ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------
NGUYỄN THỊ HỒNG
TIỂU THUYẾT TRĂM NĂM CÔ ĐƠN CỦA
G.MARQUEZ DƢỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 60220245
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Duy Hiệp
Hà Nội – 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU __________________________________________________ 3
1. Lý do chọn đề tài ________________________________________3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ________________________________4
1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ________________________12
3. Phƣơng pháp nghiên cứu _________________________________12
4. Đóng góp của luận văn __________________________________14
5. Cấu trúc đề tài _________________________________________14
CHƢƠNG 1. MACÔNĐÔ VỚI NHỮNG GIẤC MƠ ÁM ẢNH ____15
1.1 Ucsula với nỗi sợ tội loạn luân___________________________ 15
1.1.1 Loạn luân và những giải thích cổ điển __________________16
1.1.2 Ucsula người phụ nữ luôn bị ám ảnh bởi tội loạn luân _____17
1.2. Hôsê Accađiô Buyênđya con ngƣời hai cá tính và giấc mơ về
những phát minh khoa học _________________________________20
1.2.1 Hôsê Accađiô Buyênđya con người hai cá tính cô đơn trong nỗi
ám ảnh về tội lỗi trong quá khứ ____________________________20
1.2.2 Hôsê Accađiô Buyênđya trăn trở về những phát minh khoa học __23
1.3. Cuộc đời chinh chiến của Aurêlianô và những nỗi ám ảnh về
những lời tiên tri _________________________________________26
1.3.1 Cuộc đời chinh chiến ________________________________26
1.3.2 Nỗi ám ảnh về những lời tiên tri ______________________ 29
Tiểu kết: ________________________________________________31
CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT CÔ ĐƠN BỊ ÁM ẢNH TÍNH DỤC _____32
2.1. Vấn đề tình yêu, tính dục trong sáng tác của Gabriel Garcia
Marquez ________________________________________________34
2.2. Yếu tố tính dục trong tác phẩm Trăm năm cô đơn _________ 38
2.2.1 Macondo không gian mang tính dục ___________________ 38
2.2.2. Nhân vật mang tính dục, mối quan hệ chằng chéo giữa những
người cận huyết _________________________________________44
2.2.3 Rêmêđiốt – người đẹp nhân vật miễn dịch với tính dục giữa thế
giới đầy dục tình ___________________________________________ 51
Tiểu kết: ________________________________________________53
CHƢƠNG 3. VÔ THỨC TẬP THỂ TRONG ___________________ 55
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN ______________________________________ 55
3.1 Vô thức một vấn đề khoa học ____________________________56
3.2. Vô thức trong vấn đề sáng tạo văn chƣơng ________________57
3.3 Vô thức của tập thể trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn ______61
3.3.1. Những ám ảnh về thực tại khách quan của Gabriel Garcia
Marquez _______________________________________________61
3.3.2. Bi kịch trong dòng họ Buyênđya một nỗi ẩn ức vô thức ____63
3.3.3. Vô thức giữa cái bản ngã, bất lực dồn nén trong tình yêu __68
1
Tiểu kết: ________________________________________________72
KẾT LUẬN _______________________________________________ 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ___________________________________75
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lời giới thiệu đầu sách Trăm năm cô đơn, Nguyễn Trung Đức
từng viết: “Cho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất
của Gabriel Garcia Marquez, nhà văn người Côlômbia người được giải
Nobel về văn học năm 1982. Trăm năm cô đơn ra đời năm 1967 đã gây dư
luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ.
Theo số liệu của tác giả đến năm 1970, Trăm năm cô đơn được in bằng
tiếng Tây Ban Nha hơn nửa triệu bản, chưa kể hai lần in ở Cuba xã hội chủ
nghĩa (một lần hai vạn bản, lần sau tám vạn bản) và mười bảy hợp đồng xin
phép tác giả được dịch tác phẩm này ra các thứ tiếng khác. Sau gần hai
mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt khắp nơi trên hành tinh chúng ta để
đến với mọi người và mọi nhà. Rõ ràng Trăm năm cô đơn là một cuốn sách
ăn khách mặc dù tác giả của nó không viết với mục đích câu khách.” (8,5)
Trăm năm cô đơn để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc bởi những
trang viết đầy trăn trở của Marquez, độc giả như bị cuốn sâu vào thế giới cô
đơn của con người, với vòng luẩn quẩn và ám ảnh quanh dòng họ bảy đời
đang bị lưu đày vào cõi cô đơn, sống lay lắt vào nỗi nhớ và không thôi trốn
chạy lo sợ về tội loạn luân. Chính sự hấp dẫn của những trang viết đầy trăn
trở này tôi chọn đề tài “Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez
dƣới góc nhìn phân tâm học”.
Qua việc nghiên cứu này, tôi muốn tìm hiểu xem những ám ảnh của
các thế hệ Buyênđya, cũng là nỗi ám ảnh sâu xa của tác giả, những giá trị
văn hóa mà tác giả và cuốn sách để lại cho chúng ta.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đây là cuốn tiểu thuyết gây chấn động bao thế hệ người đọc, vì thế cho
đến nay tầm ảnh hưởng và sức cuốn hút của cuốn sách vẫn chưa dừng lại.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu tham gia tìm hiểu nhiều góc cạnh của vấn đề
trong tác phẩm. Nhiều công trình khoa học đã để lại những dấu ấn sâu sắc
trong giới phê bình văn học. Do hạn chế về ngoại ngữ nên tôi không thể
tổng hợp hết tất cả những công trình nghiên cứu mà chỉ khảo sát những
trang viết tiêu biểu bằng tiếng Anh và tiếng Viết dưới sự hỗ trợ của đồng
nghiệp về viêc tìm tài liệu tiếng Anh.
Ở Việt Nam, việc tiếp cận tác phẩm qua nhiều bản dịch của nhiều dịch
giả, nhưng đáng chú ý nhất là bản dịch của Nguyễn Trung Đức, Nxb Văn
học, HN, 2004. Tác giả đã đưa ra những nhận định khái quát về vấn đề cốt
truyện đề tài, kết cấu và thời gian nghệ thuật, nhân vật và thông điệp ... Từ
khi tác phẩm được dịch sang tiếng Việt đã có nhiều công trình nghiên cứu
để lại nhiều dấu ấn sâu sắc.
