Tải bản đầy đủ (.pdf) (335 trang)

TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 335 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TS. Lƣu Hồng Minh (Chủ biên)

TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
(TUYỂN TẬP BÀI NGHIÊN CỨU
TRUYỀN THÔNG CỦA KHOA XÃ HỘI HỌC )

Nhà xuất bản Dân Trí
2009


Mc lc
Trang
PHN I : NHNG VN CHUNG
1. ng V Cnh Linh: Ton cu húa v s bin i ca h thng
truyn thụng hin nay
2. Lu Hng Minh : Tng quan nghiên cứu tiếp cận ph-ơng tiện
thông tin đại chúng và nhu cầu công chúng hiện nay
3. ng V Cnh Linh: Xu hng phỏt trin ni dung thụng tin v
loi hỡnh truyn thụng i chỳng vit nam di tỏc ng ca ton
cu hoỏ
4. ng V Cnh Linh: Truyn thụng Vit Nam trong bi cnh tỏc
ng ca xu hng phỏt trin Kinh t truyn thụng
5. Nguyn Th Tuyt Minh: nh kin gii trong phim qung cỏo
trờn truyn hỡnh
6. Phm Hng Tr: Thụng ip gii trờn thụng tin i chỳng hin
nay qua mt s nghiờn cu
PHN II : TIP CN TRUYN THễNG I CHệNG
7. Tuyt Minh: Tip cn truyn hỡnh ca ngi dõn vựng Tõy Bc


8. Bựi Thu Hng: Tip cn v s dng phỏt thanh ca ngi dõn
vựng nỳi phớa bc
9. Nhc Phan Linh: Tip cn v s dng phỏt thanh ca ngi dõn
ng bng sụng Cu Long
10. Nguyn Th T Quyờn: Tip cn v ỏnh giỏ bỏo in ca ngi
dõn vựng Tõy Bc
11. Phm Th Võn: Tip cn Internet ca ngi dõn vựng tõy Bc
12. Phm Hng Tr: Vi nột v thc trng tip cn Internet ca

2


ngƣời dân Đồng Bằng Sông Cửu Long
PHẦN III : CÔNG CHÖNG, NHU CẦU TIẾP CẬN VÀ HIỆU
QUẢ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÖNG
13. Dƣơng Thu Hƣơng: Nhận diện công chúng của các chƣơng
trình phát thanh
14. Nguyễn Thị Tuyết Minh : Nhu cầu thông tin về sức khoẻ sinh
sản qua nghiên cứu thƣ gửi về chƣơng trình “cửa sổ tình yêu”,
chƣơng trình phát thanh thanh thiếu niên, đài tiếng nói Việt Nam
15. Phạm Hƣơng Trà : Thực trạng nguồn thông tin và mong muốn
của sinh viên về các chủ đề liên quan đến tính dục
16. Dƣơng Thu Hƣơng: Tác động của các chƣơng trình tiếp thị và
quảng cáo thực phẩm trên truyền thông đại chúng đến hành vi tiêu
dùng thực phẩm và sức khỏe của trẻ em.
17. Nguyễn Thị Tuyết Minh: Hình ảnh tính dục qua báo mạng
điện tử
18. Nhạc Phan Linh: Quảng cáo báo chí và công chúng hiện nay
19. Nhạc Phan Linh: Tác động tiêu cực của quảng cáo báo chí đến
yếu tố kinh tế của công chúng hiện nay

20. Dƣơng Thu Hƣơng: Hình ảnh nam giới trên truyền thông đại
chúng – sự kỳ vọng về vai trò nam giới và hành vi sức khỏe
21. Trần Thành Nam : Báo mạng điện tử và việc tuyên truyền
phòng chống HIV/AIDS

3


PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
TOÀN CẦU HOÁ VÀ SỰ BIẾN ĐỔI TRONG HỆ THỐNG
TRUYỀN THÔNG HIỆN NAY
Ths. Đặng Vũ Cảnh Linh
Để có thể nghiên cứu tác động của toàn cầu hoá tới các phƣơng tiện
thông tin đại chúng hiện nay, chúng ta cũng cần phải làm rõ đƣợc những
vấn đề lý luận và phƣơng pháp luận phân tích những nguyên nhân và xu
hƣớng biến đổi trong cơ cấu hoạt động của chính hệ thống truyền thông
toàn cầu. Nói một cách cụ thể là chúng ta cần phải tìm hiểu hoạt động
truyền thông trong bối cảnh toàn cầu hoá nhƣ là một hệ thống, có cơ cấu
tồn tại và vận hành thống nhất. Hệ thống đó bao gồm nhiều khu vực cấu
thành đang biến đổi không ngừng, đa dạng và phức tạp, có vị trí, vai trò,
chức năng và nhiệm vụ nhất định trong toàn bộ mạng lƣới truyền thông.
Thực tế cho thấy, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, những biến
đổi to lớn trong hệ thống các hoạt động truyền thông đang đòi hỏi một nhu
cầu phải nghiên cứu và nhận thức lại về truyền thông một cách cơ bản.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu và phân tích về hoạt
động truyền thông đã gọi những biến đổi này là “những cú sốc trong
truyền thông đại chúng”, là “cuộc cách mạng mới về thông tin”, “sự cấu
trúc lại hệ thống truyền thông”. Dƣới đây chúng tôi xin đƣợc phân tích
hai vấn đề có tính phƣơng pháp luận trong nhận thức về sự biến đổi của hệ
thống truyền thông hiện nay, đó là xu hƣớng truyền thông đa phƣơng tiện

và truyền thông đa chiều .
1. Toàn cầu hoá và hệ thống truyền thông đa phƣơng tiện
Sự phát triển của truyền thông đại chúng gắn liền với sự phát triển
của các phƣơng tiện truyền thông. Không có sự phát triển đa dạng của các
4


phƣơng tiện truyền thông thì cũng không thể có sự phát triển của truyền
thông. Chính vì vậy, nói đến sự biến đổi và phát triển không ngừng của hệ
thống thông tin đại chúng ngày nay, chúng ta không thể không nói đến sự
phát triển của các phƣơng tiện truyền thông. Chính sự biến đổi và phát
triển mạnh mẽ của các phƣơng tiện truyền thông mà, hệ thống truyền
thông ngày nay đã đƣợc gọi là “hệ thống truyền thông đa phƣơng tiện”, cơ
cấu hoạt động “đa phƣơng tiện” đã trở thành một đặc trƣng cơ bản của
truyền thông hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng chính sự xuất hiện của tiếng nói
và ngôn ngữ cách đây 36.000 năm đã là sự mở đầu vĩ đại nhất cho một
cuộc cách mạng về thông tin kéo dài suốt lịch sử của loài ngƣời 1. Tuy
nhiên, cũng phải tới thế kỷ 15 với sự phát minh của Gutenberg ra chiếc
máy in đầu tiên nhằm in các loại sách thánh thì truyền thông đại chúng
mới thực sự có đƣợc những công cụ hữu hiệu của mình. Chính sự phát
minh này “đã mở màn cho hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật, những kỹ thuật
đã làm biến đổi hệ thống thông tin một cách bền vững và sẽ tiếp tục biến
đổi trong tƣơng lai sau đấy và với một tốc độ ngày càng nhanh” 2.
Sự ra đời của những máy in đã là điều kiện cho những “tờ báo” đầu
tiên của nhân loại, vốn đƣợc viết bằng tay nhƣ những tờ tin kiểu tờ
“News” ở Anh Quốc thế kỷ 16 đƣợc thay thế bằng những tờ báo thực thụ
đƣợc in bằng máy. Cũng chính máy in đã giúp cho tờ báo nổi tiếng đầu
tiên, tờ “English Mercury” (ngƣời đƣa tin Anh Quốc) có điều kiện để
thông tin rộng rãi cho công chúng về những sự kiện quốc tế quan trọng3.

