Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TÔN NỮ NGỌC TRÂM

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG
CHẾ ĐỊNH LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TÔN NỮ NGỌC TRÂM

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG
CHẾ ĐỊNH LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM



HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Tôn Nữ Ngọc Trâm


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
Chƣơng I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG
TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................................................... 10
1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam ............................................. 10

1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam...................... 10
1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định các
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.............................................. 11
1.1.3. Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của
chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự........................ 15
1.2. Vai trò của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
trong việc bảo vệ các quyền con ngƣời.................................................... 20
1.2.1. Bảo vệ quyền con người thông qua việc quy định trong Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành các trường hợp được loại trừ trách nhiệm
hình sự .................................................................................................... 22
1.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng cơ chế giám sát, khiếu nại tố cáo
và xử lý vi phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các
trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự ................................... 39
Kết luận Chƣơng I..................................................................................... 41


Chƣơng II. MỘT SỐ VĂN BẢN QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN TRONG
LĨNH VỰC TƢ PHÁP HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG CÁC QUY PHẠM
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH
NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI VIỆC BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI .................................... 43
2.1. Một số văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự. 43
2.1.1. Các văn bản quốc tế về bảo vệ các quyền con người ................. 43
2.1.2. Các quyền con người được bảo vệ trong lĩnh vực tư pháp hình sự 47
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về chế định
những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với việc bảo vệ các
quyền con ngƣời ........................................................................................ 49
2.2.1. Hệ thống các quy phạm của chế định những trường hợp loại trừ

trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo
vệ các quyền con người .......................................................................... 49
2.2.2. Nhận xét về các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối
với việc bảo vệ các quyền con người ..................................................... 54
Kết luận Chƣơng II ................................................................................... 68
Chƣơng III. HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI
TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
NHẰM TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI ............. 69
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế
định những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm tăng cƣờng
vai trò bảo vệ các quyền con ngƣời. ........................................................ 69
3.1.1. Về mặt lập pháp ............................................................................ 69
3.1.2. Về mặt lý luận............................................................................... 70
3.1.3. Về mặt thực tiễn ........................................................................... 70


3.2. Hoàn thiện chế định những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự trong pháp luật hình sự Việt Nam nhằm tăng cƣờng bảo vệ các
quyền con ngƣời. ....................................................................................... 72
3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về chế định các
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.............................................. 72
3.2.2. Giải pháp trong thực tiễn áp dụng những trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự ............................................................................... 92
Kết luận Chƣơng III ................................................................................. 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

PLHS

Pháp luật hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó hiện
hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền con người là một trong
những vấn đề được cả nhân loại quan tâm và nghiên cứu. Ở Việt Nam, từ sau
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), công cuộc đổi mới của Đảng cộng
sản Việt Nam đã làm thay đổi nhận thức và tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ
quyền con người. Nhà nước ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, một nhà nước mà ở đó, quyền con
người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị,
ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Bảo
đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo đến con
người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện trong thực hiện
các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động của Nhà nước là những
quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta

trong những năm gần đây.
Pháp luật là phương tiện, là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc
thực hiện bảo vệ quyền con người. Tính sắc bén của pháp luật trong việc thực
hiện bảo vệ quyền con người được thể hiện ở các quy định về quyền con
người trong pháp luật, hay các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với
hành vi xâm phạm các quyền con người được pháp luật bảo vệ nhằm chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội.
Tội phạm thì phải chịu TNHS, tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả
các tội phạm và các trường hợp phạm tội đều giống nhau. Do đó, để công
1


cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cùng với việc phân
loại tội phạm, luật hình sự Việt Nam cũng đồng thời phân hóa các trường hợp
phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp,
nhanh chóng, chính xác và công bằng. Đặc biệt, sự phân hóa các trường hợp
phạm tội và người phạm tội còn thể hiện ở chỗ không phải tất cả các trường
hợp phạm tội hay tất cả những người phạm tội đều bị truy cứu TNHS. Đó là
trường hợp mặc dù hành vi của con người về hình thức có các dấu hiệu của
tội phạm cụ thể, nhưng khi xem xét lại thấy những hành vi đó có một số tình
tiết nhất định làm mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và hành vi đó
không bị coi là tội phạm. Khoa học luật hình sự gọi đây là những trường hợp
loại trừ TNHS.
Chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đóng vai trò rất
quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, thể hiện rõ nét chính sách
nhân đạo của chính sách hình sự nước ta. Chế định này cũng góp phần nâng
cao trình độ pháp lý cho người làm công tác bảo vệ pháp luật và nâng cao ý
thức pháp luật của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tuy nhiên, qua những một thời gian áp dụng và thi hành cho thấy một
số quy định của BLHS hiện hành về chế định các trường hợp loại trừ TNHS
vẫn còn chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ về nội dung, chưa phù hợp với thực tiễn
đấu tranh và phòng chống tội phạm trong tình hình mới, đặc biệt còn nhiều
quy định cần có sự hướng dẫn kịp thời và thống nhất của các cơ quan tư pháp
hình sự có thẩm quyền. Do đó, chưa đảm bảo triệt để vấn đề bảo vệ quyền con
người, thực tiễn nhiều nơi vẫn tồn tại tình trạng do không hiểu biết pháp luật
hoặc hiểu biết chưa sâu vẫn cho rằng những hành vi đó là tội phạm và phải
chịu TNHS, gây nên hậu quả không đáng có cho xã hội.
Đúc kết những vẫn đề nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo
vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong
pháp luật hình sự Việt Nam” là cần thiết và mà mang tính cấp thiết để hoàn
2


thiện về mặt pháp luật, tạo sự thống nhất ở các cơ quan tư pháp và nâng cao
hiểu biết pháp luật của người dân về chế định các trường hợp loại trừ TNHS,
qua đó nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của chế định này. Điều đó
cũng chính là lý do thúc đẩy người viết lựa chọn và nghiên cứu đề tài luận
văn này.
2. Tình hình nghiên cứu.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, vấn đề bảo vệ các quyền con người
bằng pháp luật chuyên ngành và chế định những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu với các góc độ, mức độ và
cấp độ nghiên cứu khác nhau.
2.1 Nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong
lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự có các công trình nghiên cứu sau:
2.1.1 Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo,
giáo trình liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự có:

1) GS.TSKH Lê Văn Cảm (2010), Những vấn đề lý luận về bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự - trong sách
chuyên khảo Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự, nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;
2) TS. Phạm Thị Kim Oanh chủ biên (2010), Bảo đảm quyền trong tư
pháp hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;
3) TS Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong luật
hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia…
2.1.2 Nhóm thứ hai: các công trình nghiên cứu là bài viết đăng trong
các tạp chí liên quan đến vấn đề bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự có:

3


1) GS.TSKH Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận bảo vệ quyền
con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”, đăng trong Tạp chí
Tòa án nhân dân (số 11) tháng 6/2006;
2) PGS. TS Phạm Văn Tỉnh (2012), “Quyền con người về mặt tư pháp
hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6).
3) Nguyễn Minh Tuấn (2012), “Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề
về hội nhập quốc tế)…
2.1.3 Nhóm thứ ba: các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu
khoa học, luận văn, luận án liên quan đến vấn đề bảo vệ các quyền con người
bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam gồm có:
1) GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS Nguyễn Ngọc Chí, Ths Trịnh Quốc
Toản đồng chủ trì (2005), Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội;

2) GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ trì (2013), Quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật, đề
tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội;
3) Nguyễn Huy Hoàn (2004), Đảm bảo quyền con người trong hoạt
động tư pháp ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật học bảo vệ tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
4) Giáp Mạnh Huy (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo
vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ
Luật học do GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội.
5) Phùng Thị Thanh Mai (2014), Bảo vệ quyền con người bằng các
quy phạm về các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự, Luận văn Thạc
4