Đầu tiên phải kể đến đề tài cấp bộ do PGS.TS Bửu Nam chủ nhiệm
(2002-2005): Đặc điểm khuynh hướng và sự phát triển của văn học Mỹ
Latinh nửa đầu thể kỉ XX trong phần phụ lục 3: Các tác giả và tác phẩm
tiêu biểu cho tiểu thuyết và truyện ngắn Mỹ Latinh từ những năm 60 đến
nay dành dung lượng bàn đến Marquez trong đó đã bàn luận nhiều vấn đề
từ góc độ liên văn bản (tiểu thuyết huyền thoại đã tiết chế nhiều chất liệu
dân gian của Châu Mỹ Latinh, một cách tự do và sáng tạo, vay mượn các
motif trong Thánh kinh và các huyền thoại cổ đại, sử dụng các tình tiết
trong truyền thuyết lịch sử, các sự kiện có thật), từ cấp độ kí hiệu học (mô
hình hệ giới dưới hình thức làng Macondo); đề cập đến vấn đề thời gian
lịch sử và thời gian vòng tròn theo chu kỳ … Nhà nghiên cứu khẳng định:
cách kể chuyện của Marquez được xem như tiêu biểu cho chủ nghĩa huyền
ảo nhưng đây là một thứ chủ nghĩa hiện thực huyền ảo theo phương thức
4
hài, lướt qua một cách thản nhiên giữa hiện thực và cái kỳ diệu để làm kinh
ngạc các nhân vật ngờ nghệch trong khi đương đầu với một thế giới mà họ
không hiểu thấu. Nhưng sự hài hước này lại đi kèm với một cảm giác trắc
ẩn, xót xa mà tác giả có vẻ như chia sẻ với các số phận nhân vật. Tuy chỉ
dành một phần để bàn về tác phẩm Trăm năm cô đơn nhưng công trình
nghiên cứu này đã gợi mở nhiều điều cho những người nghiên cứu về
Marquez. Đặc biệt ở khía cạnh các yếu tố huyền ảo, tính hài hước, yếu tố
thời gian, cách xây dựng cốt truyện, tuyến nhân vật … Cách đặt ngược vấn
đề: phải chăng tiểu thuyết là một ẩn dụ của sự thất bại của quá trình hiện
đại hóa? khiến cho người đọc phải suy ngẫm.
Đào Thị Thu Hằng trong bài viết Yếu tố huyền ảo trong tác phẩm
Kawabata và Marquez trong cuốn Văn học so sánh – nghiên cứu và triển
vọng, Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (tuyển chọn), NXB
ĐHSP, 2005. Tác giả đã so sánh chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng
tác của hai nhà văn nói trên và qua đó đã khám phá đặc sắc về không gian
và thời gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn.
Đỗ Xuân Hà trong bài viết Tiểu thuyết hiện thực huyền ảo: Trăm năm
cô đơn của Gabriel Garcia Marquez trong cuốn Văn học thế giới thể kỉ
XX, NXB ĐHQGHN, 2006. Trong bài viết này, Đỗ Xuân Hà thông qua
những nét tiêu biểu nhất về con người cũng như những sáng tác của
G.Marquez trong Trăm năm cô đơn trên các mặt nội dung và nghệ thuật và
chỉ ra phương pháp sáng tác trong Trăm năm cô đơn là chủ nghĩa huyền ảo
kết hợp với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo và các yếu tố hoang đường.
Chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia
Marquez của Lê Huy Bắc, NXBGD Việt Nam, 2009. Đây là chuyên luận
công phu về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, gồm 2 phần chính: chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia Marquez, ngoài ra còn có phần phụ
lục trích đăng những bài dịch có liên quan đến chủ đề. Trong phần một,
5
người viết đã đưa ra nhiều lý giải về khái niệm như cái kì ảo, cái huyền ảo,
văn học huyền ảo, văn học hiện thực huyền ảo, nhà văn hiện thực huyền ảo.
Trong đó đáng chú ý là sự phân kì văn học huyễn ảo. Lê Huy Bắc cho rằng
lịch sử văn học huyễn ảo có thể được chia làm ba giai đoạn tương ứng với
cách thức sáng tạo và tiếp nhận văn học: giai đoạn 1 (cái huyễn tưởng):
thời trung cổ, khi con người xem những yếu tố siêu nhiên, kì quái, hoang
đường … như những cái tất nhiên, lí trí chưa phải là cơ sở để con người tin
tưởng. Giai đoạn 2 (cái kì ảo): thời cận hiện đại. Cài kì ảo xuất hiện trong
văn học với mục đích gây nên sự hoang mang cho người đọc. Đây là điều
mà văn học thời kì trước không mấy bận tâm. Giai đoạn 3 (cái huyền ảo)
gắn với thời hiện đại, hậu hiện đại. Cái huyền ảo xuất hiện như một sự đối
thoại trở lại, bản chất là bộc lộ sự bất tin. Chương 2 ở phần 1, tác giả khái
quát hệ thống về văn học hiện thực huyền ảo, bao gồm: nguồn gốc và lịch
sử, nguyên nhân ra đời, xác định khái niệm, đặc điểm, tiếp nhận văn học
hiện thực huyền ảo ở Việt Nam. Lê Huy Bắc cũng bổ sung thêm một số
nguyên nhân như thói quen xem cái hoang đường như cái thường nhật của
người bản địa, tìm sự an ủi trong thế giới siêu nhiên trước cuộc sống quá
khắc nghiệt. Chương 3 phần 1, Lê Huy Bắc điểm qua những tên tuổi thuộc
khuynh hướng này như F.Kafka, J.Borges, T.Morrison … Nhà nghiên cứu
quan niệm Kafka là người khai sinh ra khuynh hướng hiện thực huyền ảo
thế kỉ XX. Trong những trang tiếp theo Lê Huy Bắc giới thiệu và nhận xét
tổng quan về các nhà văn hiện thực huyền ảo. Đó là những nghiên cứu có
tính gợi mở cho những người quan tâm tìm hiểu về những nhà văn này.
Phần 2 của chuyên luận gồm 6 chương, được sắp xếp theo thứ tự:
Chương 1: Lịch sử Comonbia và hiện thực của Marquez
Chương 2: Những người thầy
Chương 3: Khát vọng trở thành người giỏi nhất thế giới
Chương 4: Tự sự nhiều điểm nhìn trong Cụ già với đôi cánh khổng lồ
6
Chương 5: Những cô gái điếm buồn của Marquez
Chương 6: Trăm năm cô đơn
Đóng góp của phần 2 này chủ yếu tập trung ở chương 4,5,6 những
chương 1,2,3 mang tính tổng thuật nhiều hơn là nghiên cứu. Trong giới hạn
của bài viết này, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu chương 6. Trong chương này