Ngày nay, bên cạnh những chiếc máy in, dù đƣợc cải biến một cách
triệt để nhƣng vẫn là một phƣơng tiện truyền thống để truyền bá thông tin,
cuộc cách mạng về công nghệ đã mang lại cho các phƣơng tiện truyền
thông một diện mạo hoàn toàn mới. Công nghệ truyền thông đã phát triển

Claudia Mast. Truyền thông đại chúng. Những kiến thức cơ bản. Nhà xuất bản Thong tin. Trang 45.
Claudia Mast. Truyền thông đại chúng. Những kiến thức cơ bản. Nhà xuất bản Thong tin. Trang 45
3
Xem : Dƣơng Xuân Sơn. Báo chí nƣớc ngoài. NXB Văn hoá thông tin.1996, trang 13.
1

2

5


một cách vƣợt bực so với nhiều ngành công nghệ khác. Nhiều nhà nghiên
cứu còn đƣa ra một sự so sánh thú vị giữa công nghệ thông tin với công
nghệ sản xuất xe hơi để thấy rõ hơn sự phát triển của công nghệ thông tin.
Họ cho rằng trong vòng 30 năm qua nếu nhƣ công nghệ sản xuất xe hơi
đạt đƣợc mức phát triển tƣơng đƣơng với công nghệ thông tin thì mỗi
chiêc ô tô ngày nay sẽ chỉ còn có giá bán bằng giá của một bao diêm.
Chính sự phát triển của công nghệ thông tin và các phƣơng tiện
truyền thông đã khiến cho hệ thống truyền thông đại chúng trên thế giới có
đƣợc một bộ mặt khác, trƣớc hết là ở các hình thức truyền thông. Ngày
nay, sự phát triển về kỹ thuật thu nhận và truyền dẫn thông tin đã đƣa vị
thế, vai trò và cách thức hoạt động của truyền thông đại chúng sang một
trang mới. Sự xuất hiện của thông tin điện tử, thông tin mạng đã góp phần
mạnh mẽ vào sự phong phú trong diện mạo hoạt động đƣợc gọi là “đa
phƣơng tiện” của truyền thông.

Công nghệ máy tính cùng với sự xuất hiện của các đƣờng truyền
dẫn siêu tốc nhƣ mạng cáp quang, các vệ tinh viễn thông (mà nhiều quốc
gia và tập đoàn truyền thông đã trang bị riêng cho mình) và các hệ thông
thông tin đƣờng dài, đã thâm nhập sâu sắc vào hệ thông truyền thông kiểu
cũ, làm đảo lộn tất cả, từ nhận thức đến hành vi hoạt động của những
ngƣời tham gia vào hệ thông truyền thông đại chúng. Tính “đa phƣơng
tiện” trong truyền thông đã làm đảo lộn cả cách thức hoạt động của những
tập đoàn truyền thông lớn.
Các phƣơng tiện thông tin cá nhân cũng tham gia trực tiếp vào hoạt
động truyền thông. Điện thoại, đặc biệt là điện thoại di động đã và đang
góp tiếng nói mạnh mẽ vào truyền thông, tạo ra một cuộc cách mạng mới
trong cách thức tiếp nhận và truyền dẫn thông tin. Những khoảng cách về
không gian và thời gian bị thu hẹp lại. Ranh giới giữa thông tin đại chúng
với thông tin cá nhân, giữa thông tin chính thống với thông tin dƣ luận,
giƣa những nhà truyền thông chuyên nghiệp với những sứ giả truyền

6


thông “nghiệp dƣ”, giữa ngƣời gửi và ngƣời nhận thông điệp đã không
còn cách biệt.
Sự xuất hiện và lên ngôi của báo điện tử đã đã tạo ra một sự biến
động lớn trong hệ thống truyền thông toàn cầu hoá. Nó đã khiến cho
không ít những tập đoàn và công ty truyền thông do thiếu sự nhạy bén với
thời cuộc mà lâm vào sự khủng hoảng. Hệ thống báo in hoạt động theo
phƣơng thức truyền thống đang tỏ ra lúng túng trong việc xử lý cái mà
nhiều nhà nghiên cứu gọi là “cú sốc Internet”. Một nghiên cứu xã hội học
vào tháng 3-2005 của Hiệp hội báo in Hoa Kỳ ( NNA) đã cảnh báo về một
hiện tƣợng mà những nhà nghiên cứu gọi là “báo in ngày càng trở thành
một phƣơng tiện truyền thông lỗi thời và thất thế”. Cuộc điều tra đã cho

thấy trong những năm gần đây hầu hết các tờ báo lớn của Mỹ nhƣ New
York times, Washington Post, Los Angeles times đều đã phải giảm số
lƣợng phát hành. Mặt khác, số lƣợng những ngƣời đọc các báo này qua
mạng đã cao hơn hẳn số ngƣời đọc qua báo in . Chẳng hạn, New York
times có 12,8 triệu ngƣời đọc qua mạng so với 5 triệu đọc báo in,
Washington Post : 7,8 triệu ngƣời đọc qua mạng so với 1,8 triệu đọc báo
in, Los Angeles times : 4,3 triệu ngƣời đọc qua mạng so với 2,4 triệu đọc
báo in1.
Cũng theo một nghiên cứu của Viện Carnegie, Hoa Kỳ, giới trẻ
ngày nay hầu hết đều sử dụng Internet làm nguồn thu nhận thông tin chính
thức của họ, trong khi báo chi giấy và truyền hình ngày càng ít đƣợc sử
dụng. Có 44% số ngƣời đƣợc hỏi đã nói rằng họ thƣờng dùng các “new
portal” nhƣ Yahoo ít nhất một lần một ngày, 37% sử dụng truyền hình địa
phuơng, trong khi đó báo in là 19%2.
Tờ báo nổi tiếng của Mỹ là US New đã cho biết, trong khi báo in
của họ đã chịu những sự thua thiệt thảm hại thì báo điện tử của họ thì lại
phát triển tới mức bùng nổ. Nói về điều này, trang điện tử
1

2

Hoàng Minh. Báo Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Vietnamnet. ngày 7-11-2005
Theo Vietnamnet ngày 7-11-2005

