Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Pháp luật việc làm và thực trạng giải quyết việc làm tại tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 122 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V VN PHO

PHáP LUậT VIệC LàM Và THựC TRạNG
GIảI QUYếT VIệC LàM TạI TỉNH THáI BìNH

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V VN PHO

PHáP LUậT VIệC LàM Và THựC TRạNG
GIảI QUYếT VIệC LàM TạI TỉNH THáI BìNH
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. PHM TRNG NGHA

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Văn Pho


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ........................ 7
1.1.

Khái niệm việc làm và giải quyết việc làm ........................................ 7

1.1.1. Quan niệm về việc làm .......................................................................... 7
1.1.2. Phân loại việc làm ............................................................................... 17

1.1.3. Ý nghĩa của việc làm và giải quyết việc làm ...................................... 19
1.2.

Sự điều chỉnh của pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm ........ 20

1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm .......20
1.2.2. Quá trình phát triển của các quy định pháp luật về việc làm ở nước ta .......23
1.2.3. Nội dung pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm .......................... 28
1.3.

Pháp luật của một số nước về việc làm và giải quyết việc làm
và những gợi mở cho Việt Nam ....................................................... 42

1.3.1. Tổ chức lao động quốc tế .................................................................... 42
1.3.2. Pháp luật của một số quốc gia ............................................................. 44
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM VÀ THỰC
TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TẠI TỈNH THÁI BÌNH ................46
2.1.

Thực trạng các quy định pháp luật về việc làm và giải quyết
việc làm ............................................................................................... 46

2.2.

Thực tiễn giải quyết việc làm tại tỉnh Thái Bình............................ 51


2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, dân số, lao động
của tỉnh Thái Bình ............................................................................... 51
2.2.2. Thực trạng giải quyết việc làm tại tỉnh Thái Bình .............................. 59

2.3.

Một số nhận xét về tình hình việc làm và giải quyết việc làm ở
tỉnh Thái Bình .................................................................................... 76

2.3.1. Những thuận lợi về tình hình việc làm và giải quyết việc làm ở
tỉnh Thái Bình ..................................................................................... 76
2.3.2. Những khó khăn về tình hình việc làm và giải quyết việc làm ở
tỉnh Thái Bình ..................................................................................... 79
2.3.3. Nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc về tình hình việc
làm và giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình ....................................... 80
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM TỪ THỰC TIẾN TẠI TỈNH THÁI BÌNH .......82
3.1.

Những yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật việc làm và giải quyết việc làm ....................................... 82

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm phải đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ......................... 82
3.1.2. Xuất phát từ thực trạng pháp luật về việc làm của Việt Nam ............. 83
3.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
việc làm và giải quyết việc làm tại tỉnh Thái Bình ......................... 83

3.2.1. Xây dựng, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái
Bình gắn với giải quyết việc làm ........................................................ 84
3.2.2. Đẩy mạnh triển khai và thực hiện tốt các biện pháp trực tiếp hỗ

trợ giải quyết việc làm......................................................................... 87
3.2.3. Thực hiện tốt các vấn đề về dân số kế hoạch hóa gia đình ................. 93
3.2.4. Tăng cường phối hợp, tổ chức thực hiện công tác giải quyết việc
làm giữa các cấp .................................................................................. 94
3.2.5. Hoàn thiện các thể chế, chính sách có liên quan................................. 96


3.3.

Một số kiến nghị cụ thể từ thực tiễn giải quyết việc làm tại
tỉnh Thái Bình .................................................................................... 96

3.3.1. Về quy định pháp luật ......................................................................... 96
3.3.2. Về tổ chức thực hiện ........................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 104


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐND:

Hội đồng nhân dân

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế

UBND:


Ủy ban nhân dân

International Labour Organization


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất tính đến 31/12/2014 phân theo loại
đất và phân theo huyện/thành phố thuộc tỉnh
Bảng 2.2. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2014 phân theo
huyện/thành phố thuộc tỉnh
Bảng 2.3. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính
và phân theo thành thị, nông thôn
Bảng 2.4. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính
và phân theo thành thị, nông thôn
Bảng 2.5. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo loại hình kinh tế
Bảng 2.6. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo loại hình kinh tế
Bảng 2.7. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo loại hình kinh tế
Bảng 2.8. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo thành thị, nông thôn
Bảng 2.9. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm
1/7 hàng năm phân theo thành thị, nông thôn
Bảng 2.10. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời
điểm 1/7 hàng năm trong nền kinh tế đã qua đào tạo phân
theo giới tính, thành thị, nông thôn
Bảng 2.11. Tỷ lệ thất nghiệp phân theo giới tính, thành thị, nông thôn

