tin tên thuốc với
nồng độ hàm lượng, số lượng, liều dùng, thời gian dùng, cách dùng.

1.1.4.3. Giám sát việc giao phát
Giao phát thuốc tốt đảm bảo rằng thuốc được đưa cho đúng người bệnh, với
liều dùng và chất lượng thuốc tốt, có hướng dẫn rõ ràng và thuốc được đựng trong
bao bì duy trì được hiệu lực của thuốc. Bất kỳ sai sót trong quá trình giao phát đều có
thể ảnh hưởng đến sự an toàn của người bệnh [35].


Hình 1.5: Quy trình giao phát thuốc cho người bệnh
Bước 1: Nhận và xác nhận đơn thuốc: điều này rất quan trọng đặc biệt đối với
các bệnh viện có lượng bệnh nhân đông để đảm bảo tránh nhầm lẫn.
Bước 2: Kiểm ưa lại đơn thuốc: xác nhận liều dùng đã phù hợp với bệnh nhân
chưa (tuổi, giới tính, bệnh nhân suy gan, thận...), kiểm tía các tương tác thuốc-thuốc
phổ biến.
Bước 3: Chuẩn bị bao bì và nhãn: lựa chọn bao gói, đếm số lượng thuốc bằng
các dụng cụ sạch sẽ và an toàn, đóng gói và dãn nhãn có đầy đủ các thông tin: tên
bệnh nhân, tên thuốc, hàm lượng, thời gian, cách sử dụng.
Bước 4: Ghi lại các hoạt động đã thực hiện vào sổ theo dõi.
Bước 5: Giao phát thuốc cho bệnh nhân và hướng dẫn rõ ràng: khi nào dùng
thuốc, cách dùng thuốc (nhai, nuốt, uống với lượng nước khoảng bao nhiêu...), cách
bảo quản thuốc. Ngoài ra, cần tư vấn thêm cho bệnh nhân những tác dụng không
mong muốn khác có thể gặp phải khi sử dụng thuốc.
Trong bệnh viện, cấp phát do khoa dược và điều dưỡng của các khoa lâm sàng
đảm nhiệm. Đe đảm bảo việc phát thuốc cần:
-

Thực hiện đúng quy trình giao phát thuốc.

-

Trước khi giao thuốc dược sỹ phải thực hiện 3 kiểm tía, 3 đối chiếu.


-

Y tá (điều dưỡng) tại các khoa phòng:
+ Công khai thuốc được dùng hàng ngày cho từng bệnh nhân.
+ Phải có sổ thuốc điều trị, mỗi khi thực hiện xong phải đánh dấu vào sổ +
Phải có khay thuốc, lọ đựng thuốc uống sáng, chiều, tối cho từng người bệnh.


+ Khi gặp thuốc mới hoặc y lệnh sử dụng thuốc quá liều qui định phải thận
trọng, hỏi lại bác sỹ điều trị.
+ Trước khi tiêm thuốc, cho người bệnh uống thuốc phải thực hiện 3 kiểm tra,
5 đối chiếu.
+ Bàn giao thuốc còn lại của người bệnh cho kíp trực sau.
+ Khoa điều trị có sổ theo dõi sai sót và tai biến do thuốc.
1.2.4.4.

Giám sát tuân thủ hướng dẫn sử dụng thuốc
Theo WHO, quá trình từ kê đơn, cấp phát đến theo dõi dùng thuốc chính là

quá trình chăm sóc bằng thuốc. Trong quá trình này cần xây dựng mối quan hệ chặt
chẽ giữa bác sỹ-dược sỹ-điều dưỡng- bệnh nhân [12].

Hình 1.6: Mối quan hệ giữa bác sĩ, dược sị điểu dưỡng, bệnh nhân
Với dược sĩ:
Người dược sĩ có trách nhiệm cung cấp thông tin và tư vấn về sử dụng thuốc
cho bác sĩ, bệnh nhân đồng thời giám sát việc thực hiện các quy chế dược trong toàn
bệnh viện.
Vói bác sĩ:
Bác sĩ là người chịu trách nhiệm thăm khám, kê đơn cho bệnh nhân, đồng thời

theo dõi hiệu quả điều trị để có những điều chỉnh kịp thời. Khi có những nghi ngờ và
chưa rõ về thuốc định kê đơn, bác sĩ cần trao đổi với dược sĩ.
Vói điều dưỡng:
Điều dưỡng là người trực tiếp thực hiện y lệnh của bác sĩ nhưng cần chủ động
phát hiện những nhầm lẫn trong y lệnh điều trị hoặc tác dụng có hại của thuốc đối với
bệnh nhân và thông báo kịp thời với bác sĩ.