7


“Washingtonian.com” nhận xét: “báo in của US New and World Report
chỉ còn mỏng đến mức nó chỉ giống nhƣ một tờ newsletter (một tờ bản tin)
hơn là một tờ báo”. Trƣớc thực trạng này, US New đã phải cho nghỉ việc

một số lƣợng lớn nhân viên và đầu tƣ hơn 2 triệu USD cho các phƣơng
tiện truyền thông mới và thuê thêm ngƣời điều hành các website. Họ cũng
đƣa ra một công thức hoạt động mới của tờ báo, đó là “đa phương tiện và
ít nhân viên” 1.
Tình hình cũng diễn ra tƣơng tự nhƣ trên đối với các tờ báo giấy tại
châu Âu. Trong những năm gần đây, số lƣợng các tờ báo in tại châu Âu đã
sụt giảm trông thấy. Trong bài phân tích nhan đề “Báo châu Âu đi về đâu”
trên một trang báo điện tử, các tác giả đã đƣa ra con số cho thấy, số lƣợng
phát hành báo in tại các nứoc EU đã giảm đi rõ rệt. Chẳng hạn từ năm
2000 đến năm 2005 tỷ lệ này đã giảm 5,26%. Chính điều này cũng đã dẫn
đên những cuộc tranh luận bất tận về cách thức sử dụng các phƣơng tiện
truyền thông trong tƣơng lai. Câu hỏi đƣợc thảo luận là, chúng ta nên tập
trung vào báo in, báo hình hay vào mạng và còn những phƣơng tiện thông
tin nào khác nữa.
Bruno Patino, với tƣ cách là giám đốc điều hành các dự án về hoạt
động trực tuyến và số hoá của tờ báo tiếng Pháp nổi tiêng Le Monde đã
cho rằng trong bối cảnh của toàn cầu hoá và truyền thông đa phƣơng tiện,
những ngƣời làm truyền thông đại chúng nên có sự phân công rõ ràng hơn
đối với việc sử dụng các phƣơng tiện thông tin. Chẳng hạn, báo in nên tập
trung vào những bài điều tra sâu, báo mạng sẽ tập trung vào những thông
tin nhanh và ngắn gọn, tức là vào các đối tƣợng có ít thời gian.
Tuy nhiên, thực tế cuối cùng cũng diễn ra theo chiều hƣớng không
quá bi quan. Cho đến nay không ít những ngƣời tham gia vào công tác
truyền thông đại chúng lại nhận ra một thực tế là, chỉ có những kẻ bám giữ
vào cách thức tƣ duy cũ mới bi quan về cái gọi là “sự khủng hoảng của

1

theo Washingtonian.com. trích lại từ Vietnamnet ngày 7-11-2005


8


báo in” hay “cú sốc của Internet” mà thôi. Những ngƣời hội nhập nhanh
chóng với “thông tin đa phƣơng tiện” đều cho rằng việc hƣớng tới và chấp
nhận “thông tin đã phƣơng tiện” sẽ là một bƣớc tiến mới của ngành truyền
thông.
Giáo sƣ Neil Henry, giảng viên khoa báo chí trƣờng Đại học
Berkeley, California, khi đƣợc hỏi về việc ông có lo lắng tới điều mà
ngƣời ta tiên đoán về cái chết của báo in hay không, đã viện dẫn về việc
trƣớc đây câu hỏi này đã đƣợc đặt ra khi xuất hiện thế giới phong phú và
đa dạng của thông tin truyền hình. Ông cho rằng, nếu trƣớc đây truyền
hình đã không giết chết đƣợc báo in thì ngày nay báo điện tử cũng khó mà
có thể làm đƣợc điều này. Ngƣời ta vẫn mong muốn đƣợc ngồi uống cà
phê cùng với một tờ báo bay lất phất hơn là với một chiếc máy vi tính, lại
càng không muốn mang chiếc máy tính này lên giuờng ngủ. Vậy vấn đề là
ở đâu, theo Neil Henry, chúng ta cần phải sửa mình để chung sống với
truyền thông đa phƣơng tiện, bởi chính truyền thông đa phƣơng tiện sẽ
mang lại cho truyền thông những sức mạnh mới.1
Nhận ra tính tất yếu của xu hƣớng truyền thông đa phƣơng tiện, giới
truyền thông toàn cầu đang cố gắng chuyển hƣớng đầu tƣ sang các
phƣơng tiện phong phú của truyền thông bên ngoài báo in, đặc biệt là đầu
tƣ cho các công nghệ truyền thông mới.
Chẳng hạn, tờ Washington Post ở Mỹ đó cú một loạt cỏc thử
nghiệm trờn báo điện tử của họ trong nhiều năm qua để thu hút thêm
lƣợng độc giả: “đƣa kết nối đến các blogs về một bài báo, cho phép ngƣời
đọc chat trực tuyến với tác giả một bài báo, cho phép các cộng tác viên
đăng các blog của mỡnh trờn trang chớnh để độc giả có thể đối thoại gần
nhƣ trực tiếp với từng cộng tác viên. Tác dụng của các sáng kiến này đối
với danh tiếng và sự chuyên nghiệp báo chí cũng nhƣ tính đáng tin cậy của

tin tức thỡ cũn phải bàn cói thờm, nhƣng rừ ràng những hoạt động trực

Xem. báo chí Mỹ.Cú sốc internet. Thời báo kinh tế Saigon. Ngày 20-10-2007.

1

9


tuyến này đó khiến cho ngƣời đọc cảm thấy gần gũi thân thiết hơn với tờ
báo điện tử, nhờ vậy thu hút đƣợc một lƣợng độc giả trung thành lớn” 1.
Sự việc cũng diễn ra tƣơng tự nhƣ vậy với tờ Wall Street Journal,
một trong những tờ báo có số lƣợng độc giả lớn nhất nƣớc Mỹ. Báo này
đang có những nỗ lực gắn kết báo điện tử với báo in. Báo điện tử của họ
đã ký thỏa thuận để đăng các “tít” quan trọng của cỏc tờ bỏo chõu Á và
chõu Âu trong mục “Across Asia” và “Across Europe”. Từ đó, ngƣời đọc
có thể sẽ đƣợc dắt đến link của các tờ báo này. Cũn cỏc mục tƣơng ứng
của tờ báo in thỡ đƣợc thu ngắn lại và có các “pointers” để chỉ đến các
web link. Thờm vào đó những ngƣời trả phí để đọc báo điện tử sẽ truy cập
vào đƣợc những phần truyền thông đa phƣơng tiện chỉ có trên mạng mà
không có trên báo giấy, đồng thời họ cũng có thể truy cập qua điện thoại
đa chức năng Blackberry và qua hệ thống phần mềm tổng hợp thụng tin
RSS.2
Thực tế trên đã cho thấy, sự chuyển hƣớng từ các phƣơng tiện
truyền thông truyền thống sang hệ thống truyền thông đa phƣơng tiện đã
không chỉ bao hàm ý nghĩa về một sự thay đổi hình thức chuyển tải thông
tin, mà còn quan trọng hơn, báo hiệu một cuộc cách mạng lớn về phong
cách làm báo. Bất kể một công ty truyền thông nào, nếu muốn thành công
thì đều phải nhận thức, đón đầu và phát triển sự chuyển biến này.
Truyền thông đa phƣơng tiện cũng thâm nhập vào chính hành vi

nghề nghiệp của các nhà truyền thông. Phƣơng tiện tối thiểu của ngƣời
làm báo bây giờ không còn chỉ là cây bút và chiếc máy ảnh đơn thuần, mà
còn là những chiếc máy tính có bộ nhớ siêu việt. Họ phải làm quen với rất
nhiều kỹ thuật và công nghệ truyền thông mới, các phƣơng tiện thu nhận
và truyền dẫn thông tin có khả năng truy cập và chuyển tải một khối lƣợng
thông tin đồ sộ trong một thời gian ngắn.