tác giả chia làm 7 phần: 1. Câu chuyện một trăm năm, 2. Gia hệ Trăm năm
cô đơn, 3. Nhân vật, 4. Huyền thoại về cái cô đơn, 5. Macondo huyền thoại,
6. Trần thuật mê lộ - biên niên sử huyền thoại, 7. Ngọn sóng văn chương.
Trong 7 phần nêu trên thì phần 1,2,3 mang tính chất tóm tắt và giới thiệu,
có sự tương đồng với nhiều những tài liệu tham khảo trước đó. Sự dẫn nhập
này mang tính hướng dẫn ban đầu cho những ai mới tiếp xúc với văn bản,
khá bối rối với gia hệ phức hợp trong tác phẩm. 4 phần còn lại nhà nghiên
cứu đi sâu khảo sát về các huyền thoại, nghệ thuật trần thuật. Trong Huyền
thoại về cái cô đơn, Lê Huy Bắc có tiếng nói chung với những nhà nghiên
cứu trước đó, cho rằng nỗi cô đơn là chủ đề chính trong sáng tác của
Marquez, nó vừa là nỗi cô đơn bản thể vừa là sự cảnh báo để hướng đến sự
đoàn kết để mưu cầu hạnh phúc. Trong Trăm năm cô đơn người ta có thể
tìm thấy muôn vàn cấp độ, dạng hình cô đơn, từ Jose luôn cảm thấy ám ảnh
về tội lỗi trong quá khứ, những đam mê khoa học bất tận, Arcadio cô đơn
vì hôn nhân cận huyết, Aureliano Segundo cô đơn ngay trong sự giàu sang
bất tận của mình, Rebeca cô đơn vì thói quen lập dị không giống ai …
Macondo huyền thoại nhấn mạnh hình tượng làng Macondo. Tính huyền
thoại thể hiện ngay trong tên gọi của ngôi nhà, sự xuất hiện và biến mất. Nó
là sự ẩn dụ về bức tranh phát triển của xã hội, thế giới loài người. Trần
thuật mê lộ - biên niên sử huyền thoại là phần mà nhà nghiên cứu dụng
công nhiều hơn cả. Mê lộ là biểu trưng cho Trăm năm cô đơn, thể hiện rõ
qua thế giới nhân vật, kết cấu, tự sự đa chủ thể, huyền thoại … Mê lộ dẫn
dụ người đọc vào thế giới huyền thoại, bị đánh đáo các nhân vật, các giá
7
trị. Nó khiến cho yếu tố hiện thực và huyền ảo đan cài vào nhau một cách
chặt chẽ, tự nhiên.
Nói đến những công trình nghiên cứu về Trăm năm cô đơn, cũng phải
kể đến hệ thống các bài báo, bài nghiên cứu đăng trên tạp chí. Trước hết là
bài nghiên cứu: Nhân vật và thông điệp của Nguyễn Trung Đức in
trong phần mở đầu quyển sách Márquez Gabriel García (2004), Nguyễn
Trung Đức dịch, Trăm năm cô đơn, Nxb Văn học. Nguyễn Trung Đức đã
chỉ ra những bức thông điệp gắn với tên của nhân vật trong sáng tác
của nhà văn đạt giải Nobel 1982. Ông xác định những vòng tròn đan lồng
trong truyện, vòng tròn cuộc đời của đại tá Aureliano, vòng tròn xoay
quanh hai con người sinh đôi, sự quẩn quanh của những số phận sự nhầm
lẫn trong cách nhìn nhận của Ursula và bao trùm lên tất cả là sự xoay vòng
của thế giới, cuộc sống. Nhà nghiên cứu khát quát bằng bức thông điệp của
chính tác giả Trăm năm cô đơn từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời
sáng tác là cuốn sách về sự cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi
người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng
chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để “sáng tạo ra một thiên huyền
thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai
bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu
có lối thoái và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ
bị kết án Trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai
để tái sinh trên mặt đất này”. Trong bài viết này, Nguyễn Trung Đức đã đi
sâu tìm hiểu những bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm,
đặc biệt là qua số phận của nhân vật. Đó là một phương thức thâm nhập sâu
để tìm hiểu tư tưởng của nhà văn. Nhưng chúng tôi cho rằng ngoài những
điều nêu trên còn có một bức thông điệp khác quan trọng là sự dự báo. Một
dòng họ có thể bị tuyệt diệt, vùng đất huyền thoại có thể bị nhấn chìm, loài
8
người cũng có thể biến mất như chưa từng tồn tại nếu con người vẫn cứ xây
cất cho mình những tòa tháp cô đơn.
Phan Tuấn Anh có bài đăng trên Tạp chí Sông Hương 259/9-10 số ra
ngày 01/10/2010, tựa đề Hình tượng Macônđô trong Trăm năm cô đơn.
Trong bài viết này tác giả đã kiến giải về hình tượng Macondo – hình
tượng xuyên suốt nhiều sáng tác quan trọng của Marquez , từ vấn đề nguồn
cội tên gọi, tần suất đến ý nghĩa biểu trưng. Người viết đưa ra nhận xét khá
táo bạo: “Có thể nhận định rằng, nếu “nỗi cô đơn” là chủ đề lớn nhất mà
Marquez dành cả cuộc đời để theo đuổi, thì hình tượng trung tâm nhất, có
tính xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn người Colombia lại không phải
là một nhân vật cụ thể, mà chính là hình tượng về vùng đất Macondo.”
Bằng sự đối chiếu với những cứ liệu lịch sử, văn hóa, Tuấn Anh đã chỉ ra
mối liên hệ mật thiết giữa sự phát triển của làng Macondo với tiến trình
phát triển của Châu Mỹ Latinh. Những cứ liệu này soi sáng và chứng minh
rõ hơn ý nghĩa biểu trưng của Macondo – xã hội Mỹ Latinh thu nhỏ.
Nghiên cứu về tác phẩm này còn có các đề tài nghiên cứu khoa học các
cấp, khóa luận, luận văn, tôi xin được điểm qua một số công trình: Khóa
luận tốt nghiệp Khảo sát tình yêu, nhục thể, nỗi cô đơn trong hai tiểu thuyết
Trăm năm cô đơn và Tình yêu thời thổ tả của Garcia Marquez của Nguyễn
Thị Tuyết Lan – ĐHSP Huế, 2005. Khóa luận tập trung vào hai vấn đề:
khảo sát tình yêu, nhục thể, nỗi cô đơn trong Trăm năm cô đơn và Tình yêu
thời thổ tả; những phương thức nghệ thuật thể hiện tình yêu, nhục thể, nỗi
cô đơn trong tác phẩm này. Tình yêu, nhục thể, nỗi cô đơn là 3 yếu tố quan
trọng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong sáng tác của nhà văn người
Comlombia này. Lí giải được mối quan hệ của 3 yếu tố này sẽ lí giải được
sự ý nghĩa của sự xuất hiện dày đặc những phen làm tình, nỗi cô đơn tràn
ngập trong sáng tác của ông. Công trình nghiên cứu trên hai tác phẩm đỉnh
cao của nhà văn biểu trưng cho nỗi cô đơn của Châu Mỹ Latinh, tìm hiểu
9
toàn diện các phương thức nghệ thuật thể hiện như người kể chuyện không
thời gian, giọng điệu, điểm nhìn nhân vật trong hai tác phẩm. Tuy nhiên,
công trình này chưa đạt đến độ chín, vì chưa lí giải được mối quan hệ giữa
nhục thể và tình yêu, tính dục, nỗi cô đơn … Việc trình bày và khảo sát
song hành hai tác phẩm này chưa sâu nên dẫn đến sự rời rạc.