Với bệnh nhân:
Cần tuân thủ theo sự hướng dẫn của bác sĩ, dược sĩ, y tá.
Hướng dẫn người bệnh sử dụng thuốc bằng lời nói dễ hiểu, rõ ràng về liều
dùng, số lần dùng thuốc, thời gian điều trị.... Có sự tư vấn thích hợp để giúp người
bệnh tuân thủ điều trị như: khi nào thì uống thuốc, uống thuốc như thế nào (nhai,
nuốt, uống với nhiều nước...) và cách bảo quản giữ gìn thuốc. Ngoài ra, cũng đề cập
đến các tác dụng phụ có thể có, tuy nhiên với mức độ thích hợp để người bệnh không
sợ hãi mà ngừng điều trị. Chỉ nên nói đến tác dụng phụ nghiêm trọng với người kê
đơn để cân nhắc yếu tố nguy cơ/lợi ích khi sử dụng thuốc. Khi hướng dẫn tư vấn sử
dụng thuốc cho người bệnh cần đảm bảo họ đã hiểu rõ cách sử dụng thuốc để tránh
sai sót khi sử dụng.
Theo dõi giám sát sử dụng thuốc của người bệnh trong suốt quá trình điều trị,
đồng thời theo dõi các phản ứng có hại, những tương tác bất lợi của thuốc.
1.3. VÀI NÉT VỀ SỬ DỤNG THUỐC TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN Ở VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Cùng với sự phát triển kinh tế, các cơ sở chăm sóc sức khỏe liên tục được hình
thành và phát triển, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các bệnh viện ở nước ta
không ngừng được nâng cao. Đồng thời, nhu cầu sử dụng thuốc cũng tăng nhanh
chóng, nếu như tiền thuốc bình quân đầu người năm 1997 là 5,2 USD/người thì đến
năm 2007 đã là 13,4 USD/người tăng 157,7% so với năm 1997. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng gặp phải nhiều bất cập trong vấn đề sử dụng
thuốc hiện nay [17].

Tại Mỹ, thống kê cho thấy hằng năm những sai sót về thuốc dẫn đến khoảng 1,3
triệu người bị ảnh hưởng và 180.000 người tử vong. Tuy nhiên không có thống kê về
mức độ sai sót của các bệnh viện tại Việt Nam. Năm 2006, Bộ Y tế Việt Nam đã cảnh
báo về chứng xơ hóa cơ delta. Ước tính khoảng 16.000 trẻ đã bị teo cơ delta là minh
chứng đã có sự xuất hiện của các sai sót về thuốc và phản ứng phụ. Nhiều cơ sở y tế
đã từ chối thừa nhận có sai sót về thuốc vì các cán bộ y tế lo sợ bị khiển trách và phạt
nếu xảy ra sai sót. Cũng chính vì thế, việc sử dụng thuốc, kê đơn thuốc hợp lý là vấn
đề được rất nhiều người quan tâm.


Một bộ phận không nhỏ bác sĩ có “thói quen” kê đơn thuốc biệt dược. Theo
nghiên cứu của Lê Thùy Trang tại bệnh viện E cho thấy tỷ lệ thuốc theo tên generic
trong đơn chỉ chiếm 30,9%. Bên canh đó là tình hạng lạm dụng kháng sinh, vitamin
và kê quá nhiều thuốc trong một đơn. Cục Quản lý khám chữa bệnh vừa công bố về
tình hình sử dụng thuốc tại một số bệnh viện tuyến trung ương có 41% bệnh án sử
dụng kháng sinh kết hợp, chủ yếu là kết hợp hai kháng sinh, số thuốc trong từng bệnh
án rất cao, chủ yếu 6 - 1 0 thuốc/bệnh án, có tới 7,7% bệnh án chỉ định kết hợp ba
kháng sinh; fren 10% bệnh án sử dụng 1 1 - 1 5 thuốc và 1,7% bệnh án sử dụng trên
16 thuốc. Hiện nay, tỷ lệ sử dụng thuốc nội tại các bệnh viện đã tăng lên nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với thuốc ngoại. Do đó, cần phải thay đổi thói quen tiêu
dùng, đặc biệt là tâm lý chuộng hàng ngoại.
Việc người bệnh có thể dễ dàng mua các thuốc bán theo đơn tại các nhà thuốc
làm gia tăng đáng kể tình trạng dùng thuốc theo kinh nghiệm, tự ý hiệu chỉnh liều
thuốc... gây nguy hại đến sức khỏe người bệnh. Trong một nghiên cứu cộng đồng về
việc tiêu thụ kháng sinh, các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng có tới 78% kháng sinh
được mua tại các hiệu thuốc tư nhân mà không có đơn thuốc. Trong đó 67% người
mua có tham khảo ý kiến dược sỹ và 11% trường hợp tự quyết định việc sử dụng
kháng sinh. Thực trạng về việc bán thuốc không đơn đã chỉ ra rõ ràng có sự thất bại
trong việc tuân thủ các quy định đề ra [37].
Hơn nữa, thực trạng hướng dẫn sử dụng thuốc tại các cơ sở y tế của cán bộ y tế