sỹ Luật học do GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn, bảo vệ tại Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội.
6) Tạ Xuân Trà (2014), Bảo vệ các quyền con người bằng các quy
phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật
học do GS.TSKH Lê Văn Cảm hướng dẫn, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội…
2.2 Nghiên cứu về chế định những trường hợp loại trừ TNHS có các
công trình nghiên cứu sau đây:
2.2.1 Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo,
giáo trình liên quan đến chế định những trường hợp loại trừ TNHS gồm có:
1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm (2005), Các trường hợp loại trừ tính chất
tội phạm của hành vi - trong sách chuyên khảo Sau đại học Những vấn đề cơ
bản trong khoa học luật hình sự”(Phần chung), nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội;
2) Đinh Văn Quế (1998), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình

sự trong luật hình sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia;
3) PGS. TS. Kiều Đình Thụ (1998), Những tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự - trong sách: Tìm hiểu luật hình
sự Việt Nam, nhà xuất bản Đồng Nai…
2.2.2 Nhóm thứ hai: các công trình nghiên cứu là bài viết đăng trong
các tạp chí liên quan đến chế định những trường hợp loại trừ TNHS gồm có:
1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm (2001), “Chế định các tình tiết loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi: Về các tình tiết được điều chỉnh trong luật hình sự
Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 4);
2) GS.TSKH Lê Văn Cảm (2001), “Chế định các tình tiết loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi (Những vấn đề cơ bản về khái niệm, hệ thống và
bản chất pháp lý)”, Tạp chí luật học, (số 4);
5


3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (1999), “Về chế định loại trừ trách
nhiệm hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4);
4) Đinh Văn Quế (2009), “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
liên quan tới nhân thân người phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 13);
5) Trịnh Tiến Việt (2013), “Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và
những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, tập 29, (số 4)…
2.2.3 Nhóm thứ ba: các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu
khoa học, luận văn, luận án liên quan đến chế định những trường hợp loại trừ
TNHS gồm có: Giang Sơn (2002), Các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi theo luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học…
Các quan điểm lý luận khoa học về vấn đề bảo vệ quyền con người, bảo
vệ quyền con người bằng PLHS cũng như chế định các trường hợp loại trừ
TNHS có vai trò và ý nghĩ to lớn đối với nhận thức của tác giả luận văn về đề
tài nghiên cứu, là những tài liệu rất bổ ích và được tác giả luận văn sử dụng

trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các chuyên khảo, bài viết cũng như các công
trình khoa học trên thì hầu hết các tác giả mới chỉ nghiên cứu riêng từng vấn đề
về bảo vệ quyền con người hoặc chế định các trường hợp loại trừ TNHS, chưa
có sự liên kết trong việc phân tích, đánh giá hai vấn đề này. Do đó, điểm mới của
luận văn này chính là phân tích hai vấn đề bảo vệ quyền con người và chế định
các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam để từ đó rút ra được mối
liên hệ của việc bảo vệ quyền con người bằng chế định này, qua đó thấy được
tầm quan trọng của việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ
TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu.
Việc nghiên cứu, giải thích và làm sáng tỏ các quyền con người được
bảo vệ bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự
6


Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà làm luật, các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng như giúp chúng ta có thêm những kiến thức bổ ích khi tìm
hiểu về những quy định của BLHS. Việc nghiên cứu chế định các trường hợp
loại trừ TNHS giúp chúng ta nhận thức được khi nào thì hành vi gây thiệt hại
của một người sẽ bị truy cứu TNHS và khi nào thì hành vi gây thiệt hại được
loại trừ TNHS nhằm phát huy quyền làm chủ của công dân, góp phần đấu
tranh phòng chống tội phạm. Việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định các
trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng góp phần
tăng cường hơn nữa vẫn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật.
Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là làm rõ được tầm quan
trọng của vấn đề bảo vệ quyền con người hiện nay bằng chế định những
trường hợp loại trừ TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam. Từ những phân
tích trên, luận văn chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành về chế định
này, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và mục đích

bảo vệ các quyền con người của chế định các trường hợp loại trừ TNHS.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp loại
trừ TNHS hiện nay còn là vấn đề rất mới và còn nhiều tranh luận xung quanh
nó. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài luận văn, người viết tập trung nghiên cứu
việc bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS
trong PLHS Việt Nam hiện hành và dự thảo Bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi
năm 2015. Cụ thể là nghiên cứu các quyền con người được bảo vệ trong các
trường hợp mà hành vi tuy về hình thức có dấu hiệu của hành vi nào đó được
quy định trong PLHS là tội phạm nhưng người thực hiện hành vi không phải
chịu TNHS như: 1) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể
(Khoản 4 Điều 8 BLHS); 2) Sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS); 3) Hành vi do
người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện (Điều 12 BLHS); 4)
7