1

2

Báo in Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Hoàng Minh. Vietnamnet. Ngày7-11-2005
Báo in Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Hoàng Minh. Vietnamnet. Ngày7-11-2005

10


Phƣơng tiện và kỹ thuật truyền thông mới cũng thâm nhập vào hệ
thống biên tập của các cơ sở truyền thông, báo chí và xuất bản. Hệ thống
công nghệ mới xuất hiện cũng tạo điều kiện cho các biên tập viên có thể
dễ dàng thu thập, soạn thảo, lƣu giữ và quản lý các thông tin. Các biên tập
viên và phóng viên có thể ngồi trƣớc màn hình vi tính đƣợc nối mạng,
nhanh chóng chuyển tải thông tin, kiểm tra và thay đổi dữ liệu, kết nối
trực tiếp tới tổng biên tập cũng nhƣ tới bạn đọc. Nó cho phép các biên tập
viên có thể nhanh chóng điều chỉnh, thêm bớt hoặc cắt bỏ các thông tin
ngay tại bàn làm việc.
Truyền thông đa phƣơng tiện cũng đòi hỏi những vấn đề mới có liên
quan đến bộ khung pháp lý, những vấn đề về bản quyền thông tin, về việc
chuyển giao các dịch vụ truyền thông, về sự độc quyền và cạnh tranh
trong giữa các công ti, các tập đoàn, các nhóm xã hội và cá nhân tham gia

vào hoạt động truyền thông. Đây cũng chính là những xu hƣớng mới trong
hoạt động truyền thông.
2. Toàn cầu hoá và những vấn đề về truyền thông đa chiều
Truyền thông đại chúng theo cách nhìn trƣớc đây, dù có mở rộng
các phƣơng thức để tiếp cận với ngƣời nhận thông tin thông qua các
chuyên mục nhƣ “Hộp thƣ bạn đọc” hoặc “Ý kiến độc giả”, “Ý kiến bạn
xem truyền hình”...thì về cơ bản vẫn là phƣơng thức thông tin đơn chiều.
Điều đó có nghĩa là các thông điệp truyền thông sau khi đƣợc ghi nhận,
nhào nặn, sản xuất bởi những tập đoàn và công ty truyền thông sẽ đƣợc
truyền dẫn tới ngƣời nhận, tựa nhƣ những cơ sở sản xuất cung ứng sản
phẩm cho ngƣời tiêu dùng vậy.
Tính đơn chiều của thông tin tạo ra một mô hình truyền thông mà
trong đó chỉ có một chủ thể truyền thông duy nhất- đó là những ngƣời sản
xuất các thông điệp truyền thông và một khách thể của truyền thông duy
nhất- đó là những ngƣời tiếp nhận thông tin. Ngày nay mô hình này đã
hoàn toàn biến đổi.

11


Cuộc cách mạng về phƣơng tiện truyền thông trên thực tế đã tạo
dựng nên quanh ta một bầu khí quyển mới, khiến cho tất cả đều đƣợc bao
phủ bởi một quá trình tƣơng tác thông tin mà các nhà xã hội học gọi là
một không gian truyền thông đa chiều.
Truyền thông đa chiều đƣợc coi nhƣ một sự tƣơng thích với một xã
hội đa chiều, xã hội công dân, xã hội dân sự, trong đó mỗi thành viên dù
nhỏ yếu nhất cũng đều có thể đƣợc nói lên tiếng nói của mình, đóng góp ý
kiến của mình vào những vấn đề chung trong xã hội mà mình đang sống.
Mỗi công dân đều có thể xử lý và chuyển tải các nguồn thông tin theo
nhận thức riêng cả mình.Trong truyền thông đa chiều từ những nhà lãnh

đạo cao nhất đến những công dân bình dị nhất đều có thể đƣợc tiếp nhận,
xử lý và chuyển phát các thông điệp truyền thông.
Sự tƣơng tác thông tin trong không gian trực tuyến và đa tuyến
khiến cho mỗi cá nhân đều có thể tồn tại nhƣ một trạm tiếp nhận, xử lý,
nhận định, đánh giá và chuyển tải các thông điệp truyền thông. Điều đó đã
tạo ra một bộ mặt gắn kết liên tục và đa dạng của không gian truyền thông.
Cấu trúc của không gian truyền thông đa chiều này tạo nên một bề mặt lan
toả và tƣơng tác rộng lớn đƣợc gọi là chiều cộng cảm thông tin. Dƣ luận
của cộng đồng và của số đông sẽ là bộ lọc lớn nhất và trung thực nhất cho
nội dung các thông điệp truyền thông.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của báo điện tử trong thời gian qua
đã nhƣ một thế lực mới trong làng truyền thông. Nó không chỉ tạo ra một
sức sống mới cho hoạt động truyền thông đại chúng mà còn trở thành một
phƣơng tiện hữu hiệu cho sự phát triển của không gian truyền thông đa
chiều. Ƣu thế của báo điện tử là không thể bàn cãi khi nó tổng hợp đựoc
hầu nhƣ toàn bộ sức mạnh của công nghệ truyền thông mới, hội tụ đƣợc
tất cả những mặt ƣu điểm của nhiều loại nhiều truyền thông khác, không
chỉ chuyển tải văn bản, hình ảnh nhƣ báo giấy, mà cả âm thanh, video nhƣ
phát thanh, truyền hình.

12


Với báo điện tử, chúng ta cú thể truy cập thông tin bất kỳ lúc nào,
bất kỳ ở đâu miễn là có kết nối Internet. Nó cũng còn là một thƣ viện đúng
nghĩa, có khả năng lƣu giữ đƣợc các thông tin từ quá khứ, hiện tại và
đƣơng nhiên là trên cơ sở đó dự báo cả tƣơng lai. Ngƣời ta còn gọi báo
điện tử là báo giờ bởi khả năng cập nhật thông tin kịp thời của nó. Bên
cạnh khả năng khả năng truy xuất, lƣu giữ thông tin nhanh chóng, báo
điện tử còn tạo ra đƣợc khả năng tƣơng tác, phản hồi giữa độc giả với các

nhà sản xuất thông tin và cả với tòa soạn trong từng bài báo. Trong không
gian truyền thông đa chiều, nó còn có một ƣu thế mà không loại hình báo
chí nào có đƣợc, đó là tính trực tuyến. Thông qua tòa soạn, công chúng
trong nƣớc và quốc tế có thể đối thoại, giao lƣu trực tiếp với nhân vật mà
họ quan tâm, yêu mến và do vậy mà có tác động về mặt thông tin rất cao,
không chỉ trong nƣớc mà còn có ảnh hƣởng quốc tế
Trong một vài năm trở lại đây, một nhánh mới của lĩnh vực phát
hành thông tin điện tử đó xuất hiện và tạo nờn một cơn sốt mới trong
không gian truyền thông đa chiều. Đó chính là sự xuất hiện của website cá
nhân, tên gọi weblog hay blog. Sự xuất hiện của cac Blog cá nhân đã tạo
ra một diện mạo hoàn toàn mới cho không gian truyền thông đa chiều
Mặc dù về bản chất, blog cá nhân chỉ là những nhật ký trực tuyến
hay kờnh phỏt ngụn của cỏ nhõn nhƣng tầm ảnh hƣởng của nó trờn thực tế
đã lớn hơn rất nhiều so với ý tƣởng ban đầu của những ngƣời sáng tạo ra
nó. Thực tế cho thấy, với độ cập nhật thông tin nhanh và khả năng nhận
định, bình luận sắc sảo, nhiều Weblog đó nhanh chúng chiếm đƣợc cảm
tình của độc giả và thậm chí còn trở nên nổi tiếng hơn cả nhiều tờ báo điện
tử chính thống.
Ở một chừng mực nào đó, weblog cũng đó khẳng định vai trũ cỏch
mạng của nú trong tiến trỡnh phỏt triển của truyền thông đại chúng nói
chung và báo chí điện tử núi riêng. Hiện nay trên thế giới, thậm chí nhiều
weblog đó đƣợc các báo điện tử liên kết để vào nhƣ một phần nội dung