cho người bệnh cũng là một vấn đề cần xem xét. Tại tỉnh Bắc Cạn, hướng dẫn dùng
thuốc của cán bộ y tế còn tới 93,33% số cán bộ được phỏng vấn cho là gặp khó khăn
trong việc ghi tên thuốc, liều dùng...[22]. Theo kết quả nghiên cứu tại bệnh viện nhân
dân 115, thời gian phát thuốc trung bình cho bệnh nhân là 19,02 giây. Khi mà thòi
gian hướng dẫn quá ít, chỉ tính bằng giây thì việc người bệnh sử dụng thuốc sai là
không tránh khỏi. Bởi vì ngoài tác dụng điều trị, bất kỳ thuốc nào cũng có những tác
dụng không mong muốn. Khi gặp những tác dụng không mong muốn của thuốc mà
không được sự nhắc nhở trước của các cán bộ y tế thì có thể gây tâm lý hoang mang
cho người bệnh và việc tự ý ngừng thuốc rất có thể xảy ra. Thêm vào đó, những
tương tác giữa các loại thuốc khi sử dụng cùng nhau hoặc tương tác giữa thuốc và đồ
uống, thức ăn có thể gây nguy hiểm cho người bệnh nếu họ không có sự hướng dẫn


của những nhà chuyên môn. Theo báo cáo của bệnh viện Bạch Mai, hầu như tuần nào
Trung tâm chống độc (bệnh viện Bạch Mai) cũng tiếp nhận bệnh nhân bị ngộ độc do
sử dụng thuốc thiếu an toàn.
Ở các bệnh viện đã thành lập tổ Dược lâm sàng (DLS) và thông tin thuốc thực
hiện công tác quản lý sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và cập nhật thông tín cho bác sĩ
điều trị. Cho đến nay trừ một số bệnh viện trung ương và một số bệnh viện lớn ở Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, khoa dược đã triển khai công tác DLS phát huy nhiệm
vụ hướng dẫn sử dụng thuốc, còn lại hầu hết các nơi khác chức năng này còn khá mờ
nhạt. Hầu hết ở các bệnh viện cán bộ DLS còn thiếu và chưa được đào tạo thường
xuyên về DLS. Do thiếu dược sĩ có tay nghề nên 73% đơn thuốc hiện nay của bác sĩ
không được giám sát. Thống kê tại 245 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tỉnh, với gần
52.000 giường bệnh nhưng chỉ có gần 470 dược sĩ (đạt tỉ lệ 0,009 dược sĩ/giường
bệnh) trong khi tỷ lệ theo quy định là 1/15 [37].
Bên cạnh đó, hoạt động theo dõi và giám sát ADR tại nước ta chưa thực sự phát
triển. Kinh phí đầu tư cho công tác này không nhiều là một trong những nguyên nhân
khiến hoạt động theo dõi ADR chưa thường xuyên và hiệu quả, vẫn còn tình trạng chỉ
làm báo cáo cho qua và chưa quan tâm đến theo dõi ADR ở nhiều bệnh viện. Cục

quản lý dược cho biết, năm 2007 có 1284 báo cáo về ADR của thuốc, năm 2008 có
1778 báo cáo, trong đó nhóm kháng sinh chiếm gần một nửa, vitamin và khoáng chất
chiếm 3,5%.
1.4. MỘT VÀI NÉT VỀ BỆNH TIM MẠCH VÀ TÌNH HÌNH sử DỤNG THUỐC
TIM MẠCH
1.4.1. Bệnh tim mạch
Bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong và tàn phế lớn nhất trên thế giới hiện nay
và chiếm một tỷ lệ khá cao nhất là ở những người đứng tuổi và người già.
Bệnh tim mạch biểu hiện dưới các thể khác nhau như suy tim, tăng huyết áp, rối loạn
nhịp, đau thắt ngực, rối loạn tuần hoàn não, tăng lipid- huyết.... Tổ chức Y tế Thế giới
ước tính, hằng năm có đến 17 triệu người tử vong do các bệnh liên quan đến tim
mạch chiếm khoảng 30% trường hợp tử vong và số bệnh nhân tích lũy ngày một
nhiều. Giữa năm 2006 và năm 2015, tử vong do bệnh không truyền nhiễm (một nửa
trong số đó là do bệnh tim mạch) được dự kiến sẽ tăng 17%, trong khi tử vong do các