Bảng 2.12. Giá trị sản xuất theo giá hiện hành phân theo khu vực
kinh tế
Bảng 2.13. Giá trị sản xuất theo giá hiện hành phân theo khu vực
kinh tế
Bảng 2.14. Số trường, số giáo viên trung cấp chuyên nghiệp
Bảng 2.15. Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp
Bảng 2.16. Số trường, số giáo viên cao đẳng
Bảng 2.17. Số sinh viên cao đẳng
Bảng 2.18. Số trường, số giảng viên đại học
Bảng 2.19. Số sinh viên đại học
.

Trang
104
104
105
105
106
106
106
107
107

107
108
108
108
109
110
111

112
113
114


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu là mối
quan tâm của hầu hết các quốc gia, có tác động không chỉ đối với sự phát
triển của nền kinh tế mà còn đối với đời sống xã hội, nó phản ánh thực
trạng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Tăng việc làm, giảm tỷ lệ
thất nghiệp là một trong những biện pháp tốt nhất để từng bước ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân. Giải quyết việc làm ở các nước đang phát
triển đặc biệt là ở những nước có lực lượng lao động lớn như Việt Nam
đang ngày càng trở thành vấn đề cấp bách, nếu không giải quyết nó sẽ là
yếu tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế và là nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa
nhất gây ra những tiêu cực về mặt xã hội. Đối với nước ta, giải quyết việc
làm còn là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động
đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nội lực con người.
Luật Việc làm được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 16 tháng 11 năm 2013, đó là cơ
sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực
việc làm của người lao động không chỉ trên phạm vi cả nước mà còn cụ thể
đến từng địa phương.
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, miền
Bắc Việt Nam với diện tích đất tự nhiên là 1.570,79km2, dân số năm 2014 là
1.788.700 người, mật độ dân số là 1.139 người/km2, tỷ lệ dân cư ở khu vực
nông thôn vẫn chiếm đa số là 89,99%, trong đó tỷ lệ dân cư ở khu vực đô thị
chỉ chiếm 10,01% [2, tr.21 - 22]. Trong điều kiện một tỉnh nền sản xuất nông

nghiệp là chủ yếu, nguồn lực tăng nhanh qua các năm, chưa được sử dụng hết

1


là một sức ép rất lớn về việc làm, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội trong
toàn tỉnh. Do vậy giải quyết việc làm là một yêu cầu cấp thiết không thể thiếu
được trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vấn đề tạo việc làm
đang là sự bức xúc nóng bỏng của tỉnh, chính vì lẽ đó tác giả xin chọn đề tài:
“Pháp luật việc làm và thực trạng giải quyết việc làm tại tỉnh Thái Bình”
làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục đích làm sáng tỏ trên cơ sở phân tích và đánh
giá các quy định của pháp luật Việt Nam về việc làm. Luận văn góp phần xây
dựng quan điểm lý luận pháp lý chuyên ngành về việc làm và giải quyết việc
làm trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở thực
tiễn thi hành các quy định về việc làm tại tỉnh Thái Bình, luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật; đồng thời, đóng góp những ý
kiến cụ thể cho địa phương về vấn đề giải quyết việc làm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề việc làm có thể xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, luận văn
của tôi xin đề cập đến vấn đề việc làm ở địa phương dựa trên các quy định
pháp luật về việc làm.
Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản pháp lý riêng “Luật
Việc làm năm 2013”, vì vậy luận văn của tôi hướng đến việc đề ra những kiến
nghị nhằm giải thích các quy định của pháp luật việc làm với mong muốn góp
tiếng nói nhỏ để các cơ quan thi hành pháp luật có định hướng tốt hơn và các
quy định của Luật Việc làm được thực thi tốt trong cuộc sống.
Luận văn có đối tượng nghiên cứu chủ yếu là những quy định của Luật
Việc làm năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đặc biệt tác giả cũng

tập trung nghiên cứu những quy định của địa phương tỉnh Thái Bình về việc
làm và giải quyết việc làm.