Một công trình khác có thể nói đã chạm đến độ chín là Luận văn Thạc
sĩ Thời gian và không gian huyền thoại trong Trăm năm cô đơn của
Gabriel Garcia Marquez của Nguyễn Thị Hảo – ĐHKHXH và NV Hà Nội,
2010. Luận văn này đã chạm đến vấn đề đặc biệt lí thú trong sáng tác nổi
danh của Marquez Trăm năm cô đơn. Luận văn đã đưa ra một cái nhìn tổng
quan và khá hoàn thiện về đặc điểm của văn học Mĩ Latinh và chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo. Thời gian được tái hiện qua những cấp độ: trật tự, thời
lưu, tần suất; cùng với điềm báo. Sự xoay vòng của thời gian mang tính ẩn
dụ. Không gian bàng bạc màu sắc kì ảo. Chốn – không thời gian huyền
thoại góp phần quan trọng chuyển tải thông điệp vì hòa bình, đoàn kết nhân
loại – mặt trái của cái cô đơn. Còn thêm Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật
truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez của Lê Thị Thanh Thủy – ĐHKHXH
và NV Hà Nội, 2011. Đỗ Duy Chiến của ĐHSP đã Bảo vệ luận văn (2011)
“Tính dục trong Trăm năm cô đơn của G.G.Marquez” đã đề cập đến các
vấn đề nhân vật đam mê tính dục; tính dục với đề tài loạn luân và vô thức
và nghệ thuật biểu hiện tính dục.
Một số bài nghiên cứu bằng tiếng Anh, tôi khảo cứu được như:
Gabriel Garcia Marquez do Harold Bloom (giáo sư khoa Nhân học
trường ĐHH Yale) hiệu đính và giới thiệu, NXB Chealsea. Đây là một
cuốn sách tập hợp nhiều bài nghiên cứu công phu về Marquez. Trong đó có
một số bài viết về tác phẩm Trăm năm cô đơn như: Gabriel Garcia
Marquez từ Aracata đến Macondo, Những sản phẩm khoa học của Jose
10
Acardio Buendia – con người đi tìm bản thể của Floyd Merrell, Trăm năm
cô đơn – huyền thoại và lịch sử của Roberto Gonzalez Echevarria …
Một cuốn sách khác khảo sát trên diện rộng về tác phẩm này là Trăm
năm cô đơn: những phương thức thâm nhập của Regina Janes, NXB
Twayne, 1991. Regina Janes đã cung cấp một phân tích toàn diện hấp dẫn
về Trăm năm cô đơn, bàn đến nhiều phương thức đọc, giải thích tác phẩm
này theo các phương cách khác nhau. Janes tiếp cận tác phẩm này qua bình
diện văn học và lịch sử, bình luận theo nhiều hướng: chính trị, tiểu sử học,
liên văn bản, từ góc độ của huyền thoại và hiện thực huyền ảo. Trong quá
trình đó, Janes cung cấp một cuộc khao sát có sức thuyết phục về tiểu
thuyết, và kết luận, “Nếu Garcia Marquez có bước đi riêng tạo ra huyền
thoại hiện đại, thì dường như đó là mong muốn giữ gìn, bồi dưỡng, nuôi
dưỡng ý thức của chúng ta về cõi không thực. Không chỉ thể giới thực mà
chúng ta đang sa lầy mà cả những cuốn sách chúng ta đọc cũng đang phủ
nhận chính chúng ta, một cách tạm thời, cần có một thế giới tốt hơn để có
thể xác tín được.”
Một công trình khác đã định hình rõ nét hơn về lí thuyết ứng dụng
trong nghiên cứu Trăm năm cô đơn là cuốn sách mang nhan đề: Phê bình
hậu hiện đại về Trăm năm cô đơn của Marquez của tác giả Jofer Serapio,
đăng trên trang web: . Theo tác giả bài
viết, yếu tố thể hiện rõ nhất tính hậu hiện đại của tác phẩm này là hiện thực
huyền ảo. Và nhà văn đã có sự pha trộn nhiều thể loại, lãng mạn, lịch sử, kì
ảo.
Những công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài mà tôi khảo
sát được trên đây tuy chưa bao quát hết nhưng cũng chứng tỏ được chiều
dài và chiều rộng của những công trình nghiên cứu về tác phẩm nổi danh
này. Từ đó mà tôi có thể nhìn nhận một cách khái quát về những hướng
nghiên cứu tiếp theo. Trong luận văn này, tôi đi sâu nghiên cứu tác phẩm
11
Trăm năm cô đơn với đề tài “Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez
dưới góc nhìn phân tâm học”. Tôi khẳng định, tuy đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu mở ra nhiều hướng tiếp cận và khai thác tác phẩm này
nhưng đây là đề tài hoàn toàn mới.
Mỗi công trình nghiên cứu cho chúng ta nhìn nhận những góc phát hiện
mới, góc tiếp cận mới về tiểu thuyết kinh điển mọi thời đại Trăm năm cô
đơn. Chúng ta hiểu vì sao, mà trải qua bao nhiêu năm từ khi mới ra đời cho
đến nay tác phẩm này vẫn là đề tài được nhiều người quan tâm, các thế hệ
học viên luôn lấy đó là mảnh đất trù phú để khai thác. Không nằm ngoài
những niềm đam mê đó, tôi vẫn muốn tìm đến Trăm năm cô đơn với hướng
tiếp cận mới, tuy nó có bề dày những công trình nghiên cứu đồ sộ.
1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này tập trung nghiên cứu Trăm năm cô đơn của Gabriel
Garcia Marquez dựa trên lí thuyết phân tâm học. Tập trung phân tích vào
những giấc mơ, những nỗi ám ảnh về tính dục và sự vô thức của những con
người.
Đề tài này được nghiên cứu trên phạm vi bản dịch tác phẩm Tiếng Việt
của dịch giả Nguyễn Trung Đức, tái bản lần thứ năm, NXB Văn học, 2004.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đảm bảo nghiên cứu tác phẩm trên bình diện sâu rộng tôi kết hợp
sử dụng các phương pháp khác nhau như: phê bình phân tâm học, phê bình
huyền thoại, nghiên cứu liên ngành kết hợp với các thao tác: đối chiếu, so
sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Trong đó phương pháp chính là phân
tâm học
Thuật ngữ phân tâm học do Sigmund Freud đặt ra năm 1896. Thời
gian đầu, đó chỉ thuần túy là một khoa học và là một phương pháp trị bệnh,
sau ảnh hưởng lan rộng sang địa hạt văn học, trở thành một phương pháp
12
phê bình. Với tư cách là một phương pháp phê bình, phân tâm học xem tác
phẩm văn học như một thế giới huyễn tưởng phản ánh những ước muốn âm
thầm cũng như những dồn nén trong vô thức của tác giả. Xin lưu ý, với các
nhà phân tâm học, vô thức không phải là sự thiếu vắng ý thức mà là một
cõi riêng.