13


của họ. Một số tác giả weblog còn đƣợc mời về làm cho những hãng thông
tấn lớn.
Xu hƣớng trên không chỉ cho thấy sự nhạy bén của độc giả trẻ tuổi
trƣớc những ƣu thế của báo điện tử mà còn sâu xa hơn, phản ánh những

nhu cầu mới của các độc giả ở thời đại kỹ thuật số, muốn có thể truy cập
tin bất cứ lúc nào họ cần, muốn đƣợc “cá nhân hóa” tin tức mà họ đọc và
bỡnh luận và biểu đạt ý tƣởng ngay sau khi đọc xong và làm rõ đƣợc
những giả định và thiên vị của tác giả khi thông báo về một sự kiện nào
đó. Có thể núi độc giả ngày nay đang có xu hƣớng truy cập thông tin từ
các blog và các mục bình luận của cộng tác viên báo chí hơn là chỉ đọc tin
tức thuần túy từ các hãng truyền thông chính thống.
Để tăng cƣờng tính đa chiều trong thông tin, theo kinh nghiệm mà
tờ Washington Post đƣa ra thì “truyền thông cũng phải chuyển sang lắng
nghe nhiều hơn, văn phong cũng khụng thể dài dũng văn tự và mang tính
trịch thượng như báo chí truyền thống nữa. Nó cũng phải mang tính đối
thoại cao, trực tiếp hướng đến độc giả. Các mệnh đề đưa ra mang phải
tính giả định và dành chỗ cho phản biện của độc giả, chứ không cứng
nhắc “sách giáo khoa” như báo chí truyền thống”1.
Từ năm 2004 một trong những nhân vật nổi tiếng trong làng truyền
thông đã khai sinh ra mạng Facebook, bùng nổ vào năm 2007, trở thành
một mạng xã hội “hot” nhất thế giới. Với 69 triệu ngƣời tham gia,
Facebook trở thành một không gian ảo đƣợc đông đảo ngƣời tham gia nhất
thế giới. Chính Mark Zuckerberg khi nói về tính đa chiều của truyền thông
đã cho rằng với 69 triệu ngƣời tham gia vào mạng của mình, lúc nào ông
cũng có một số lƣợng phóng viên và biên tập viên cho Facebook là 69
triệu ngƣời. Tháng 10-2007, Microsoft đầu tƣ 240 triệu USD để sở hữu
1,6% cổ phần của Facebook. Giá trị của trang mạng xã hội này đó tăng lên
đến 15 tỉ USD.

1

Hoang Minh. Vietnamnet. sđd

14



Trong xu hƣớng truyền thông đa chiều, các hãng thông tấn cũng
đang tìm cách thay đổi phƣơng thức tác nghiệp, mang lại các sản phẩm
thông tin sinh động hơn để có thể đáp ứng những thay đổi về nhu cầu
thông tin của khách hàng. Đó là nhận định chung của các diễn giả và
nhiều đại biểu tại phiên thảo luận cuối cùng trong khuôn khổ Đại hội lần
thứ 2 các hãng thông tấn toàn thế giới diễn ra từ ngày 24 đến 27/10/2007
tại Estepona, Tây Ban Nha. Những ngƣời tham dự cũng cho rằng với sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, ngày nay báo in hay truyền
hình truyền thống đã không còn nắm vị trí độc tôn vốn đƣợc hƣởng trong
nhiều thập kỷ qua. Vì vậy, các hãng thông tấn cần phải tạo ra các sản
phẩm tích hợp cả văn bản, hình ảnh tĩnh và các đoạn băng hình minh hoạ
để đáp ứng nhu cầu của ngƣời sử dụng dịch vụ thông tin là các thuê bao di
động, các weblog. Để làm đƣợc điều này, các hãng phải đổi mới phƣơng
thức tác nghiệp ngay từ trụ sở của mình.
Cũng trong đại hội này, một khái niệm mới đã đƣợc hình thành mà
tiếng Tây ban Nha gọi là netizen-journalist, (nhà báo - cƣ dân mạng) để
chỉ những ngƣời tham gia vào mạng không chỉ để đọc tin mà còn viết
nhận xét và bình luận trên mạng. Trong bài diễn văn bế mạc đại hội, Chủ
tịch Thƣợng viện Tây Ban Nha Javier Rojo đã phải lên tiếng kờu gọi cỏc
hóng thụng tấn hóy thực sự trở thành “tai, mắt” của ngƣời sử dụng thông
tin trong bối cảnh thông tin miễn phí trên mạng Internet do các nhà báo-cƣ
dân mạng (netizen-journalist) phát tán. Những thông tin này thƣờng không
đƣợc kiểm chứng về tính chính xác cũng nhƣ không thể hiện trách nhiệm
xó hội của ngƣời đăng tải thông tin1.
Cũng trong xu hƣớng truyền thông đa chiều, Ngày 31/1/2008, 3
công ty xuất bản báo chí lớn của Nhật Bản là Nikkei Inc., Asahi Shimbun
Co. và Yomiuri Shimbun Holdings khai trƣơng một website đặc biệt, cho
phép ngƣời sử dụng so sánh, bình luận và đóng góp ý kiến về các tin tức

Thông tấn xã Việt Nam. ngày 27-10-2007. Bản tin về Đại hội lần thứ 2 các hãng thông tấn toàn thế
giới.
1