2


Vì vấn đề “việc làm” có nội dung rất rộng và khá phức tạp, đặc biệt
Luật Việc làm năm 2013 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015,
nên tác giả cũng không có ý định giải quyết toàn diện các mặt của đề tài mà
chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm trong phạm vi quan hệ lao
động làm công ăn lương (người lao động theo nghĩa hẹp) - đối tượng chính
của Luật Việc làm và các văn bản liên quan.
Để đạt được mục đích và phù hợp với đối tượng nêu trên luận văn cần
thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm,
phân tích các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết việc làm. Cần nghiên
cứu những công ước quốc tế về việc làm và liên quan đến việc làm, những
quy định của pháp luật cũng như kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực
giải quyết việc làm.
- Phân tích đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về
giải quyết việc làm tại tỉnh Thái Bình.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện và áp dụng các quy định pháp luật
về việc làm và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm
tại tỉnh Thái Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tác giả thực hiện trên cơ sở sử dụng lý luận và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê - Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về vấn đề việc
làm và giải quyết việc làm.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ vận dụng các nguyên lý của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu.
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp cụ thể sau đây để nghiên cứu:

3


phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so
sánh, phương pháp tổng kết lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp điều
tra, phương pháp bình luận…
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lần đầu tiên Việt Nam ban hành một văn bản pháp lý riêng về việc
làm, vì vậy những bài nghiên cứu từ trước đến nay chủ yếu nghiên cứu vấn đề
việc làm dưới góc độ là một phần của Bộ luật Lao động như:
- Phạm Công Trứ, “Một số vấn đề pháp lý về việc làm và giải quyết
việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6/2003.
- Nguyễn Hữu Chí, “Lao động, việc làm trong bối cảnh toàn cầu hóa và
những yêu cầu với pháp luật lao động”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, chuyên
đề số 5 tháng 12/2003.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Lưu Bình Nhưỡng (chủ biên), Việc làm
và giải quyết việc làm trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp trường, 2004.
- Nguyễn Thị Kim Phụng, “Bàn về khái niệm “Việc làm” dưới góc độ
của pháp luật lao động”, Tạp chí luật học, số 6/2004.
- Đỗ Thị Dung, “Vai trò của tổ chức công đoàn trong vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động”, Tạp chí luật học, số 6/2005.
- Nguyễn Hữu Chí, “Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết
việc làm”, Tạp chí luật học, số 1/2006.
Tuy nhiên các tác giải trên chủ yếu nghiên cứu việc làm là một phần
của Bộ luật Lao động, do vậy, luận văn tôi thực hiện chủ yếu đi vào tìm hiểu

việc làm trên cơ sở là một văn bản pháp lý độc lập, đặc biệt có gắn với tình
hình áp dụng tại địa phương tỉnh Thái Bình.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Một là: Luận văn là một công trình khoa học trình bày một cách toàn

4


diện và tương đối đầy đủ những vấn đề lý luận của pháp luật về việc làm, luận
văn sẽ góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về pháp luật việc làm.
- Hai là: Luận văn đã đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề
việc làm tại tỉnh Thái Bình, những vấn đề còn vướng mắc.
- Ba là: Luận văn đã chỉ rõ một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về việc làm nói chung và tại tỉnh Thái Bình
nói riêng.
7. Ý nghĩa của luận văn
Với kết quả nghiên cứu trên, luận văn đã:
- Làm rõ về khái niệm việc làm, thất nghiệp trên cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn; tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của việc giải quyết việc làm.
- Giới thiệu các quy định pháp lý quốc tế (chủ yếu là của ILO), trên cơ
sở so sánh, cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong việc
điều chỉnh vấn đề việc làm. Từ đó tác giả đưa ra những đánh giá, nhận xét cần
thiết trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và
địa bàn tỉnh Thái Bình nói riêng.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm giải thích và áp dụng pháp luật về việc
làm một cách hiệu quả trong thực tế; cũng như hoàn thiện các quy định còn
mang tính bất cập của pháp luật về việc làm.
- Đánh giá việc áp dụng pháp luật về việc làm trên địa bàn tỉnh Thái
Bình để từ đó có những ý kiến, quan điểm về vấn đề việc làm có tính chất đặc

thù với địa phương.
- Ngoài ra, luận văn còn có giá trị tham khảo cho sinh viên các trường
đại học cũng như các cán bộ nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và
những ai quan tâm đến vấn đề này.