Sự khủng hoảng của tâm lý học cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã dẫn
đến sự ra đời của Phân tâm học. Một trường phái tâm lý học khách quan đi
sâu nghiên cứu hiện tượng vô thức trong con người, coi vô thức là mặt chủ
đạo của đời sống tâm lý người, là đối tượng thực sự của tâm lý học.
Người sáng lập ra Phân tâm học là S.Freud (1856 - 1939) bác sĩ thần
kinh và tâm thần người Áo gốc Do Thái, sinh ở Tiệp Khắc, du học ở Áo,
Pháp, Đức … Ngay từ khi chữa chứng dồn nén và chứng thần kinh tương
khắc, Freud đã đi tới kết luận không chỉ riêng con bệnh mà cả những người
bình thường cũng mang trong mình những xung khắc tâm thần tương tự.
Căn cứ vào những quan sát, thí nghiệm và kinh nghiệm thực hành khi điều
trị cho nhiều người bệnh ở Vienna, Freud đã xây dựng cơ sở cho khoa phân
tâm học vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Trong cuốn Nghiên cứu về chứng
loạn thần kinh xuất bản vào năm 1895, ông đã bộc lộ niềm tin rằng “yếu tố
chính trong sự rối loạn về tính dục là sự suy yếu gây ra cảc bệnh tâm thần,
lẫn bệnh tâm thần suy nhược”. Đó là nền tảng của thuyết phân tâm. Vài
năm sau đó, Freud hoàn chỉnh được lý thuyết của ông về sức đối kháng,
hiện tượng chuyển biến tính dục tuổi thơ, mối tương quan giữa những ký
ức bất mạn và ảo tưởng, giữa cơ chế tự vệ và sự dồn nén.
Học thuyết phân tâm của Freud được xây dựng trên khái niệm vô thức.
Freud quan niệm, tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất
là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý
con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tùy
theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện
13
ra theo những quy luật khác hẳn với ý thức. (26,185). Vai trò quan trọng
của cái vô thức trong đời sống tâm lý người được S.Freud làm rõ trong các
công trình nghiên cứu về giấc mơ về lý thuyết tính dục cũng như ở nhiều
vấn đề khác được đề cập liên quan trong các nghiên cứu cụ thể của ông.
Dựa vào những thuyết phần tâm học Freud đề ra về hiện tượng ảo giác
trong giấc mơ và những rối loạn tính dục, tôi chủ công khai thác những
khía cạnh của tác phẩm Trăm năm cô đơn trên hai phương diện này để từ
đó tìm ra cái cô đơn, vô thức ngàn đời của dòng họ bị lưu đày tram năm.
4. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý thuyết: Luận văn đưa ra hướng tiếp cận mới, phương pháp
phân tâm học. Với bình diện đi sâu vào những ám ảnh trong mỗi nhân vật
và tập thể Macondo, cũng như những trăn trở trên những trang viết của
Gabriel Garcia Marquez. Trên cơ sở tổng quan có chọn lọc của những công
trình nghiên cứu đi trước để có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ về tác phẩm này.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần định hình rõ nét hơn trong việc
ứng dụng phân tâm học, để khám phá ra những ám ảnh, những con người
trăn trở, trằn trọc, luẩn quẩn trong cái cô đơn của ngàn đời, sự bế tắc,
những ham muốn, nhục dục … những giấc mơ vừa thực vừa ảo.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Macondo với những giấc mơ ám ảnh
Chƣơng 2. Nhân vật cô đơn bị ám ảnh tính dục
Chƣơng 3. Sự vô thức của tập thể
14
CHƢƠNG 1. MACÔNĐÔ VỚI NHỮNG GIẤC MƠ ÁM ẢNH
Năm 1900. Freud công bố công trình Lý giải các giấc mơ. Việc phân
tích cặn kẽ các giấc mơ của người nào đó đã trải qua là một thành công của
ông, con đường đi đến làm rõ cái vô thức. Các giấc mơ đã tạo nên sự hấp
dẫn đặc biệt đối với Freud, bởi theo ông, có thể từ việc phân tích các giấc
mơ, chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn cấu trúc tâm thần người, rõ hơn về cái
vô thức trong con người. Từ các ca lâm sàng trong chữa trị bệnh tâm thần,
ông đã đi đến kết luận: Các giấc mơ đều không xa lạ với người nằm mơ,
đều luôn khó hiểu với người đó. Các giấc mơ đều có một ý nghĩa nhất định
nào đó. Không những giấc mơ có một ý nghĩa mà ý nghĩa của giấc mơ là
nguyên nhân gây nên giấc mơ. Trong các giấc mơ có các “ý tưởng tiềm ẩn”
cần được khám phá. Nội dung biểu hiện của giấc mơ có thể thực hiện trá
hình những ham muốn bị dồn nén vào vùng vô thức. Bên cạnh đời sống
thực tại, các nhân vật của Marquez còn sống trong đời sống của những giấc
mộng. Giấc mơ là thuộc tính của tư duy thần thoại. Các nhà khoa học tin
rằng giấc mơ ẩn chứa nhiều điều thần bí nhưng liên quan nhất định đến đời
sống thực của con người, có sự liên thông giữa thế giới mộng ảo và đời
sống tâm lí cũng như quá trình nhận thức của con người thường nhật. Và
Marquez đã để cho nhân vật của mình bơi trong cuộc chu du tâm tưởng để
đến với miền đất còn bí ẩn và không kém phần phức tạp.
1.1 Ucsula với nỗi sợ tội loạn luân
Nỗi ám ảnh về tội loạn luân luôn đeo bám những con người thuộc
dòng họ Buyênđia. Họ cô đơn giữa ngôi nhà của mình, cô đơn giữa những
người thân, cô đơn trên chính chiếc giường của mình và nỗi cô đơn đó ám
ảnh cả trong những giấc mơ của họ.
15
Người phụ nữ luôn có ý thức và canh cánh trong mình nỗi ám ảnh về
tội loạn luân. Chính Ucsula đã được mẹ kể về tấm gương về người sinh ra
một đứa trẻ có đuôi lợn. Cũng chính điều này đã đeo bám bà ngay trong
đêm tân hôn, và một năm sau ngày cưới. Sau này, sau mỗi lần sinh nở bà
luôn cẩn thận kiểm tra kĩ khắp người đứa trẻ. Nỗi ám ánh đó, khiến bà luôn
canh cánh, nhắc nhớ các con mình về nỗi kinh hoàng của tội loạn luân. Sự
minh mẫn của một bà lão ngoài trăm tuổi đã để bà chứng kiến những thế hệ
con cháu Buyênđia có một sự khác lạ, sự cô đơn, cá tính khác người còn
đáng sợ hơn cái đuôi lợn.
1.1.1 Loạn luân và những giải thích cổ điển
Từ giữa thể kỉ XIX loan luân được xem là một sự ghê tởm tự phát, nỗi
sợ hãi về những hậu quả xấu của quan hệ huyết thống. Các lý thuyết do các
nhà nhân học đưa ra từ cuối thể kỉ XIX để giải thích việc cấm loạn luân có
ba loại; tâm lý học, sinh học, xã hội – văn hóa.