bệnh truyền nhiễm được dự đoán sẽ suy giảm [40]. Tại Mỹ, ước tính có khoảng 5
triệu người mắc bệnh suy tim và con số này ở châu Âu là khoảng 10 triệu người [21].
Tại Viện Tim Mạch Việt Nam-Bệnh viện Bạch Mai, từ nhiều năm nay, bệnh nhân tim
mạch đến khám và diều trị cũng như tử vong do bệnh tim mạch luôn đứng vị trí hàng
đầu, theo số liệu từ 1992-1996 của Ngô Văn Thành và Nguyễn Thị Hương thì tử vong
tim mạch chiếm 33,1% trong tổng số tử vong tại bệnh viện Bạch Mai, chỉ đứng sau tử
vong do tất cả các loại bệnh nhiễm trùng cộng lại (37,2%), vượt xa tử vong do ung
thư (8,87%) và tử vong do các bệnh khác (20,1%). Gần đây nhất theo thống kê của
GS Trần Quỵ và TS Nguyễn Chí Phi thì bệnh nhân tim mạch điều trị nội trú trong
năm 1998 là 2.220 người, chiếm 12,42% tổng số điều trị nội trú trong năm, đứng
hàng đầu trong các nhóm bệnh. Tại Việt Nam năm 1980, bệnh Tim mạch là bệnh gây
tử vong cao đứng ở hàng thứ tư, còn từ năm 2000 thì bệnh này gây tử vong hàng đầu.
Nếu như những năm 1970, chỉ có khoảng 2% số người lớn bị tăng huyết áp thì những
năm 1990 là 11% và những năm đầu 2001 là 16% [38].

Bảng 1.1. Những bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất tại Việt Nam
Theo các năm

Hàng đầu

Thứ hai

Thứ ba

Thứ tư

1980

Nhiễm khuẩn

Sơ sinh

Ung thư

Tim mạch

1990

Nhiễm khuẩn

Tim mạch

Ung thư

Sơ sinh


Tim mạch

Ung thư

2000

Các nguyên nhân
khác

Nhiễm khuẩn

(Nguồn: Viện tim mạch quốc gia)
1.4.2. Tình hình sử dụng thuốc tim mạch ở Việt Nam
Bệnh tim mạch là một bệnh chuyên khoa mãn tính, kết hợp nhiều yếu tố nguy
cơ nguy hiểm đến sức khỏe người bệnh. Tình hình sử dụng thuốc tim mạch ở Việt
Nam trong vài chục năm gần đây, có thể dễ dàng nhận thấy một số đặc điểm như:
Việc sử dụng thuốc tim mạch phụ thuộc hoàn toàn vào sự lựa chọn của các
bác sĩ tim mạch, những người có trình độ chuyên môn cao, thường đi đào tạo ở nước
ngoài, ý thức được tầm quan trọng của chất lượng thuốc nên có tâm lý thích dùng
thuốc ngoại, ít dùng thuốc sản xuất trong nước. Đó là lý do dẫn đến hiện tượng thuốc
được kê đơn theo tên biệt dược đang diễn ra phổ biến.


Người bệnh mắc bệnh tim mạch thường có các bệnh kết hợp khác (các bệnh
về rối loạn chuyển hóa: đái tháo đường, mỡ máu...), phải điều trị lâu dài, sử dụng
thuốc thường xuyên, vì vậy việc sử dụng thuốc và tuân thủ diều trị thường gặp khó
khăn và yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến việc điều trị của người bệnh sau khi ra
viện. Một nghiên cứu của GS.Phạm Gia Khải và cộng sự năm 2002 cho biết trong 818
người được phát hiện có tăng huyết áp chỉ có 94 (11,49%) người là có dùng thuốc và