5


8. Kết cấu của luận văn
- Chương 1: Khái quát chung về việc làm, giải quyết việc làm và sự
điều chỉnh của pháp luật.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về việc làm và thực tiễn giải quyết
việc làm tại tỉnh Thái Bình.
- Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật việc làm và giải quyết việc làm từ thực tiễn tại tỉnh Thái Bình.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1. Quan niệm về việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để
đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Cuộc sống của bản thân và gia
đình người lao động phụ thuộc rất nhiều vào việc làm của các thành viên
trong gia đình đó. Cũng như sự tồn tại và phát triển của một quốc gia cũng
gắn liền với hiệu quả của chính sách việc làm. Chính vì vậy, việc làm luôn

được các nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như: kinh tế,
xã hội, lịch sử và pháp lý.
a. Dưới góc độ kinh tế - xã hội
Dưới góc độ kinh tế học, lao động là hình thức mà qua đó con người
tác động lên thế giới tự nhiên, môi trường xung quanh nhằm duy trì sự tồn tại
cho bản thân. Quá trình lao động của con người được thể hiện cụ thể thông
qua các hình thức việc làm của từng người - chính là công cụ, phương thức để
con người không chỉ đáp ứng nhu cầu bản thân mà còn là cơ hội để khẳng
định chính mình, góp phần phát triển kinh tế, xã hội.
Lao động trước hết là một hành động diễn ra giữa con người với thế
giới tự nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng
với công cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt, đời sống con người, lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu
được của con người, nó là hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của
con người. Con người không thể sống khi không có lao động.
Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao
7


động là năng lực của con người nó bao gồm cả thể lực và trí lực, nó là yếu tố
tích cực đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình lao động, là yếu tố khởi
đầu, quyết định trong quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hóa có thể được ra
đời hay không thì nó phải phụ thuộc vào quá trình sử dụng sức lao động. Bản
thân mỗi cá nhân con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí
nhất định, mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã
hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất
được coi là chỗ làm hay việc làm.
Như vậy, việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản
xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao
động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ

thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện
được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
Quan niệm về việc làm hiện nay vẫn có nhiều ý kiến, rất nhiều tác giả
đã cố gắng đưa ra những khái niệm dưới nhiều góc độ khác nhau:
Theo Phó Cố vấn kinh tế Giăng Mu-tê, Văn phòng lao động quốc tế thì:
“Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công
bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân
và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” [30, tr.10 - 11]. Như vậy, theo cách định
nghĩa này, Giăng Mu-tê đã lấy biểu hiện trả công trong quan hệ lao động để
xác định một hành vi là việc làm.
Theo tác giả Guy-Han Tơ, Viện phát triển hải ngoại Luân Đôn (Anh)
có nhận định: “Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của
xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ tới cách thức kiếm sống của con
người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn, hành vi tạo thành khuôn
khổ trong quá trình phát triển kinh tế” [30, tr.10 - 11]. Như vậy, cách nhìn
này đã dựa vào mục đích mưu sinh trong các hoạt động của con người để xác
định một hành vi là việc làm.
8


Theo như H.A. Gô-rê-lốp (Liên Xô cũ) thì quan niệm: “Việc làm là một
quan hệ sản xuất nảy sinh do có sự kết hợp giữa cá nhân người lao động với
các phương tiện sản xuất” [30, tr.10 - 11]. Như vậy các nhìn này đã dựa trên
sự xem xét mối quan hệ giữa người lao động và tư liệu sản xuất, khi có sự kết
hợp giữa con người với những công cụ, phương tiện có thể tác động vào giới
tự nhiên thì lúc đó sẽ này sinh hành vi làm việc.
Cũng theo Giáo sư Sô-nin và Phó Tiến sĩ E.Jit-nôp (Liên Xô cũ) lại cho
rằng: “Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt
động xã hội có ích trong khu vực xã hội hóa sản xuất, trong học tập, trong
công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của nông trang viên” [30, tr.10 - 11]. Như