Các lý thuyết thứ nhất giả định rằng việc cấm loạn luân là nhắc lại,
dưới hình thức một quy tắc, một sự ghê tởm tự phát ở con người đối với
một đối tác của mình. Nhà tộc học người Phần Lan Edward Westermark
năm 1891, nhà tính dục học Anh Havelock Ellis năm 1906 đã phát triển ý
tưởng cho rằng sự chung sống lâu dài giữa những thành viên cùng một gia
đình sẽ làm cho ham muốn mất đi.
Lý thuyết thứ hai coi những hậu quả sinh học là có thể có của sự tái
sinh sản giữa những người cùng dòng máu. Sự kết hợp giữa những người
thân thích ở con người, động vật và một số thực vật có thể có những hiệu
quả di truyền có hại theo hai kiểu: tăng dần số của những khuyết tật di
truyền và trong trường hợp lặn lại ở nhiều thế hệ, một hiện tượng “suy sụp
về dòng máu”, còn gọi là “thoái hóa”. Ở các nước phương Tây. Đó là lý do
thường được nêu ra. Trong các tín ngưỡng trên toàn thế giới, thường xảy ra
16
những sự sinh đẻ không bình thường được gán cho những tập quán loạn
luân đã biết rõ hay được giả định.
Cuối cùng, lý thuyết thứ ba dựa vào những lý do xã hội hay những
biểu tượng tập thể. Tiểu luận của Emile Durkheim công bố năm 1897 là
một ví dụ rõ ràng. Ông khẳng định tất cả các xã hội đều phải trải qua giai
đoạn thờ vật tổ. Thế nhưng, việc thờ vật tổ cũng chìm ngập trong nỗi khiếp
sợ máu vật tổ, mà vật tổ cũng lại thuộc nhóm họ hàng của người ta. Phạm
tội loạn luân là có nguy cơ tiếp xúc với máu vật tổ ấy. Do đó mà có sự cấm
kỵ thật sự về hành vi này. Ý tưởng của Durkheim là có hiệu quả: nó không
chỉ tính đến sự loạn luân sinh học mà đến cả những quy tắc riêng của mỗi
xã hội về cái bên trong và cái bên ngoài của nhóm cùng dòng máu. Nhưng
ý tưởng ấy không có chỗ dựa vững chắc: việc thờ vật tổ có lẽ không bao
giờ tồn tại dưới hình thức người ta gán cho nó, ít ra cũng không phải là một
giá trị phổ biến, và sự sợ máu không có lien quan tất yếu với những quan
hệ tính dục.
Theo từ điển Tiếng Việt: “loạn luân dùng để chỉ quan hệ nam nữ về
xác thịt với nhau giữa những người cùng máu mủ trái với phong tục tập
quán hoặc pháp luật.” (24,574) Dù trong bất cứ trường hợp nào, vô tình hay
cố ý thì hành động loạn luân vẫn không thể chấp nhận được và đáng lên án
một cách khắt khe. Trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, dòng họ Buênđia
trong vòng 100 năm trải qua bảy đời và hầu như đời nào cũng có dấu hiệu
loạn luân. Mà xét cho cùng nguyên nhân sâu xa của việc đó chính là việc
họ cố chạy trốn tội loạn luân nhưng lại không sao trốn thoát sự cám dỗ một
cách vô thức và sự ám ảnh bởi mặc cảm trong quá khứ.
1.1.2 Ucsula người phụ nữ luôn bị ám ảnh bởi tội loạn luân
Trong Trăm năm cô đơn, Ucsula là người phụ nữ cần mẫn, năng nổ,
thông minh và kiên định. Dưới sự chăm lo của bà, gia đình Buendia là tâm
17
điểm của làng Macondo – một gia đình giàu có luôn mở rộng cửa đón khác.
“Đức cần mẫn của Ucsula sánh ngang với đức cần mẫn của chồng mình. Bà
năng nổ, mảnh khảnh, kiên nghị. Người đàn bà run rẩy mà chẳng một ai
nghe thấy cất tiếng hát trong suốt cả cuộc đời mình, là người có mặt ở khắp
chốn kể từ lúc trời vừa bừng sáng cho đến khi tối mịt, lúc nào cũng bận bịu
với đàn gà nhíp nhíp. Nhờ có bà, nền đất nện không chút bụi, tường đất
không vẩy bẩn, bàn ghế giường tủ do chính bàn tay vợ chồng bà làm nên
lúc nào cũng sạch sẽ, và những rương hòm cũ đựng quần áo lúc nào cũng
dịu thơm mùi húng dổi.” (8,29) Bà nuôi nấng và dõi theo tất cả những
thành viên trong gia đình, đấu tranh để bảo vệ họ, để rồi lại bất lực khi
nhận thấy sự trái khoáy của những đứa con “Con cái thừa kế tính nết điên
khùng của cha mẹ chúng” và “…sự trái thói trái tính của các con trai mình
quả thật cũng đáng kinh sợ như cái đuôi con lợn” (8,61). Sống để canh
chừng con cháu, bà rút ra rằng thời gian cứ quay tròn, thế hệ trước cứ giống
thế hệ sau, mãi là tù nhân của sự cô đơn, mãi không thoát khỏi tội kiếp loạn
luân của dòng họ. Bà là minh chứng cho sự nỗ lực, kiên cường của người
phụ nữ của gia đình. Gia cảnh nhà Buendia tan vỡ một phần cũng chính vì
thiếu một bàn tay như Ucsula chăm sóc khi bà đã về già và mù lòa.
Hơn ai hết, Ucsula là người hiểu rõ về hậu quả của tội loạn luân, cũng
chính vì điều này đã đẩy bà vào cảnh ngộ trớ trêu, luôn sống vô thức với
những ám ảnh quá khứ. Bà cố sống để căn dặn con cháu về cái nguy cơ
đáng sợ về đứa con có cái đuôi lợn. Nhưng rồi không trốn thoát khỏi mặc
cảm và bị cuốn sâu vào vực thẳm của sự cô đơn. Trong thế giới cô đơn và
hoài nhớ ấy những người trong dòng họ Buênđia đã phạm phải tội loạn
luân. Như vậy, có thể thấy vì sợ loạn luân nên cố chạy trốn, chạy trốn rồi
lại mắc vào đúng tội lỗi đó. Hình ảnh : “Một đứa con suốt đời mặc quần
rộng thùng thình và chết vì bệnh chảy máu khi đã sống một cuộc đời bốn
mươi hai tuổi xuân luôn là trai tân, bởi y sinh ra và lớn lên với cái đuôi
18
xoắn hình mở nút chai ở cuối có một túm lông” (8,49). Đây chính là sản
phẩm của bà cô Ucsula lấy ông chú Hose Accadio Buendia. Đó là tấm
gương tày kiếp mà mãi đến già bà vẫn không quên cảnh báo với con cháu
hãy mở to mắt mà nhận họ hàng.