tỷ lệ huyết áp được khống chế tốt là 19,1% (18/94).
Bên cạnh việc gia tăng nhanh chóng số bệnh nhân mắc các bệnh về tim mạch,
chi phí cho chăm sóc, điều trị bệnh tim mạch cũng là gánh nặng đáng kể trên thế giới
với hàng trăm tỷ USD/năm. Tại Việt Nam, kinh phí cho nhóm thuốc tim mạch tại các
bệnh viện luôn chiếm tỷ lệ cao: 20,53% tại bệnh viện Bạch Mai, 19,5% tại bệnh viện
Xanh Pôn [29], 19,6% tại bệnh viện Thanh Nhàn [24],.. Mặc dù bệnh tim mạch chỉ
xếp thứ tư tíong các bệnh mắc nhiều nhất tại bệnh viện Thanh Nhàn nhưng kinh phí
sử dụng thuốc tim mạch lại đứng hàng thứ hai.
Thực tế từ một nghiên cứu tại bệnh viện Nhân Dân 115 cho thấy số thuốc
trung bình trên nhóm bệnh huyết áp - tim mạch là cao nhất (4,08 thuốc), tiếp theo là
nhóm bệnh nhiễm khuẩn (3,96 thuốc). Cùng với những bất cập trong việc sử dụng
thuốc nói chung, bệnh tim mạch là bệnh mạn tính đòi hỏi dùng thuốc lâu dài, thường
xuyên, các thuốc tim mạch chủ yếu là thuốc ngoại nên yếu tố kinh tế là một trong
những nguyên nhân khiến việc tuân thủ điều trị gặp khó khăn.
Ở một số tỉnh, người bệnh có thể mua khá dễ dàng thuốc tìm mạch tại các cơ
sở bán lẻ dược phẩm, mặc dù thuốc tim mạch là thuốc bán theo đơn, điều này góp
phần làm cho người bệnh sử dụng thuốc theo “kinh nghiệm”, “tự điều trị”, tự điều
chỉnh liều, tự ngưng thuốc.. .kết quả nhiều người phải nhập viện do tai biến từ sử
dụng thuốc. Một khảo sát tình hình mua thuốc ở một số tình phía Bắc cho biết trong
số 828 lượt bán thuốc được khảo sát, chỉ có 23,67% người dân đến mua có đơn của
thầy thuốc, còn lại là mua không đơn. Đối với số thuốc của một lần mua có đơn thì số
đơn có từ 3 thuốc trở lên chiếm tới 93,88% [34];


Thêm vào đó, người bệnh tìm mạch cũng không nhận được hướng dẫn, tư vấn
thích hợp để hiểu về bệnh của mình cũng như thuốc phải sử dụng hay tầm quan trọng
của việc thực hiện quá trình diều trị liên tục kéo dài. Theo nghiên cứu tại bệnh viện
Xanh Pôn có 75,8% đơn không ghi hướng dẫn sử dụng thuốc đầy đủ [20], tại bệnh
viện E số đơn không ghi rõ liều dùng, cách dùng chiếm 22%, số đơn không ghi rõ
thời gian dùng chiếm 40% [30].

Nhằm tăng cường chất lượng kê đơn và hướng dẫn sử dụng thuốc, Bộ Y tế và
các bệnh viện đã có những biện pháp can thiệp phù hợp và đã thu được những kết quả
ban đầu. Cụ thể, tại bệnh viện Xanh Pôn, hiệu quả của các biện pháp can thiệp làm
giảm tỷ lệ đơn không ghi hướng dẫn sử dụng thuốc giảm từ 75,8% xuống còn 48,4%
[18]. Năm 1992, Hội Tim Mạch Học Quốc Gia Việt Nam (Vietnam National Heart
Association, viết tắt VNHA) được thành lập. Nhiều buổi hội thảo truyền thông được
tổ chức để phòng chống bệnh tìm mạch với nhiều chuyên đề về tăng huyết áp (THA)
và bệnh lý liên quan đã thu hút được cộng đồng người bệnh tim mạch cũng như các
thầy thuốc chuyên khoa.
1.5. MÔ HÌNH Tự CHỦ, Tự QUẢN TẠI BỆNH VIỆN CÔNG VÀ MỘT VÀI
NÉT VỀ BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI
1.5.1. Mô hình tự chủ về tài chính, tự quản tại các bệnh viện công lập của Việt
Nam
Ở Việt Nam, trước giai đoạn đổi mới, cho đến những năm 1980, hầu hết các
bệnh viện công lập có nguồn tài chính duy nhất là ngân sách nhà nước (NN). Theo cơ
chế bao cấp, cùng vói việc NN giao chỉ tiêu giường bệnh, quy định biên chế lao động,
giao kế hoạch hàng năm, các bệnh viện công lập được NN cấp kinh phí cho hoạt
động. Trong điều kiện nguồn ngân sách hạn hẹp, mặc dù người dân được khám chữa
bệnh miễn phí nhưng chất lượng khám chữa bệnh không cao cả về kỹ thuật chẩn
đoán, điều trị bệnh cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị, cách thức bệnh viện chăm
sóc người bệnh, quy trình khám chữa bệnh... do đó các bệnh viện tại Việt Nam hầu
như không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh ngày cao của người dân. Cho đến
nay, hệ thống bệnh viện công vẫn được xem như xương sống của hệ thống y tế. Cả
nước có khoảng 13.051 cơ sở y tế, với khoảng 900 bệnh viện, trong đó có 700 bệnh


viện đa khoa và 71 bệnh viện chuyên khoa nhưng hiện mới có 43 bệnh viện tư nhân
và bán công, (chiếm tỷ lệ 4,6% so với bệnh viện Nhà nước). Trong tổng chi y tế năm
2005, chi tiêu trong khu vực bệnh viện chiếm 35,8% [39],
Chính sách giao quyền tự chủ theo Nghị định (NĐ) 10/2002/NĐ-CP và sau