vậy, theo quan điểm này, thì hai tác giả đã có sự đánh giá sự tích cực, có ích
của con người vào hoạt động xã hội, không phân biệt loại hình hoạt động.
Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của Tổ chức Lao động quốc tế (International
Labour Organization - ILO) có khẳng định rằng: Người có việc làm là những
người làm một việc gì đó được trả công, lợi nhuận hay được thanh toán bằng
hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính tự tạo việc làm
vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận được tiền công hoặc hiện vật.
Theo Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
có quan niệm về việc làm dưới góc độ kinh tế xã hội như sau: “Xét về phương
diện kinh tế - xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi
ích, thu nhập cho người lao động được xã hội thừa nhận” [23, tr.168].
Như vậy, với những cách nhìn khác nhau, mỗi tác giả sẽ có những
quan điểm không giống nhau về việc làm. Tuy nhiên, về cơ bản các khái
niệm trên đã nêu ra được bản chất của việc làm: đó là những dạng thức
hoạt động nhằm kiếm sống của con người mà qua đó con người đã bỏ sức
lao động để đem lại thu nhập, thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Việc làm
luôn luôn gắn liền với “thu nhập”.

9


Việc làm là hành động luôn luôn gắn với con người mà không xuất
hiện ở bất cứ loài vật nào khác. Có thể có những loài vật cũng có những hành
động cụ thể để đáp ứng nhu cầu của bản thân, nhưng những hành động đó
không được coi là việc làm bởi nó chỉ là những hành động bản năng mang đặc
tính loài. Còn việc làm luôn gắn với con người, bởi để tiến hành được việc
làm thì cần được thực hiện bởi ý chí, lý trí và tình cảm, mà ý chí, lý trí, tình
cảm lại chỉ có ở con người, một đối tượng có nguồn gốc xã hội, mang dấu ấn
xã hội sâu sắc.
Việc làm vừa có dấu ấn cá nhân vừa mang đặc trưng xã hội. Trước hết

mỗi con người từ khi sinh ra đến khi ý thức được hành vi của mình, có nhu
cầu làm việc thì họ đã bắt tay vào một hoạt động nhất định để phục vụ các
nhu cầu của cá nhân như ăn, mặc, ở, giải trí. Việc làm của cá nhân thường gắn
với trả công, tuy nhiên trong nhiều trường hợp việc làm của cá nhân lại xuất
phát từ việc họ làm để tự tạo ra và tự đáp ứng các nhu cầu của bản thân, hay
những việc làm mang tính từ thiện cho cộng đồng. Việc làm của con người
còn mang đậm đặc trưng xã hội, bởi mỗi chúng ta sinh ra, lớn lên trưởng
thành không thể tách rời cộng đồng. Mọi hoạt động của chúng ta đều trong
mối quan hệ gắn bó mật thiết với cộng đồng, có sự san sẻ với cộng đồng, gia
đình và cũng nhận lại được sự san sẻ đó. Đặc biệt những lúc con người mới
sinh ra hay già yếu thì việc làm của những người thân trong gia đình hay việc
làm của cộng đồng đều có sự gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người
trong những trường hợp này.
Khi nghiên cứu về vấn đề việc làm thì song song đó ta phải nghiên cứu
vấn đề thất nghiệp, bởi việc làm và thất nghiệp luôn đi liền với nhau và là hai
mặt của một vấn đề. Đối với quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là sự lãng
phí nguồn nhân lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp, thiếu việc làm,
“nhàn cư vi bất thiện” là mầm mống đưa con người mắc các tệ nạn xã hội,

10


vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách con người. Do vậy, tạo việc làm đi
đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong bối cảnh nước ta vẫn còn ở thời kỳ bao cấp, kế hoạch hóa tập
trung thì gần như không có khái niệm thất nghiệp, bởi ở đó con người sinh ra
đã gắn liền với các hợp tác xã từ thưở ấu thơ, gắn với các xí nghiệp quốc
doanh. Chỉ tiêu làm việc của con người trong giai đoạn này phụ thuộc vào kế
hoạch của Nhà nước và thành quả lao động của họ là hoàn thành kế hoạch,