Hành vi do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện (Khoản 1
Điều 13 BLHS); 5) Phòng vệ chính đáng (Khoản 1 Điều 15 BLHS), 6) Tình
thế cấp thiết (Khoản 1 Điều 16 BLHS)...
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đối với đề tài luận văn này, người viết chủ yếu dựa trên các quy định
của BLHS, hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan cùng với các tài
liệu khác như: giáo trình; sách, các công trình nghiên cứu chuyên khảo kết
hợp sưu tầm và tham khảo các tạp chí chuyên ngành luật; thông tin trên mạng
internet và các tài liệu khác liên quan đến quyền con người, chế định các
trường hợp loại trừ TNHS từ đó tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu làm rõ cơ sơ lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề bảo vệ quyền con người
bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã phân tích, liên hệ giữa chế định các trường hợp loại trừ

TNHS với vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế định này nhằm góp phần
thể hiện chính sách nhân đạo trong PLHS Việt Nam.
Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của BLHS Việt Nam
hiện hành, cũng như Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) về chế
định các trường hợp loại trừ TNHS, từ đó tìm ra được một số tồn tại, hạn chế,
bất cập trong quy định của BLHS Việt Nam hiện hành.
Luận văn đã đưa ra được một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện chế
định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam nhằm tăng cường
bảo vệ các quyền con người.
7. Bố cục đề tài
Để việc nghiên cứu và tìm hiểu luận văn này một cách có khoa học và
dễ hiểu thì ngoài các phần: Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham

8


khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định những trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Một số văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tư
pháp hình sự và thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với việc
bảo vệ các quyền con người.
Chương 3: Hoàn thiện chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam nhằm tăng cường việc bảo vệ các
quyền con người.
Đề tài nghiên cứu “Bảo vệ các quyền con người bằng chế định loại
trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam” là một vấn đề
khá phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu cần có kiến thức sâu rộng cả về lý
luận và thực tiễn. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi người viết cần có sự liên hệ, suy

luận, kỹ năng phân tích để nắm được vấn đề cốt lõi là những quyền con người
nào được bảo vệ bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS; tìm ra được
những tồn tại và vướng mặc còn gặp phải của chế định này từ đó đề xuất giải
pháp hoàn thiện.

9


Chƣơng I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP
LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các trường hợp
loại trừ TNHS có ý nghĩa trên một số bình diện sau:
1) Những trường hợp loại trừ TNHS là một trong những chế định cơ
bản phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS
nói riêng trong Nhà nước pháp quyền [14, tr.503].
2) Trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng PLHS hiện
nay xung quanh những vấn đề khái niệm, hệ thống và bản chất pháp lý của
chế định này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau cần phải được nhà
làm luật khẳng định dứt khoát về mặt lập pháp [14, tr.503]. Từ đó, có cách
hiểu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm cho việc áp dụng chế
định này chính xác và đúng pháp luật.
3) Việc tiếp tục phân tích khoa học để làm sáng tỏ về mặt lý luận để tìm
ra những trường hợp loại trừ TNHS trong thực tiễn, đồng thời đưa ra một mô

hình lý luận nhằm hoàn thiện chế định đang được nghiên cứu là một nhiệm vụ
không kém phần quan trọng và cần thiết của khoa học luật hình sự Việt Nam
[14, tr.503].
4) Việc quy định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam
giúp cho mọi người vững tin hơn khi hành động, chủ động đấu tranh chống lại
10