Dựa vào sơ đồ phả hệ của dòng họ Buenđia, chúng ta có thể nhận thấy
hầu như các thế hệ trong dòng họ không thoát khỏi tội loạn luân với những
người cận huyết. Trước khi Ucsula Igoaran lấy Hose Accadio Buendia thì
tổ tiên của họ cũng đã phạm phải điều cấm kỵ đó. Chính họ đã dẫm lên vết
xe đổ đó. Là người sống gần hết chiều dài của dòng họ, chứng kiến các thế
hệ con cháu ra đời, trưởng thành và hủy diệt, bà như sự tổng kết chiêm
nghiệm về những thói hư tật xấu của dòng họ. Bà sống để canh chừng, coi
sát nhưng cuối cùng vẫn không thể thoát khỏi vòng xoáy của định mệnh.
“Con cái nhà đến lạ, tất cả đều giống nhau như hệt. Lúc đầu được nuôi
dưỡng rất chu đáo, do đó tất cả đều ngoan ngoãn, nết na, hiền lành dường
như đến con ruồi cũng không đủ can đảm để giết. Ấy thế mà râu vừa lún
phún đã lại hư thân mất nết rồi.” (8,180). Trước quyết định đám cưới của
cặp đôi Rebecca và Hose Accadio bà đã phản đối kịch liệt, và xem như họ
đã chết. Nhà văn Marquez xây dựng tình huống, ngôi nhà hạnh phúc của
cặp đôi ngay cạnh nghĩa trang cũng để ám chỉ họ sống đó nhưng đã chết từ
lâu rồi. Người phụ nữ đã cố sống đến 6 đời và không ít lần bà than phiền về
cố máy thời gian quay vòng “Thời gian như thể quay tròn hay sao ấy.”
Cũng chính bà là người đã phải thừa nhận những cá tính khác biệt của con
cháu còn đáng sợ hơn những đứa con đuôi lợn, “Con cái nhà này đều thế
cả. Chúng điên rồ ngay từ bé.” (8,213). Bà canh chừng, giám sát, và không
khi nào nguôi nhắc con cháu hãy mở to mắt mà nhận họ hàng. Nhưng bà
vẫn không sao ngăn được những cuộc tình loạn luân giữa mẹ con của
Accadio và Pilar Tenera. Accadio thèm khát mẹ của mình như một con thú
dục tình “Pilar Tenera người từng làm cậu nổi máu dê ở trong phòng làm
19
ảnh, là sự thèm khát không thể cưỡng lại nổi đối với cậu ta, cũng từ thuở
ban đầu đối với Hose Accadio và sau đó Aureliano.” (8,138). Những đam
mê cuồng si của Aureliano Hose với thân hình ngà ngọc của cô mình là
Amaranta “Lần đầu nhìn thấy cô tắm, cậu bé chỉ chú ý đến cái rãnh sâu sâu
giữa hai núm vú trên ngực cô mình … sau đó … cậu không để ý đến cái
rãnh sâu mà lại run bắn người vì thích thú lạ lùng trước hai bầu vú hồng
hồng căng mọng” (8,169)… Và như thế suốt cuộc đời Ucsula chứng kiến
các thế hệ con cháu của dòng họ tìm đến dục vọng như một sự giải thoát
nhưng họ càng vùng vẫy trong bể dục thì lại càng đau khổ và tiến dần đến
sự hủy diệt hoàn toàn.
1.2. Hôsê Accađiô Buênđya con ngƣời hai cá tính và giấc mơ về những
phát minh khoa học
1.2.1 Hôsê Accađiô Buênđya con người hai cá tính cô đơn trong nỗi ám
ảnh về tội lỗi trong quá khứ
Cụ tổ của dòng họ Buendia, Hôsê Accađiô Buênđya cưới người em họ
Ucsula, bỏ làng đi sau khi giết một người bạn. Hôsê Accađiô Buênđya là
người sáng lập ra làng Macondo và là người lãnh đạo sáng suốt của làng
trong một thời gian dài. Ông là người có cả sức mạnh cơ bắp và trí tuệ. Hai
đặc điểm này di truyền cho con cháu theo hai nhánh: Những Arcadio khỏe
mạnh, sống sôi nổi, còn những Aureliano thông minh những cô đơn và lánh
đời. Sau khi bị mê hoặc bởi những phát minh của người Digan. Hôsê
Accađiô Buênđya say sưa lao vào những tìm kiếm khoa học, rồi phát điên
và cuối cùng chết dưới tán cây dẻ.
Những hành động của Hose Accadio Buendia là điển hình, điềm báo
cho những đặc tính nổi trội để di truyền cho những thế hệ sau. Việc Hose
Accadio Buendia lấy em họ Ucsula là hành động mang tính loạn luân, hành
động vượt ra ngoài chuẩn mực đạo đức muôn đời. Và sau những thế hệ con
20
cháu cũng đam mê tính dục và đặc biệt ham muốn với những người cận
huyết. Hành động giết chết Prudencio Aghila là hành động bạo lực, hiếu
chiến khiến ông phải day dứt cả đời. Ông buộc phải bỏ làng đi để tìm thấy
sự thanh thản và trở thành một tù trưởng giỏi. Chính đặc tính này đã di
truyền cho nhiều thế hệ sau này đặc biệt là đại tá Aureliano Buendia. Một
hành động nữa của Hose Accadio Buendia cũng được xem là điềm báo cho
đặc tính di truyền của dòng họ Buendia đó là hành động bỏ làng ra đi. Đây
là hành động tự tách mình khỏi cộng động, đẩy mình vào cõi cô đơn tiền
định. Đặc tính này hầu hết các con cháu Buendia đều mắc phải.
Hose Accadio Buendia là người tháo vát, với trí tuệ thông suốt ông đã
bố trí ngôi làng hợp lý và gọn gàng. “…đã bố trí các nhà theo hình thức sao
cho từ mọi nhà đều có thể đi ra sông và không một nhà nào phải gánh nước
vất vả hơn nhà nào, đánh những con đường chạy thật khéo để mọi nhà đều
phải chịu nắng như nhau vào mùa nóng. Chỉ trong ít năm, Macondo là một
làng ngăn nắp gọn gàng và chuyên cần … đó là một làng hạnh phúc, là nơi
chưa một ai ngoài ba mươi tuổi, và chưa hề có người chết”. (8,29) Sức
khỏe và sự thông minh, linh hoạt của Hose Accađiô Buyênđya đã đưa ngôi
làng vùng đầm lầy ngày một hưng thịnh. Cả ngôi làng ngày càng rộn rã
tiếng chim. Nhưng rồi, những tập tục tốt đẹp, sự tháo vát ở Hôsê Accađiô
Buênđya trong thời gian ngắn đã bị cuốn tuột đi bởi những đam mê về đá
nam châm, những tính toán thiên văn, mơ mộng biến chì thành vàng, ước
muốn được biết các kỳ quan của thế giới. Giờ đây Hôsê Accađiô Buênđya
trở thành một người lười nhác, ăn mặc thì lôi thôi, râu ria thì xồm xoàm. Ở
nhân vật này chúng ta dễ dàng nhận ra hai cá tính: một con người khỏe
mạnh, vâm váp, nông nổi, táo bạo, cá tính này được di truyền cho những
thế hệ Accadio và một con người âu sầu nhưng rất thông minh được di
truyền cho những Aureliano. Một trong những điều thú vị ở tiểu thuyết này
21
chính là sự quay vòng, lặp lại của thế hệ sau với thế hệ trước, dường như
đó là bản sao y nguyên về cá tính và số phận.