hay vượt kế hoạch. Chính điều này đã kìm hãm xã hội phát triển, dẫn đến
những hệ quả khủng hoảng trầm trọng giai đoạn cuối những năm 80 đầu
những năm 90 của thế kỷ trước. Theo tinh thần từ điển kinh tế Liên Xô cũ
(1977), thất nghiệp được hiểu là: hiện tượng chỉ có trong chế độ tư bản chủ
nghĩa, khi một bộ phận người lao động không tìm được việc làm, trở thành cư
dân thừa và xung vào đội quân lao động dự trữ.
Theo như Giáo trình Luật Lao động Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội thì lại cho rằng:
Thất nghiệp là vấn đề của mỗi cá nhân và cũng là vấn đề của xã hội.
Đối với mỗi cá nhân, thất nghiệp là tình trạng người đó không có việc làm, bị
mất việc làm và điều đó gây nên những hậu quả tiêu cực đối với bản thân và
gia đình của họ. Song ở phạm vi xã hội, thất nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã
hội phức tạp thể hiện tình trạng lao động, việc làm của xã hội trong đó có lực
lượng không nhỏ những người lao động bị thất nghiệp. Có rất nhiều quan
niệm khác nhau về thất nghiệp. Song nhìn chung các quan niệm đều cho rằng
thất nghiệp là tình trạng trong đó có một số người trong lực lượng lao động
muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm; còn người thất nghiệp là
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, hiện không có việc làm
và đang tìm việc làm [23, tr.169].

11


b. Dưới góc độ pháp lý
Việc làm là vấn đề được Nhà nước ta rất quan tâm và đã quy định trong
rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Trong thời kỳ bao cấp Nhà nước có
trách nhiệm bố trí việc làm cho người lao động. Vì vậy, trong xã hội không
thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa. Việc
làm còn được coi là một quyền của công dân, quyền của người lao động. Hiến
pháp năm 1959 có quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có

quyền làm việc. Nhà nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế
quốc dân dần dần mở rộng công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và
lương bổng, để đảm bảo cho công dân được hưởng quyền đó” [15, Điều 30].
Như vậy quy định này đã khẳng định quyền làm việc của công dân, điều này
đã được kế thừa tại Hiến pháp năm 1980 lại khẳng định: “Công dân có quyền
có việc làm” [15, Điều 58]. Điều này là sự ảnh hưởng tư tưởng một cách sâu
sắc trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, cả nước dồn lực cho kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Việc làm vẫn được coi là trách nhiệm của quốc gia đối
với mỗi công dân, và còn coi làm việc cũng là kháng chiến.
Đến Hiến pháp năm 1992 đã có một bước chuyển mình: “lao động là
quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày
càng nhiều việc làm cho người lao động” [15, Điều 55]. Như vậy quan điểm
mới này đã mở ra một bước chuyển căn bản nhận thức về việc làm và giải
quyết việc làm đối với Nhà nước và mỗi cá nhân công dân. Từ quan điểm trên
thì Nhà nước sẽ tổ chức, chỉ đạo, quản lý các hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội nhằm tạo ngày càng nhiều cơ hội việc làm cho người lao động; đồng thời
Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ người lao động tự tạo việc làm cho mình và
cho cộng đồng. Ngược lại, với mỗi công dân thì lao động là quyền của họ
(điều này xuất phát từ việc Nhà nước sẽ có cơ chế để bảo vệ quyền này cho
người lao động) và còn là nghĩa vụ của công dân, họ lao động sản xuất không

12


chỉ nuôi sống bản thân mà còn hỗ trợ gia đình, góp phần thúc đẩy sản xuất,
tăng trưởng kinh tế của quê hương, đất nước. Công dân có quyền tự do lao
động, sản xuất kinh doanh, họ có quyền tự do hành nghề, tự do liên doanh,
liên kết, tự do thuê mướn lao động theo quy định pháp luật để tự tạo việc làm
cho mình và thu hút thêm lao động.
Trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta đã ban hành Bộ

luật Lao động năm 1994 và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào năm 2002,
2006 và 2007. Bộ luật Lao động đã đưa ra khái niệm việc làm hoàn toàn mới
so với trước, theo đó thì: “mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [16, Điều 13]. Xét về mặt lịch
sử pháp lý, đây là lần đầu tiên quan niệm về việc làm được ghi nhận trong
một văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước. Trước đó, các văn bản quy
phạm pháp luật về lĩnh vực lao động tuy có ít nhiều đề cập đến vấn đề việc
làm nhưng chủ yếu là đề cập ở góc độ các cơ chế, chính sách bảo đảm việc
làm cho người lao động, nhưng chưa đưa ra một định nghĩa hay quan niệm
chính thức về việc làm. Quy định này đã bước đầu tạo ra cơ sở cho việc hình
thành khái niệm việc làm, là tiền đề tạo ra những kết quả điều tra, thống kê
được chính xác. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường chưa lâu, quy định đó góp phần mở rộng quan niệm việc làm khi đa số
người lao động chỉ muốn chen chân vào làm việc tại các cơ quan Nhà nước.
Đến Bộ luật Lao động năm 2012 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm
2012 có quy định: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không
bị pháp luật cấm” [17, Điều 9].
Và một lần nữa tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 Đảng và Nhà nước ta lại khẳng định: “Công dân có quyền làm
việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, nơi làm việc” [18, Điều 35].