những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước cấm, từ bỏ ý định hoặc
hành vi có hại cho xã hội mà mình tưởng lầm là không trái pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, góp phần xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh.
5) Việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS
trong PLHS Việt Nam góp phần làm cho pháp luật từng bước đi vào cuộc
sống, loại trừ những quy phạm không phù hợp với cuộc sống cũng như kịp
thời bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội cần có sự can
thiệp của pháp luật.
Tóm lại, quy định vấn đề các trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự
Việt Nam có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất quan trọng trong việc xác
định ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, bảo đảm xử lý đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật trong mỗi trường hợp tương ứng, cũng như phát
huy tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong số đó
lại có trường hợp được Nhà nước khuyến khích, khen thưởng như: thực hiện
hành vi trong phòng vệ chính đáng và trong tình thế cấp thiết vì chúng là những
hành vi có ích cho xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng [56, tr.19].
1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định
các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Cho đến nay vấn đề bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS
như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ… vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau dưới đây [14, tr.510 – 512]:

1) Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và khoa học luật
hình sự Liên Bang Nga hiện nay có một số quan điểm như sau về bản chất
pháp lý của các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, cụ thể là:
a) Một số GS.TSKH luật, Viện sĩ Viện HLKH Liên Xô trước đây
(Piôntkôvxki A.A, Rômaskin P.X và Trkhikvađze V.M) viết “Chúng không những
chỉ là các tình tiết loại trừ cấu thành tội phạm trong hành vi được thực hiện”.
11


b) GS.TSKH luật Xlutxki I.I coi các trường hợp này là các tình tiết
loại trừ TNHS và phân chia chúng thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất – các tình
tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng
vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình
thế cấp thiết, chấp hành lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề
nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ);
nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tình phải bị
xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của
người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp
luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự
và hết thời hiệu của bản án); nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác, sức
mạnh không thể chống lại được).
c) Bên cạnh các quan điểm đã nêu, quan điểm của GS.TSKH luật
Naumôv A.V là rõ hơn cả, khi ông viết: “Tất cả các trường hợp này đều loại
trừ cả tính trái PLHS, cả tính nguy hiểm cho xã hội, cả tính chất lỗi, cả tính
phải bị xử phạt của hành vi và do đó, cả tính chất tội phạm của nó”.
d) Sau khi nhà làm luật Liên Bang Nga đã chính thức ghi nhận trong
Chương 8 BLHS năm 1996 hiện hành, bản chất pháp lý của những trường
hợp này là “Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (các Điều
37 - 42), thì hầu hết các nhà hình sự học Nga đều đồng nhất với quan điểm coi

chúng chính là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi;…
2) Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay về bản chất
pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn tồn tại năm quan điểm
chính như sau [14, tr.512-513]:
a) Hầu hết các nhà hình sự học (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, TS Ngô
Ngọc Thủy, TS Nguyễn Mạnh Kháng…) đều coi chúng là các tình tiết loại trừ
12


tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và quan điểm này được thể hiện
trong hầu hết các giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung).
b) PGS.TS Kiều Đình Thụ quan niệm chúng là những tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự.
c) TS. Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Đinh Văn Quế có cùng chung một
quan điểm – đều gọi chúng là các trường hợp loại trừ TNHS.
d) Tác giả Phạm Hải Đăng quan niệm chúng là những trường hợp
không phải là tội phạm.
e) Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Văn
Cảm khi cho rằng bản chất pháp lý đó là các trường hợp (tình tiết) loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi với các lý do sau đây [14, tr.513, 515, 516):
Nếu phân tích theo phép biện chứng duy vật và logic của vấn đề, thì
trong nghiên cứu khoa học bao giờ người nghiên cứu cũng phải lần lượt đi
theo thứ tự từ A rồi mới đến B, C… (chứ không thể chưa qua A, mà lại đi
thẳng vào B rồi mới quay lại khẳng định cho A là làm ngược).
Theo cách hiểu trên thì tội phạm tự bản thân nó là một hành vi, nên khi
bàn về bản chất pháp lý của hành vi đó chúng ta cần phải lần lượt phân tích
theo một thứ tự gồm hai bước: Bước 1 – phân tích các dấu hiệu (A) của nó
xem thử hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu không phải là tội
phạm thì do thiếu dấu hiệu nào trong năm dấu hiệu được thừa nhận chung mà
tính chất tội phạm của nó được loại trừ; bước 2 – bàn về vấn đề trách nhiệm