này là NĐ 43/2006/NĐ-CP cho các bệnh viện công lập được hy vọng sẽ làm tăng
hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí, tăng nguồn thu cho bệnh viện đồng thời nâng
cao tính đáp ứng của cơ sở y tế đối với nhu cầu khám chữa bệnh thực tế của địa
phương. Việc thực hiện chính sách tự chủ tạo ra những tác động nhất định trong cung
ứng, sử dụng và chi trả dịch vụ y tế.
Theo đó, mô hình hoạt động bệnh viện đang định ra 2 hướng là mô hình bệnh
viện tự chủ và tự quản với vai trò quản lý của Nhà nước đang được cho là có nhiều ưu
điểm. Thực hiện giao quyền tự chủ tài chính đối với các bệnh viện là tạo điều kiện
cho các đơn vị tự chịu trách nhiệm, chủ động sử dụng nguồn kinh phí được cấp, đa
dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ y tế, đa dạng hóa nguồn tài chính, để hoàn
thành chức năng, nhiệm vụ được giao. Đến nay, gần 100% bệnh viện trung ương và
khoảng 70% bệnh viện tỉnh, huyện thực hiện tự chủ, trong đó có 4 đơn vị trung ương
thực hiện tự chủ toàn bộ chi phí thường xuyên, số còn lại tự chủ một phần. Tính đến
năm 2008, các bệnh viện công đã huy động được khoảng 3000 tỷ đồng để triển khai
các kỹ thuật cao.
Còn mô hình bệnh viện tự quản, bệnh viện tự cân đối thu chi và tự phát triển
nhưng dưới sự giám sát của Nhà nước. Bệnh viện hoạt động theo các mô hình này
sẽ đảm bảo được tính công ích, phi thương mại khi tiến hành các dịch vụ khám
chữa bệnh cho người dân. Bệnh viện tự quản sẽ được Nhà nước bố trí đất, giao cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị và vốn ban đầu cho bệnh viện. Hiện Bệnh viện tim Hà
Nội và bệnh viện trường Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh đang thực hiện
mô hình bệnh viện tự quản. Các chuyên gia y tế hy vọng mô hình bệnh viện tự
quản sẽ khắc phục được mặt yếu kém của hệ thống y tế NN [39].
1.5.2.
Bênh viên tim Hà Nôi • • •
Bệnh viện tim Hà Nội thành lập theo quyết định số 6863/QĐ-UB ngày 15
tháng 11 năm 2001 của UBND thành phố Hà Nội. Là đơn vị sự nghiệp y tế có thu


hoạt động theo cơ chế riêng do UBND thành phố phê duyệt, có dấu và tài khoản tại

Kho Bạc Nhà nước và ngân hàng theo quy định hiện hành. Năm 2005 bệnh viện
chuyển sang hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu tự hạch toán. Quy mô
ban đầu 50 giường bệnh, sau đó tăng 70 vào năm 2008, 110 giường năm 2010, bệnh
viện tim Hà Nội hiện nay là bệnh viện chuyên khoa tim mạch hạng I cấp thành phố,
trực thuộc Sở y tế Hà Nội, với nguồn nhân lực - nguồn lực từ 126 cán bộ nhân viên
năm 2005 đến năm 2010 là 257 cán bộ nhân viên, góp phần đáp ứng nhu cầu khám và
điều trị ngày càng gia tăng của người dân trong cả nước [1] [2] [3]. ❖ Hoàn cảnh ra
đời và các sư kiên hoat đông chính của bênh viên tim Hà Nội:
o Năm 1939 - 1956: Tại vị trí 92 Trần Hưng Đạo (cạnh ngõ Vạn Kiếp) là bệnh
viện tư nhân mang tên bác sĩ Đặng Vũ Lạc o Năm 1956: Bệnh viện Đặng Vũ Lạc
bàn giao cho ngành y tế Thủ đô trở thành phòng khám đa khoa khu vực Hàng cỏ.
o Ngày 1/1/1962: Nhân dịp Quốc khánh nước Cộng hòa Cu Ba, bệnh viện Việt
Nam - Cu Ba Hữu nghị được khánh thành, bao gồm việc sát nhập Phòng khám đa
khoa khu vực Hàng cỏ 92 Trần Hưng Đạo và phòng khám đa khoa khu vực Hai
Bà Trưng tại 37 Hai Bà Trưng.
o Tháng 2/1991: Địa điểm 92 Trần Hưng Đạo chính thức tách ra khỏi bệnh viện
Việt Nam - Cu Ba, thành lập bệnh viện Hoàn Kiếm, được đầu tư, cải tạo nâng
cấp thành cơ sở y tế khám chữa bệnh theo yêu cầu. Sau 3 năm cải tạo hạ tầng
cơ sở vì không có vốn cho trang thiết bị toàn bộ nên bệnh viện Hoàn Kiếm
không triển khai hoạt động được.
o Ngày 15/11/2001: UBND TP Hà Nội có quyết định số 6863/QĐ-UBND thành
lập Bệnh viện tim Hà Nội trên cơ sở sắp xếp lại bệnh viện Hoàn Kiếm, o Từ cuối
năm 2001 đến đầu năm 2004: bệnh viện tim Hà Nội tiến hành nâng cấp, lắp đặt
vận hành thử toàn bộ trang thiết bị. o Tháng 4/2003: Triển khai điều trị nội khoa o
Ngày 28/7/2004: Thực hiện ca phẫu thật đầu tiên o Ngày 1/1/2005: Bệnh viện bắt
đầu hoạt động theo mô hình tự quản o Tháng 4/2009: Kỹ thuật tim mạch can thiệp
được thực hiện o Ngày 19/8/2010: Ca mổ thứ 5000 được hoàn thành để chào đón
Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.