13


Đặc biệt ngày 16 tháng 11 năm 2013 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Việc làm
với quy định: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị
pháp luật cấm” [19, Điều 3]. Như vậy, Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật
Việc làm năm 2013 đều có quy định tương đồng về khái niệm việc làm. Tuy

nhiên đến Luật Việc làm năm 2013 thì một vấn đề được cả xã hội quan tâm đã
được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật độc lập. Điều này cho
thấy tầm quan trọng sống còn của mỗi quốc gia và vấn đề an sinh xã hội luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Việc làm năm 2013 thì điều
kiện cần và đủ để có thể coi một hoạt động là việc làm như sau:
Thứ nhất, việc làm phải là những hoạt động lao động của con người.
Có thể hiểu lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các
giá trị vật chất và tinh thần trong xã hội. Hoạt động lao động có thể là lao
động trí óc hay lao động chân tay giản đơn, lao động có trình độ cao hay
những lao động của công nhân kỹ thuật. Như vậy, nếu không có hoạt động lao
động thì không có việc làm, nhưng đó chỉ là dấu hiệu cơ bản của việc làm mà
không thể đồng nhất lao động với việc làm. Yếu tố lao động trong việc làm
phải có tính hệ thống, tính thường xuyên, tính nghề nghiệp, điều này khác hẳn
với lao động thông thường.
Thứ hai, hoạt động lao động đó phải tạo ra nguồn thu nhập có tính ổn
định. Để thực hiện việc làm người lao động phải sử dụng sức lao động của
mình tác động vào các đối tượng lao động và sự tiêu hao sức lao động đó phải
được bù đắp bằng một lượng giá trị nhất định để tái sản xuất sức lao động và
duy trì cuộc sống. Do đó việc trả thù lao cho người lao động là cần thiết và
công bằng để người lao động tiếp tục tái sản xuất sức lao động. Thù lao ở đây
có thể trả bằng vật chất hay giá trị tinh thần tùy thuộc vào sự thỏa thuận của
các bên trong quan hệ lao động hay tính chất của công việc phải làm.
14


Thứ ba, việc làm là những hoạt động lao động mà pháp luật quốc gia
không cấm. Đây là một yếu tố cấu thành mang tính chất mở. Chỉ có những
hoạt động mà pháp luật không cấm mới là hoạt động hợp pháp, đúng pháp
luật. Vì vậy, trong thực tế có những hoạt động có thể tạo ra rất nhiều giá trị

vật chất nhưng không hợp pháp nên cũng không được thừa nhận là việc làm.
Làm rõ khái niệm “việc làm” theo pháp luật về việc làm của Việt Nam
là cơ sở để hiểu được vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam hiện nay nói
chung và tại địa phương tỉnh Thái Bình nói riêng một cách toàn diện và hoàn
chỉnh. Từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật về việc làm, bảo hiểm xã hội…
góp phần thúc đẩy các biện pháp giải quyết việc làm đạt hiệu quả.
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm
Ở Việt Nam, vấn đề giải quyết việc làm có những thay đổi qua từng thời
kỳ của đất nước, mặc dù vậy ở thời kỳ nào vấn đề giải quyết việc làm cũng
được Nhà nước coi trọng và đề cao là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Điều đó
được minh chứng rõ nét khi Nhà nước đã ghi nhận giải quyết việc làm ở các
văn bản pháp lý cao như: Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Việc làm… Theo
đó, giải quyết việc làm bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về
nguyên tắc, biện pháp và trách nhiệm của các chủ thể trong giải quyết việc làm
cho người lao động.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, giải quyết việc làm là
nhiệm vụ của Nhà nước, Nhà nước có trách nhiệm tạo công ăn việc làm cho
công dân bằng cách tuyển dụng vào biên chế Nhà nước hay làm trong các hợp
tác xã. Trong thời gian này, người lao động chỉ có thể làm việc trong biên chế
Nhà nước hay là thành viên của hợp tác xã, Nhà nước duy trì nền kinh tế hai
thành phần là quốc doanh và tập thể. Nhà nước có nhiệm vụ tạo ra việc làm
để thu hút lực lượng lao động trong xã hội. Nội dung này được cụ thể trong
Hiến pháp năm 1980: “Công dân có quyền có việc làm, người có sức lao động