15


của họ. Khi truy cập trang web có tên là Aratanisu này, ngƣời sử dụng có
thể tự rút ra những ý kiến riêng của mình khi so sánh các tin trên trang
nhất, tin thời sự tổng hợp và các bài bình luận của ba tờ báo1.
Theo các nhà phân tích, truyền thông đa chiều còn đƣợc mở rộng
với sự xuất hiện của hiện tƣợng mà các nhà truyền thông gọi là “truyền
thông di động”. Hiện nay, với sự phát triển không ngừng của điện thoại di
động, mà theo ƣớc tính đến năm 2010 sẽ có 3 tỉ ngƣời khắp thế giới dự
kiến đƣợc trang bị, điện thoại di động đang tỏ ra là một loại hình truyền
thông đầy triển vọng. Ngày càng có nhiều tờ báo tạo ra thu nhập từ
mobile. Năm 2007, DallasNews của Mỹ thu nhập 500.000 USD từ việc
độc giả truy cập tin tức qua điện thoại di động, trong khi Aftonbladet của
Thụy Điển thu nhập 600.000 euro. Từ 2002-2006, Asahi Shimbun của
Nhật Bản đó bỏn hơn 1 triệu đăng ký cho tin tức thể thao, 21.000 đăng ký
đọc báo qua điện thoại di động. Điện thoại di động còn trở thành một công
cụ hành nghề đắc lực cho những “nhà báo-công dân mạng”. Với điện thoại
di động, mọi ngƣời đều có thể vừa nhận tin vừa chuyển tin cho các hãng
truyền thông. Với chiếc điện thoại di động của mình, bất cứ một công dân
nào cũng có thể ghi lại tức thì những sự kiện xảy ra ngay tại nơi mình
chứng kiến, thay cho một nhà báo chuyên nghiệp nếu muốn tác nghiệp thì
phải mất khá nhiều thời gian và công sức để đến từ nơi khác.
Thông tin đa chiều một mặt đã nói lên những sự tiến bộ trong các
hoạt động truyền thông. Đó là sự mở rộng không gian truyền thông cả về
chiều rộng, chiều sâu và chiều cộng cảm giữa các chủ thể và khách thể

truyền thông. Nó vừa là một công cụ đắc lực cho quá trình toàn cầu hoá,
vừa là chất súc tác cho những tƣơng tác chính trị, kinh tế xã hội giữa các
quốc gia, dân tộc và các khu vực. Thông tin đa chiều cũng tạo nên một
bầu không khí mới trong quan hệ xã hội của con ngƣời với con ngƣời, tạo
điều kiện để con ngƣời ở nhiều khu vực địa lý khác nhau có thể hiểu biết,

1

Japan Times, Yomiuri Shimbun

16


cảm thông, chia sẻ những nhu cầu và thách thức chung. Sự phát triển của
thông tin đa chiều, đặc biệt là những truyền thông trực tuyến và đa tuyến
cũng tạo điều kiện để mở rộng quá trình dân chủ trong xã hội nói chung và
trong hệ thống chuyển tải và tiếp nhận thông tin nói riêng.
Tuy nhiên truyền thông đa chiều cũng đặt ra một loạt thách thức đối
với chính quá trình toàn cầu hoá, với xã hội cũng nhƣ với chính hệ thống
truyền thông. Ranh giới từ tính đa chiều của truyền thông hiện đại đến sự
nhiễu loạn thông tin dƣờng nhƣ chỉ có một khoảng cách rât nhỏ nhoi. Việc
mọi “cƣ dân trên mạng” đều có thể tham gia vào quá trình sáng tạo, làm
thay đổi và chuyển tải các thông điệp khiến cho ngƣời nhận khó phân biệt
và xử lý đƣợc một cách chính xác những vấn đề của thực tiễn. Hình ảnh
thế giới truyền thông giống nhƣ một khu chợ hỗn loạn những kẻ mua,
ngƣời bán, những “chính nhân quân tử” bên cạnh những “kẻ cắp bà già”,
sống chen nhau trong một bầu không khí đầy những tin đồn thật giả lẫn
lộn, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu phác hoạ một cách đầy lo ngại.
Truyền thông đa chiều cũng đặt ra những thách thức mới trong việc
kiểm soát thông tin, nhằm ngăn chặn bầu không khí vẩn đục, thậm trí ác

độc của không gian truyền thông. Truyền thông đa chiều cũng không thể
trở thành một diễn đàn để cái xấu xa lấn át cái tốt đẹp, thành nơi để con
ngƣời bới móc, vu cáo lẫn nhau, cũng không thể trở thành một khu vực
con ngƣời phải tiếp cận với những giá trị thấp kém, những sản phẩm văn
hoá phi nhân bản với con ngƣời.
Về phƣơng diện này, để chống lại những khía cạnh tiêu cực của
truyền thông đa chiều, nhiều nƣớc trên thế giới đã quan tâm tới việc xây
dựng và điều chỉnh những quy chuẩn luật pháp trong truyền thông, đặc
biệt là xử lý những mặt tiêu cực trong truyền thông trên mạng. Quan điểm
và chính sách về phát triển truyền thông đại chúng của các nƣớc có hệ
thống truyền thông mạnh chắc chắn sẽ là những bài học kinh nghiệm bổ
ích đôi với nƣớc ta.

17


Tài liệu tham khảo
1. Claudia Mast (2006) Truyền thông đại chúng. Những kiến thức cơ bản. Nhà xuất
bản Thông tin, Hà Nội
2. Dƣơng Xuân Sơn (1996) Báo chí nƣớc ngoài. NXB Văn hoá thông tin Hà Nội
3. Hoàng Minh (2005) Báo Mỹ khủng hoảng, báo điện tử lên ngôi. Vietnamnet. ngày
7-11-2005
4. Thời báo kinh tế Saigon. Ngày 20-10-2007 : Báo chí Mỹ - Cú sốc internet
5. Thông tấn xã Việt Nam. ngày 27-10-2007. Bản tin về Đại hội lần thứ 2 các hãng
thông tấn toàn thế giới.

18


TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TIẾP CẬN PHƢƠNG TIỆN THÔNG

TIN ĐẠI CHÖNG VÀ NHU CẦU CÔNG CHÖNG HIỆN NAY
(So sánh trường hợp Đồng bằng Sông Cửu Long với khu vực Tây Bắc)

TS. Lưu Hồng Minh

I. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, truyền thông đại chúng ở Việt Nam
ngày càng phát triển. Nếu nhƣ trƣớc đây chúng ta chỉ có báo in của các cơ
quan Trung ƣơng (TW) và duy nhất một đài phát thanh và truyền hình của
Việt Nam, thì ngày nay tất cả các tỉnh thành đã có các báo, đài phát thanh
và truyền hình với những chƣơng trình riêng. Tuy nhiên, sự phát triển còn
có sự khác biệt ở nhiều ngành, nhiều địa phƣơng do những yếu tố khách
quan và chủ quan khác nhau. Cùng với sự phát triển của truyền hình qua
vệ tinh và internet nhiều ngƣời dân tại các vùng xa xôi hẻo lánh cũng có
thể tiếp cận với không chỉ các sản phẩm của Truyền thông đại chúng
(TTĐC) trong nƣớc mà còn với các sản phẩm của TTĐC nƣớc ngoài.
Từ kết quả nghiên cứu “Sự tiếp cận các phƣơng tiện thông tin đại
chúng của ngƣời dân vùng Tây Bắc” cũng nhƣ một số nghiên cứu khác
liên quan cho thấy tỷ lệ ngƣời dân đƣợc tiếp cận các phƣơng tiện thông tin
đại chúng ngày càng tăng. Tuy nhiên những câu hỏi nghiên cứu đặt ra là:
vì sao nhiều ngƣời tiếp cận với các phƣơng tiện thông tin đại chúng, tập
trung trong một số loại hình mà họ ƣa thích, thực trạng và nhu cầu tiếp cận
của họ nhƣ thế nào, các phƣơng tiện thông tin đại chúng cần đổi mới nhƣ
thế nào để thu hút công chúng? đào tạo cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng cần thay đổi nội dung và phƣơng pháp giảng dạy
nhƣ thế nào để đáp ứng nhu cầu đổi mới truyền thông đại chúng hiện
nay…
19