Chức năng, nhiệm vụ của bệnh viện
Là bệnh viện chuyên khoa sâu, sử dụng các kỹ thuật cao trong chẩn đoán và

điều trị, bệnh viện có nhiệm vụ khám, điều trị nội, ngoại khoa các bệnh về tim, với
điều trị ngoại khoa là chủ yếu. Bắt đầu hoạt động năm 2003, đến nay, bệnh viện đã
thực hiện gần 5000 ca phẫu thuật tim, (trung bình 6-8 ca/ngày). Điều trị nội, bệnh
viện khám, cấp cứu, điều trị cho người bệnh đến từ các tỉnh thành trong cả nước, chủ
yếu khám phát hiện bệnh, khám sau phẫu thuật các bệnh về tim (bệnh về van tim, tim
bẩm sinh - thông liên nhĩ, thất, còn ống động mạch, fallo 4...), bệnh mạch vành có và
không có kèm theo các bệnh rối loạn chuyển hóa. Bệnh viện thực hiện kỹ thuật mới
về can thiệp tim mạch vào tháng 4/2009, hoàn chỉnh vòng tròn khép kín việc chẩn
đoán, khám và điều trị nội, ngoại khoa các bệnh về tim mạch - sự khác biệt vượt ữội
với các trung tâm tim mạch khác trong cả nước.
Bệnh viện chú trọng hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài
nước để nghiên cứu, ứng dụng các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị. Trong nước, bệnh
viện hợp tác với bệnh viện tim TP Hồ Chí Minh, Bạch Mai, Việt Đức, Nhi, Quân đội
108. Hiện nay, bệnh viện tim Hà Nội cùng bệnh viện quân đội 103 thực hiện đề tài
nghiên cứu cấp nhà nước về ghép tim tại Việt Nam. Ở ngoài nước, bệnh viện hợp tác
chặt chẽ với bệnh viện trường Đại học Clermont Ferrand (Pháp), Viện tim mạch Quốc
gia Malaixia (Malaixia), trung tâm phẫu thuật tim Berlin (Đức).
Các công tác phòng chống dịch bệnh (phòng chống lụt bão, tiêu chảy cấp,
cúm A(H5N1), công tác đảm bảo y tế (phục vụ mùa thi đại học hàng năm, Hội nghị
ASEAN, Hội nghị Năm Chủ tịch ASEAN...) được bệnh viện quan tâm thực hiện.
Điểm khác biệt của bệnh viện tim Hà Nội so vói các bệnh viện công lập khác
là việc thực hiện mô hình bệnh viện tự quản. Từ năm 2005 bệnh viện chuyển sang
hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu tự hạch toán. Doanh thu của bệnh
viện tăng vượt bậc qua các năm, tạo diều kiện để bệnh viện dành khoản kinh phí lớn
tái đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại, đào tạo chuyên môn,

đồng thời tăng thu nhập của cán bộ bệnh viện Tim Hà Nội.