15


phải lao động theo quy định của pháp luật, Nhà nước dựa vào kế hoạch phát
triển kinh tế văn hóa mà tạo thêm việc làm sắp xếp công việc căn cứ vào năng
lực, nguyện vọng cá nhân và yêu cầu xã hội…” [15, Điều 58]. Như vậy, gánh

nặng về giải quyết việc làm dồn cả vào Nhà nước, điều này không có lợi cho
nền kinh tế mà còn tạo tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, vào tập thể của một số
người trong xã hội, dẫn tới năng suất lao động không cao, kìm hãm sự tìm tòi,
sáng tạo của người lao động bởi tâm lý “cào bằng”. Nhận thức được hạn chế
đó, năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong vấn đề giải quyết việc
làm. Trách nhiệm giải quyết việc làm đã có sự thay đổi. Theo quy định tại
Bộ luật Lao động năm 1994 được sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007
thì: “giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều
có cơ hội việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và
của toàn xã hội” [16, Điều 13]. Đến Bộ luật Lao động năm 2012 Nhà nước
cũng có quy định cụ thể hơn: “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội
có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả
năng lao động đều có cơ hội việc làm” [17, Điều 9]. Đặc biệt Luật Việc làm
năm 2013 là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về việc làm được ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cuộc sống phát sinh.
Như vậy, giải quyết việc làm bao gồm phát triển kinh tế, xã hội nhằm
tạo việc làm, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế tự
tạo việc làm cho bản thân và xã hội. Điều này có nghĩa là vấn đề tự tạo việc
làm cho bản thân chịu sự tác động của việc thực hiện hàng loạt cơ chế pháp lý
khác như quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, bình đẳng giữa các doanh
nghiệp… Còn việc làm cho người lao động trong quan hệ với người sử dụng
lao động chịu sự tác động của các chế độ pháp lý như: quyền được lao động,
tự do tìm việc làm, quyền được bảo vệ trong quá trình lao động…

16


Qua đó có thể khẳng định được giải quyết việc làm là một chính sách
lớn của Nhà nước thông qua hàng loạt cơ chế, chính sách, biện pháp để nhằm

tạo việc làm, hạn chế thất nghiệp hướng tới phát triển kinh tế và đảm bảo các
vấn đề xã hội.
1.1.2. Phân loại việc làm
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại việc làm, tuy nhiên phổ biến với
một số cách phân loại việc làm như sau:
- Việc làm bình thường và việc làm nặng nhọc độc hại, nguy hiểm
Việc làm bình thường là loại việc làm trong đó các công việc không
chứa đựng hoặc chứa đựng ít các yếu tố nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Việc
làm bình thường xét về mặt kỹ năng thường có thao tác hoạt động, quy trình,
quy phạm của nghề, công việc tương đối đơn giản. Người lao động tiến hành
công việc trong điều kiện lao động tương đối thuận lợi và ít bị nguy cơ đe dọa
về tính mạng thân thể.
Việc làm nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm là công việc chứa các yếu tố
có hại cho cơ thể con người như hóa học, vật lý, sinh học, môi trường đối với
cơ thể người lao động. Khi người lao động trực tiếp thực hiện các công việc
trong điều kiện lao động đó thì các yếu tố trên sẽ có tác động vào cơ thể người
lao động gây ra các bệnh nghề nghiệp ảnh hưởng đến sức khỏe. Ngoài ra với
các yếu tố nguy hiểm độc hại của công việc thì nguy cơ tai nạn lao động xảy
ra đối với người lao động là rất lớn.
- Việc làm cho người lao động bình thường và việc làm cho người lao
động đặc thù
Đối với những người lao động bình thường có sức khỏe về thể lực và trí
lực thì họ sẽ lao động trong các điều kiện lao động bình thường. Họ là những
người có năng lực lao động đầy đủ.
17


×