Nghiên cứu này đƣợc thực hiện với sự hỗ trợ của Viện Friedrich
Ebert (FES) tại Hà nội trong khuôn khổ sự hợp tác giữa Học viện Báo chí
Tuyên truyền và viện FES. Bên cạnh việc khảo sát thực trạng tiếp cận các
phƣơng tiện thông tin đại chúng nói chung, nghiên cứu này còn tập trung
vào việc tìm hiểu nhu cầu của ngƣời dân đối với các chƣơng trình phát
thanh trung ƣơng và địa phƣơng tại một tỉnh nơi mà đƣợc đánh giá là có
sự cạnh tranh cao của các cơ quan truyền thông đại chúng (tỉnh Đồng
Tháp). Kết quả nghiên cứu của đề tài không chỉ là tài liệu quan trọng phục
vụ cho việc đào tạo và nghiên cứu về TTĐC. Hơn thế nữa, các kết quả
nghiên cứu còn có thể đƣợc cung cấp cho các cơ quan TTĐC của TW và
địa phƣơng nhằm giúp họ có cơ sở để xây dựng lại về mặt hình thức cũng
nhƣ nội dung các chƣơng trình phù hợp với nhu cầu của ngƣời dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về thái độ, hành vi và nhu cầu của ngƣời dân đối với
các ấn phẩm của TTĐC là một trong những nội dung đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu TTĐC và xã hội học nghiên cứu.
Năm 1910 M.Weber đã đƣa ra bộ môn xã hội học báo chí có nhiệm
vụ nghiên cứu:
+ Sự phục vụ Báo chí cho các tập đoàn, các tầng lớp xã hội khác
nhau.
+ Phân tích các yêu cầu của xã hội đối với nhà báo.
+ Tìm hiểu các phƣơng pháp phân tích báo chí.
+ Phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con ngƣời.
Trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai Lasswell và Hobland
đã có nhiều nghiên cứu về TTĐC, đặc biệt là về hiệu quả của chúng. Các
ông đã tiến hành nghiên cứu hiệu quả của mô hình truyền thông 1 chiều,
nghiên cứu uy tín của nguồn tin, thái độ tuyên truyền ảnh hƣởng nhƣ thế
nào đến hiệu quả truyền tin. Theo Hobland TTĐC là công cụ để duy trì
đảm bảo trật tự xã hội.


20


T. Parsons (1902-1979) nhà xã hội học ngƣời Mỹ đã đề cao vai trò
của thông tin. Theo ông, thông tin là quá trình cơ bản trong hệ thống xã
hội, vì vậy khi nghiên cứu về thông tin cần đặt nó trong sự vận hành của
hệ thống xã hội.
Theo A. Toffler làn sóng thứ ba đang tạo ra một thời đại mới, thời
đại của thông tin phi đại chúng hoá. Công chúng hiện nay không chỉ có
một nguồn thông tin mà họ có nhiều nguồn thông tin đa dạng. Do vậy họ
có thể chọn lựa thông tin nào phù hợp với chính bản thân mình. Chính
việc thay đổi môi trƣờng dẫn đến những thông tin xung quanh chúng ta
cũng thay đổi.
Trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu về sự tác động của
truyền hình đối với dân chúng. Ở Anh vào đầu những năm 50 của thế kỷ
trƣớc, ngƣời ta bắt đầu nghiên cứu khán giả truyền hình. ITV-hãng truyền
hình thƣơng mại của Anh đã đo lƣờng khán giả truyền hình bằng thiết bị
đo lƣờng gắn với tivi của 2000 hộ. Vào những năm 60, tại Pháp đã có
nhiều nghiên cứu về số lƣợng khán giả truyền hình và sự yêu thích của họ
đối với các chƣơng trình truyền hình. Sau những năm 60 các phƣơng pháp
nghiên cứu về khán giả truyền hình ngày càng đƣợc hoàn thiện, nhiều đề
tài nghiên cứu về công chúng của TTĐC theo các phƣơng pháp định
lƣợng và cả định tính. Ngƣời ta đã sản xuất đƣợc thiết bị hiện đại gắn vào
các tivi để đo lƣờng hành vi của ngƣời sử dụng chuyển về trung tâm xử lý
và thông báo kết quả này hàng ngày cho các đài truyền hình.
Trong những năm qua TTĐC ở Việt Nam phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ nên nhu cầu nghiên cứu về công chúng của TTĐC nhằm nâng
cao hiệu quả truyền thông là rất cần thiết và có giá trị. Thực tế nƣớc ta,
những công trình nghiên cứu hay những đề tài khoa học nghiên cứu về hệ

thống TTĐC từ hƣớng tiếp cận của xã hội học báo chí còn chƣa nhiều.
Những năm 90, một số cơ quan báo chí và viện Xã hội học đã tiến hành
một số nghiên cứu với qui nhỏ.

21


Năm 1999, trung tâm Nghiên cứu Dƣ luận xã hội, Ban Tƣ tƣởngVăn hoá Trung ƣơng đã tiến hành cuộc điều tra “Về định hướng xem
truyền hình” ở Việt Nam tại 24 tỉnh thành trong cả nƣớc với 3475 phiếu
điều tra cá nhân. Cuộc điều tra này tập trung tìm hiểu hành vi xem truyền
hình của công chúng nhằm phục vụ trực tiếp một số yêu cầu cải tiến chất
lƣợng nội dung chƣơng trình và kỹ thuật của đài truyền hình Việt Nam.
Đến năm 2002 Trung tâm lại tiến hành một cuộc điều tra “Thăm dò dư
luận khán giả đài truyền hình Việt Nam” tại 19 tỉnh với số phiếu 2920.
Cuộc điều tra này cung cấp nhiều số liệu cơ bản về nhu cầu, thị hiếu, định
hƣớng và thói quen xem truyền hình của các tầng lớp nhân dân. Đánh giá
ƣu điểm cũng nhƣ hạn chế của các chƣơng trình truyền hình, thái độ của
khán giả đối với các chƣơng trình truyền hình. Từ đó nêu một số kiến nghị
đối với đài truyền hình Việt Nam.
Năm 2001, Trung tâm Đào tạo Phát thanh-Truyền hình thuộc đài
truyền hình Việt Nam đã thực hiện: “Nghiên cứu khán giả truyền hình Việt
Nam” tại 5 tỉnh với 2004 phiếu. Đề tài đã đƣa ra mức độ xem truyền hình
của các nhóm công chúng phân theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp… đối
với các chƣơng trình và chuyên mục của đài truyền hình Việt Nam và các
đài truyền hình địa phƣơng Hà Nội, Bình Dƣơng.
Năm 2001 Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban Tƣ tƣởng Văn hoá TW
đã tiến hành điều tra trên 30 tỉnh, thành phố với 2615 ngƣời trả lời. Kết
quả nghiờn cứu đã mô tả đƣợc các nhóm công chúng của Đài, xác định
đƣợc những lý do thính giả không nghe đài, đánh giá về chất lƣợng phát
sóng, nguyện vọng và đề xuất của thính giả... Đến năm 2005 Đài Tiếng

nói Việt Nam tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: “Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra thính giả của Đài Tiếng nói Việt
Nam”. Đề tài này đã tổng kết công tác điều tra thính giả của Đài từ năm
1989 đến năm 2005 đồng thời tiến hành điều tra 1468 thính giả nhằm xác
định nhóm thính giả của chƣơng trình Hệ Thời sự Chính trị tổng hợp và