Ngoài ra, bệnh viện cũng thực hiện công tác quản lý cán bộ, công chức theo
quy định của nhà nước.
❖ Tình hình khám chữa bệnh tại bệnh viện
Số lượng bệnh nhân điều trị tại bệnh viện được thể hiện qua bảng 1.2
Bảng 1.2. Sổ lượng bệnh nhân điều trị tại viện Tỉm Hà Nội
Số BN
Tỷ
phẫu
thuật
trọng
% (So
Số
BN
nội
Tỷ
trọng
%
Tỷ
trọng
%
Số
Năm
tim
với năm
(So với năm
người (So với năm trú
2007)

2007)
2007)
khám
2007

8342

100

1093

100

632

100

2008

10781

129,2

1542

141,1

965

152,7


2009

14342

171,9

2339

214,0

1027

162,5

Số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại viện ngày một tăng, số lượng
bệnh nhân điều trị nội trú năm 2009 tăng lên 214% so với năm 2007. số lượng bệnh
nhân tăng nhanh cũng kéo theo số lượng thuốc, kinh phí sử dụng thuốc tăng lên để
đáp ứng được yêu cầu điều trị.
♦í* Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của khoa Dược bệnh viện
• Vị trí:
Khoa Dược bệnh viện tim Hà Nội là một khoa cận lâm sàng, do giám đốc
bệnh viện trực tiếp quản lý. Trong bệnh viện, đây là tổ chức cao nhất đảm nhiệm mọi
công tác về dược nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn trong khám
chữa bệnh, nhất là trong sử dụng thuốc.
• Chức năng, nhiệm vụ:
- Lập kế hoạch, cung cấp và bảo đảm số lượng, chất lượng thuốc thông
thường và thuốc chuyên khoa, hóa chất, vật dụng cụ y tế tiêu hao: bông, băng, gạc
cho điều trị nội và ngoại trú, đáp ứng yêu cầu điều trị hợp lý.
- Pha chế một số thuốc dùng trong bệnh viện.

- Tồn trữ, bảo quản thuốc.
- Kiểm fra, theo dõi việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý trong toàn bệnh viện.
- Kiểm tra, giám sát quy chế dược tại các khoa phòng bệnh viện.


- Tham gia quản lý kinh phí thuốc, thực hiện tiết kiệm đạt hiệu quả cao trong
phục vụ người bệnh.
- Tham gia công tác nghiên cứu khoa học, thông tin về thuốc [10].
Tóm lại:
Hiện nay, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về cung ứng thuốc trong bệnh viện
đa khoa cũng như chuyên khoa: bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Saint Paul, bệnh viện
Phụ sản Tmng ương, bệnh viện K ...Tuy nhiên chưa có nhiều đề tài nghiên cứu sâu về
việc sử dụng thuốc tại các bệnh viện mặc dù vấn đề sử dụng thuốc tại Việt Nam còn
rất nhiều bất cập. Hơn nữa, việc sử dụng thuốc tim mạch đang là vấn đề được rất
nhiều người quan tâm khi mà bệnh tim mạch không ngừng gia tăng tại các thành phố
lớn như hiện nay. Bệnh viện tim Hà Nội là bệnh viện chuyên khoa hạng I về tim
mạch, trực thuộc Sở Y tế Hà Nội, nhưng lại chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề
sử dụng thuốc tại đây. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài : “Phân tích hoạt động
sử dụng thuốc tại bệnh viện tim Hà Nội, giai đoạn 2008- 2010” với mong muốn
nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc tại bệnh viện Tim Hà Nội nói riêng và tại các bệnh
viện ở nước ta nói chung.


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯƠNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN cứu

Nghiên cứu hoạt động sử dụng thuốc tại bệnh viện tim Hà Nội giai đoạn
2008-2010, thông qua:



Các báo cáo về bệnh tật lun tại phòng Kế hoạch tổng hợp.
• Sổ sách xuất nhập, thống kê sử dụng thuốc lun tại khoa Dược và phòng Tài
chính kế toán.



Danh mục thuốc của bệnh viện.



Các tài liệu có liên quan đến cung ứng thuốc tại bệnh viện.



Biên bản họp, tài liệu liên quan hoạt động của Hội đồng thuốc và điều trị.



Tài liệu liên quan hoạt động của Đơn vị thông tin thuốc.



Hồ sơ bệnh án, sổ khám bệnh, sổ điều trị ngoại trú bệnh mạn tính.
• Các báo cáo vế nhân lực, tài chính của bệnh viện lưu tại phòng Tổ chức cán
bộ, Tài chính kế toán.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN cứu

-


Địa điểm: Bệnh viện tim Hà Nội

-

Thòi gian nghiên cứu: từ 1/1/ 2008 đến 31/12/ 2010
2.3. TÓM TẮT NỘI DUNG NGHIÊN cứu

Tóm tắt nội dung nghiên cứu theo hình 2.1
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu

2.4.1. Phương pháp mô tả hồi cứu
Thu thập các số liệu, tài liệu liên quan mục tiêu nghiên cứu các hoạt động tại
bệnh viện giai đoạn 2008- 2010 :
v' Các báo cáo về bệnh tật lưu tại phòng Kế hoạch tổng hợp. s Sổ sách xuất
nhập, thống kê sử dụng thuốc lưu tại khoa Dược và phòng Tài chính kế toán.
s Danh mục thuốc của bệnh viện.


×