Vì một sai lầm thời trai trẻ, Hôsê Accađiô Buyênđya đã phải bỏ làng đi
tha hương cầu thực, tìm kiếm một vùng đất mới. Nhưng cũng từ đây, anh
sống cuộc đời cô đơn với nỗi ám ảnh tội lỗi. Hình ảnh của Prudenxio
Aghila xuất hiện thường xuyên trong tâm tưởng của ông. Một lần trong cơn
sốt vì mất ngủ, sau khi làng Macondo có người chết đầu tiên, ông đã gặp
linh hồn của Prudenxio Aghila “Khi nhận ra Prudenxio Aghila, ông ngạc
nhiên thấy rằng người chết cũng già theo năm tháng. Hose Accadio
Buendia cảm thấy rùng mình vì nỗi nhớ nhung … Sau nhiều năm ở cõi chết
nỗi nhớ nhung người sống mới da diết làm sao, sự gắn kề một cái chết khá
vốn đã tồn tại ngay trong cõi chết mà chính Prudenxio Aghila vừa rồi mong
cho kẻ thù tệ mạt nhất của mình mới đáng sợ làm sao. Prudenxio Aghila đã
tốn nhiều thời gian đi tìm ông. Prudenxio Aghila hỏi thăm ông qua những
linh hồn chết ở thung lũng Uga, qua những linh hồn chết từ vùng đầm lầy
tới …” (8,102) Và suốt thời gian đó ông luôn nhớ tới Prudenxio Aghila “Cả
đêm ông nằm trên giường, mắt mở thao láo, mà gọi Prudenxio Aghila, gọi
Menkyadet, gọi tất cả những người đã chết để họ tới cùng chia sẻ với ông
nỗi chán chường.” (8,103) Trong suốt phần đời còn lại bên gốc cây dẻ,
sống với kí ức, nói chuyện với kí ức. Mặc dù người chăm sóc ông, trò
chuyện với ông là Ucsula nhưng thực ra “người duy nhất mà cụ tiếp xúc từ
đã lâu là Prudenxio Aghila. Với dáng vẻ tiều tụy vì tuổi già trong cõi âm
phủ, Prudenxio Aghila cứ mỗi ngày hai lần đến nhà nói chuyện với cụ. Hai
người nói chuyện về gà chọi. Hai người hứa hẹn với nhau sẽ xây dựng một
chuồng nuôi những chú gà chọi tuyệt vời, không chỉ để vui vẻ trước một
trận thắng mà còn để giải khuây trong những ngày chủ nhật man mác buồn
ở cõi âm phủ.” (8,167).
22
Như vậy, Hose Accadio Buendia thủy tổ của dòng họ Buendia ở
Macondo đã tự lưu đày vào cõi cô đơn, sống suốt cuộc đời nhức nhối với
tội lỗi trong quá khứ, và đến chết cũng chết trong nỗi cô đơn. Sự cô đơn đã
tồn tại như bản năng của con người “tập trung những ý, hướng, những động
cơ, những ham muốn vĩnh viễn và bất biến mà ý nghĩa của chúng được
quyết định bởi bản năng, còn ý thức của chúng thì không biết được”
(13,1353). Nỗi cô đơn đó xuất phát điểm từ cội nguồn, bản thể riêng của
con người, nó cố hữu, ăn sâu vào tâm tưởng và dần dần đẩy con người vào
cõi tuyệt vọng.
1.2.2 Hôsê Accađiô Buênđya trăn trở về những phát minh khoa học
Đọc Trăm năm cô đơn, chúng ta không chỉ chứng kiến một cuộc chạy
trốn tội loạn luân, chứng tích của cuộc nội chiến giữa Đảng Tự Do và Bảo
thủ, còn chứng kiến những bước chuyển mình của xã hội Mỹ La tinh thu
nhỏ, một Macondo sôi động. Khi người Digan mang đến những phát minh
khoa học, Macondo phút chốc trở thành một thị trấn sầm uất với nghề thủ
công, buôn bán…
Lần theo tiếng chim hót những người Digan đã tìm đến ngôi làng vùng
đồng lầy Maconđo và mang theo những phát minh khoa học của thời đại,
nhưng đối với Macônđô đó hoàn toàn lạ lẫm. Sức cuồn hút của những phát
minh vĩ đại đó đã làm dẫy lên trong Hôsê Accađiô Buênđya những ám ảnh
về thuật giả kim. Tự lưu đày trong căn phòng bày la liệt những dụng cụ thí
nghiệm. Nỗi ám ảnh đó còn biến Hôsê Accađiô Buênđya thành một con
người khác, bỏ bê gia đình, bó buộc mình trong sự trầm mặc và vô hồn.
Hôsê Accađiô Buênđya say sưa và bồng bột lao vào những tìm kiếm khoa
học. Ông tự giam mình trong phòng thí nghiệm, và công việc tìm kiếm
những phát kiến đã ngày càng đưa ông tới bờ vực của sự thất bại. Ông trở
thành một kẻ điên dại và bị trói vào gốc cây dẻ.
23
Tình huống xuất
Phát
hiện các phát
minh
minh
Cứ vào tháng ba Đá nam
Hôsê Accađiô Buênđya với những phát
minh
Hôsê Accađiô Buênđya, người có trí
hàng năm, một gia châm
tưởng tượng thường đi xa hơn cả bản thể
đình di gan rách
của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa
rưới dựng một túp
những phép mầu và trò chuyện huyền ảo,
lều bạt ngay cạnh
nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ
làng … Đầu tiên,
ấy vào việc moi vàng từ trong lòng đất.
họ mang tới đá
nam châm.
người Kính viễn
Những
Hôsê Accađiô Buênđya lại nẩy ra ý định
digan trở lại làng vọng và
sử dụng phát minh ấy như một thứ vũ khí
vào tháng ba, lần kính lúp
… Ông ở lỳ trong phòng nhiều giờ liền,
này họ mang theo
tính toán về những khả năng chiến lược
kính
viễn
của thứ vũ khí mới sáng chế, cho đến khi
vọng và một kính
ông viết được một bản chỉ dẫn mạch lạc,
lúp.
có tính sư phạm và đầy thuyết phục …
một
Cuối cùng, chán chường vì chờ đợi, ông
đành than phiền về sự thất bại của công
việc vừa ở bước khởi đầu.
24