22


nhiều nội dung dung tƣơng tự đề tài trên để từ đó đƣa ra những thông tin
giúp Đài cải tiến và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình.
Trong những năm qua các luận án tiến sĩ ở Việt Nam chủ yếu là
nghiờn cứu công chúng của các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Năm
2002, Trần Hữu Quang đã tiến hành bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài:
“Truyền thông đại chúng và công chúng-nghiên cứu trường hợp thành phố
Hồ Chí Minh”. Luận án đã mô tả về mô thức tiếp nhận thông tin từ TTĐC
của công chúng thành phố Hồ Chí Minh dựa trên trục nội dung thông tin
tiếp nhận.
Năm 2008, Trần Bảo Khánh đã tiến hành bảo vệ luận án tiến sĩ về
đề tài: “Đặc điểm công chúng truyền hình Việt Nam giai đoạn hiện nay”.
Luận án đã mô tả các đặc điểm của công chúng truyền hình Việt Nam năm
2005, đƣa ra một số dự báo về sự thay đổi đặc điểm của công chúng trong
thời gian tới. Đồng thời, luận án đƣa ra các đề xuất có tính khả thi để điều
chỉnh chiến lƣợc phát triển của truyền hình Việt Nam nhằm thích ứng với
đặc điểm của công chúng và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình phù hợp
với các đòi hỏi của xã hội.
Cũng trong năm 2008 Trần Bá Dung đã bảo vệ luận án tiến sĩ với đề
tài: “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội”. Luận
án mô tả nhu cầu và mô thức tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng
Hà Nội, đồng thời chỉ ra những nhân tố tác động, ảnh hƣởng đến những

nhu cầu tiếp nhận này.. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu luận án dự báo một
số xu hƣớng vận động của nhu cầu và đƣa ra các giải pháp nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả hoạt động báo chí.
Năm 2004, Khoa Xã hội học Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và nhu cầu tiếp cận TTĐC của
sinh viên Hà Nội” tại 5 trƣờng đại học ở Hà Nội với 200 sinh viên. Đây là
một đề tài nghiên cứu với qui mô nhỏ kết hợp định tính và định lƣợng để
tìm hiểu về hành vi của sinh viên đối với các ấn phẩm và các chƣơng trình
trên phƣơng tiện TTĐC. Đề tài đã tổng hợp đƣợc những mong muốn của
23


sinh viên xem các kênh truyền hình, nội dung và các chƣơng trình truyền
hình cụ thể. Số liệu của đề tài để phục vụ lớp bồi dƣỡng của Hội Nhà báo
cho các phóng viên viết về thanh niên.
Năm 2006 Khoa tiếp tục triển khai đề tài “Sự tiếp cận với các
phƣơng tiện thông tin đại chúng của ngƣời dân vùng Tây Bắc” đề tài đã
nghiên cứu khá toàn diện về thái độ, hành vi, nhu cầu và đánh giá một
phần về hiệu quả truyền thông của 4 loại phƣơng tiện thông tin đại chúng:
truyền hình, phát thanh, báo in và Internet từ phía nghiên cứu công chúng.
Đề tài đã nghiên cứu tại 6 xã phƣờng thuộc tỉnh Lao Cai và Yên Bái.
Ngoài các đề tài nghiên cứu về công chúng nêu trên Khoa Xó hội
học còn đánh giá hiệu quả truyền thông của báo in, Internet bằng phƣơng
pháp phân tích nội dung các bài báo của nhiều tờ báo in và báo mạng về
nhiều chủ đề nhƣ: dân số và phát triển, HIV/AIDS, tính dục, đồng tính, bất
bình đẳng giới, dân tộc thiểu số...
Bên cạnh các đề tài nghiên cứu có tính hàn lâm đã nêu trên nhiều
công ty, doanh nghiệp, dự án thuộc các lĩnh vực truyền thông, quảng cáo,
nghiên cứu thị trƣờng... đã tiến hành nhiều cuộc điều tra có liên quan đến
công chúng các phƣơng tiện thông tin đại chúng.

Tóm lại, các đề tài nghiên cứu đã nêu trên do nhiều cơ quan tiến
hành phạm vi nghiên cứu hẹp, không thƣờng xuyên và còn nhiều hạn chế.
Chính vì vậy, cuộc điều tra: “Thực trạng tiếp cận các phương tiện thông tin
đại chúng của người dân và nhu cầu đối với đài phát thanh” qua nghiên cứu

tại tỉnh Đồng Tháp là hết sức cần thiết trƣớc hết để bổ sung cho các nguồn
số liệu còn thiếu của các đề tài nghiên cứu trƣớc đây, đồng thời giúp sinh
viên và giảng viên của Học viện BC & TT thực hành một đề tài có qui mô
khá lớn và có nhiều số liệu phục vụ công tác giảng dạy, bồi dƣỡng đối với
phóng viên báo phát thanh.
3. Mục đích của đề tài
a) Khảo sát thực trạng tiếp cận với các phƣơng tiện TTĐC (Báo in,
phát thanh, truyền hình, Internet) của ngƣời dân tỉnh Đồng Tháp.
24


b) Tìm hiểu nhu cầu của ngƣời dân tỉnh Đồng Tháp đối với các
chƣơng trình của đài phát thanh và các phƣơng tiện thông tin đại
chung khác.
c) Đề xuất khuyến nghị nhằm thay đổi về mặt hình thức, nội dung
cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm của các chƣơng trình
phát thanh nói riêng và truyền thông đại chúng nói chung tại tỉnh
Đồng Tháp và Trung ƣơng.
4. Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Thời gian thu thập thông tin tháng 9/2008 tại 2 phƣờng và 3 xã của tỉnh
Đồng Tháp:
o

Phƣờng Tân Quy Đông thị xã Sa Đéc


o

Phƣờng 4 thành phố Cao Lãnh

o

Xã An Phong huyện Thanh Bình

o

Xã An Bình A huyện Hồng Ngự

o

Xã Phú Điền, huyện Tháp Mƣời

Tại mỗi xã/phƣờng điều tra bằng bảng hỏi định lƣợng 100 ngƣời từ
16 tuổi trở lên đồng thời tổ chức 2 cuộc thảo luận nhóm: 1 thảo luận nhóm
dành cho những ngƣời thƣờng xuyên nghe đài và 1 thảo luận nhóm dành
cho những ngƣời không nghe đài. Các xã/phƣờng đƣợc lựa chọn đại diện
cho tỉnh Đồng Tháp và cho các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có
điều kiện thuận lợi để tiếp cận với TTĐC. Tại mỗi xã/phƣờng dựa trên
danh sách các cá nhân trong từng hộ gia đình chọn ngẫu nhiên hệ thống
cho đủ 100 cá nhân và mỗi ngƣời chỉ thuộc vào 1 hộ gia đình.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Cuộc điều tra định lƣợng đã tiến hành phỏng vấn theo bảng hỏi đối
với 500 ngƣời tại 5 xã, phƣờng thuộc tỉnh Đồng Tháp. Kết quả sự phân bố
mẫu điều tra đƣợc trình bày trong bảng 1.

25



×