hình sự với tính chất là hậu quả của việc thực hiện hành vi đó (B) trong từng
trường hợp tương ứng cụ thể như thế nào (được loại trừ TNHS - nếu hành vi
không phải là tội phạm hoặc là phải chịu TNHS - nếu nó là tội phạm), chứ
không thể ngay từ đầu đã bỏ qua bước 1 để sang bước 2.
Nếu xem xét như bước 1 đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy rõ bản chất
pháp lý của tất cả sáu trường hợp đang nghiên cứu trong Phần chung BLHS
13


Việt Nam năm 1999 hiện hành (bao gồm: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực
hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi được thực hiện
bởi người không có năng lực trách nhiệm hình sự, phòng vệ chính đáng, tình
thế cấp thiết và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể) đều là
các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi vì việc gây thiệt hại về mặt
pháp lý hình sự trong các trường hợp này đều thiếu một trong các dấu hiệu
của tội phạm.
Như vậy, xuất phát tự sự phân tích trên có thể nhận thấy:
 Ngay từ bước 1 chúng ta đã khẳng định được sự loại trừ tính chất tội
phạm của hành vi trong sáu trường hợp đã nêu trên được quy định trong Phần
chung BLHS Việt Nam năm 1999 và tương ứng như vậy, theo nguyên tắc
pháp chế không có tội phạm, không có hình phạt nếu luật không quy định thì
đương nhiên chúng là những trường hợp loại trừ TNHS hay nói một cách
khác – trong cả sáu trường hợp này chủ thể của hành vi không có TNHS.
 Chúng ta không thể khẳng định rằng chúng là những trường hợp loại
trừ “tính chất nguy hiểm cho xã hội” của hành vi, vì việc gây thiệt hại về mặt
pháp lý hình sự trong tất cả những trường hợp này rõ rang đều nguy hiểm cho
xã hội.
 Chúng ta không thể gọi chúng là những trường hợp loại trừ tính “trái
pháp luật” của hành vi, vì nếu là trái pháp luật, thì những trường hợp này sẽ
có giới hạn rất rộng, bao gồm cả các hành vi cần phải được điều chỉnh bởi

một số ngành luật khác nữa chứ không chỉ bởi PLHS.
 Đồng thời, không thể bỏ qua bước 1 mà vội đi thẳng sang bước 2 để
khẳng định ngay hậu quả của việc thực hiện hành vi rằng chúng là những
trường hợp “loại trừ trách nhiệm hình sự” được.
Từ những lập luận khoa học trên GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã khẳng
định: “Dưới góc độ pháp lý hình sự, bản chất pháp lý chung, đầy đủ và toàn
14


diện của tất cả sáu trường hợp đã nêu trong Phần chung BLHS năm 1999 là
các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” [14, tr.517].
Tuy đồng tình với quan điểm khoa học của GS.TSKH. Lê Văn Cảm về
bản chất pháp lý của sáu trường hợp như: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực
hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu TNHS, hành vi được thực hiện bởi người
không có năng lực TNHS, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể là các trường hợp (tình tiết)
loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn
này, tác giả xin phép được sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự” bởi lẽ nó không mâu thuẫn với thuật ngữ “các trường hợp
(tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” vì suy cho cùng thì hậu quả
pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống
nhau – không phải chịu trách nhiệm hình sự [Xem: 56, tr.19]. Hơn nữa việc
sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” là phù hợp
với quy định tại Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) và phù hợp với
thực tiễn xét xử.
1.1.3. Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của
chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Điều 2 BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 quy định: "Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự". Như vậy, chỉ một người phạm một tội do BLHS quy

định mới phải chịu TNHS. Pháp luật Việt Nam quy định, một người phải chịu
TNHS khi đáp ứng đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có một số hành vi tuy về hình thức có các
dấu hiệu cấu thành của một tội phạm cụ thể, nhưng về nội dung những hành
vi đó lại chứa đựng một số tình tiết làm loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
(hoặc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi) hay nói cách khác, do thiếu
15


ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên hành vi ấy không bị
coi là tội phạm và người thực hiện nó không phải chịu TNHS (hay được loại
trừ TNHS). Các hành vi ấy thực tế gây thiệt hại cho Nhà nước, cho tổ chức
hoặc cá nhân nào đó, nhưng nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, cộng đồng và yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm… thì thiệt hại đó là không đáng kể so
với lợi ích mà các hành vi đó mang lại.
1) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các
trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong BLHS Việt Nam hiện hành.
BLHS Việt Nam hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như
các trường hợp loại trừ TNHS thành một chế định riêng biệt mà mới chỉ quy
định sáu trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự cùng một chương với
các quy định về tội phạm (Chương III) bao gồm:
a) Sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực
hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong
trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả
của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
b) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (khoản 1, Điều
13 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc

chữa bệnh”.
c) Phòng vệ chính đáng (khoản 1, Điều 15 BLHS Việt Nam năm
1999): “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm
các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
16


d) Tình thế cấp thiết (khoản 1, Điều 16 BLHS Việt Nam năm 1999):
“Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một
thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế
cấp thiết không phải là tội phạm”.
e) Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể chưa được quy định
thành một điều luật riêng, nó được quy định tại khoản 4, Điều 8 BLHS Việt
Nam năm 1999 với tên gọi “Khái niệm tội phạm”như sau: “Những hành vi
tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không
đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
f) Hành vi do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
cũng chưa được quy định thành một khoản, điều luật riêng biệt mà đó chỉ là
quy định gián tiếp từ Điều 12 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định về “tuổi
chịu trách nhiệm hình sự” như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”. Như vậy, người chưa đủ 14 tuổi thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội.

Nghiên cứu BLHS Việt Nam hiện hành cho thấy vẫn chưa có sự thống
nhất trong việc sử dụng thuật ngữ tên gọi các trường hợp này (Xem: 41, tr.18):
hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể, phòng vệ chính đáng, tình thế
cấp thiết thì “không phải là tội phạm”; sự kiện bất ngờ, hành vi do người chưa
đủ tuổi chịu TNHS thực hiện, tình trạng không có năng lực TNHS thì “không
phải chịu trách nhiệm hình sự” hay trong Phần các tội phạm BKHS Việt Nam
17


năm 1999, các nhà làm luật Việt Nam còn quy định một trường hợp được coi là
“không có tội” (khoản 6 điều 289 BLHS quy định về tội đưa hối lộ)… Thuật
ngữ “loại trừ trách nhiệm hình sự” duy nhất được sử dụng tại đoạn 2 điều 53
BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
Như vậy, tuy có sự khác nhau về tên gọi với từng trường hợp cụ thể
nhưng bản chất và hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – được loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi, hay nói cách khác hậu quả pháp lý là không phải chịu trách nhiệm
hình sự. (Xem: 41, tr.19). Tuy nhiên việc quy định chung các trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự cùng một Chương với các quy định về tội phạm làm
cho hình thức mâu thuẫn với nội dung, chưa thể hiện đầy đủ và rõ ràng bản
chất pháp lý của chế định này.
2) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các
trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi
năm 2015).
Dự thảo BLHS Việt Nam sửa đổi năm 2015 đã có nhiều tiến bộ khi ghi
nhận chế định các trường hợp loại trừ TNHS thành một Chương riêng biệt
trong BLHS (Chương IV) với tên gọi “Những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự”. Việc quy định chế định này thành một chương riêng trong
Dự thảo BLHS Việt Nam năm 2015 đã đảm bảo được sự thống nhất, đồng bộ
trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng những

quy định về chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; bên cạnh
đó nó còn thể hiện sự phát triển trong công tác lập pháp khi ghi nhận trên thực
tế nguyên tắc tiến bộ và dân chủ của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ một cách
vững chắc các quyền con người cũng như lợi ích của xã hội.
Xung quanh vấn đề tên gọi của Chương IV được quy định trong Dự
thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) thì vẫn còn nhiều tranh luận. Bên

18


×