Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN CÁC BƯỚC TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.65 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Mục lục.................................................................................................................1
Mở đầu..................................................................................................................2

1


MỞ ĐẦU
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá
trình khách quan và hợp quy luật và là một nội dung cơ bản của công cuộc đổi
mới của các nước xã hội chủ nghĩa mà trong đó có nước ta. Trong điều kiện của
nước ta hiện nay, trước sự chuyển đổi của nền kinh tế - xã hội, sự bất cập, yếu
kém về số lượng và chất lượng thông tin,...thì khả năng có những quyết định
chưa khoa học, chưa phù hợp là rất lớn. Quyết định quản lý liên quan đến thành
bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình, quản lý; Quyết định quản lý có
thể khoa học, đúng đắn, phù hợp nhưng cũng có thể thiếu khoa học và không
phù hợp vớỉ đối tượng quản lý. Quyết định quản lý được coi là sản phẩm của
người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là ở khâu ra
quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Toàn bộ quá trình quản lý
thực chất là quá trình ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định. Vì
vậy, để có quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý
phải nắm vững các đặc điểm, vai trò và yêu cầu của quyết định quản lý, phương
pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách khoa học. Bằng những
kiến thức về khoa học quản lý, em sẽ phân tích làm rõ các nội dung trên.
Tiểu luận gồm 3 phần:
Phần I: Yêu cầu của một quyết định quản lý
Phần II: Các bước tổ chức thực hiện quyết định quản lý
Phần III: Liên hệ thực tiễn.

2



Phần I: YÊU CẦU CỦA MỘT QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
1.1 Khái niệm, phân loại đặc điểm, vaỉ trò quyết định quản lý
1.1.1

Khái niệm quyết định quản lý

Quyết định là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong hoạt động quản lý và
cũng có nhiều định nghĩa:
Theo nghĩa chung nhất thì quyết định là một hành động lựa chọn một giải
pháp cho một vấn đề đã được xác định.
Quyết định là hành vi thể hiện ý chí của chủ thể ra quyết định, ý chí đó
được định ra và thể hiện dước một hình thức nhất định, có tính bắt buộc đối với
đối tượng phải thi hành nhằm đạt được mục đích mà chủ thể đó mong muốn
(Viện nghiên cứu hành chính: Một số thuật ngữ hành chính, Nxb thế giới, 2000).
Quyết định quản lý là những hành vi sáng tạo của chủ thể quản lý nhằm
định ra mục tiêu, chương trình và tính chất hoạt động của tổ chức để giải quyết
một vấn đề đã chín muồi trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan
và phân tích, xử lý những thông tin về tổ chức và môi trường (giáo trình Khoa
học quản lý. Nxb KHKT, 2001).
Theo nghĩa rộng, quyết định là hành vi chỉ sự lựa chọn hay phán quyết
của cá nhân hay tổ chức về một vấn đề nào đó trong những điều kiện, hoàn cảnh
nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu của cá nhân hay tập thể.
Khác với quyết định thông thường, quyết định quản lý gắn với hoạt
động của chủ thể quản lý có quyền uy tác động vào đối tượng quản lý để đạt
mục tiêu nhất định.
Quyết định quản lý là hành vi có tính chỉ thị của chủ thể quản lý để định
hướng, tổ chức và kích thích hoạt động của đối tượng quản lý nhằm thực hiện
các mục tiêu đề ra.
1.1.2. Phân loại quyết định quản lý:


Quyết định có nhiều loại, nhiều mức độ và tác động trong những phạm vi
nhất định. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta phân chia quyết định
quản lý thành nhiều loại:
3


Theo tính chất của quyết định quản lý: người ta chia thành quyết định
chiến lược, quyết định sách lược và quyết định tác nghiệp. Quyết định chiến
lược liên quan tới việc giải quyết những vấn đề hệ trọng của hệ thống quản lý,
những vấn đề mang tính chất trung hay dài hạn. Quyết định sách lược nhằm giải
quyết những vấn đề quan trọng và mang tính ngắn hạn hoặc trung hạn. Quyết
định tác nghiệp là những quyết định liên quan tới những vấn đề có tính chất tác
nghiệp, diễn ra thường xuyên, liên tục.
Theo chủ thể ra quyết định quản lý: có thể phân chia thành quyết định cá
nhân và quyết định tập thể. Quyết định cá nhân là quyết định do một cá nhân
đưa ra. Quyết định tập thể là quyết định do hai hay nhiều người đưa ra.
Theo phạm vi tác động: có quyết định phạm vi rộng (toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, ngành, lĩnh vực); quyết định phạm vi hẹp (trong một tổ chức, doanh
nghiệp, tập thể nhỏ).
Theo ngành, lĩnh vực: có các quyết định quản lý khác nhau do tính chất
đặc thù về ngành nghề, lĩnh vực. Theo cách phân chia này, có bao nhiêu ngành,
lĩnh vực thì có bấy nhiêu loại quyết định quản lý (trong lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội) thì có các quyết định quản lý tương ứng phản ánh tính chất đặc thù
của các lĩnh vực đó.
1.1.3

Đặc điểm của quyết định quản lý:

Quyết định quản lý là sản phẩm trí tuệ của chủ thể quản lý, được thể hiện

chủ yếu dưới dạng thông tin, là kết quả của quá trình lao động của người quản
lý. Do đó, việc nhìn nhận, đánh giá quyết định quản lý là điều không dễ dàng và
có nhiều điểm khác với các sản phẩm thông thường.
Quyết định quản lý ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý bởi vì một
quyết định đúng đắn, kịp thời sẽ đem lại sự giàu có, phát triển ngược lại nếu
quyết định sai và không đúng lúc có thể gây trì trệ, ách tắc và nhiều khi dẫn đến
phá sản. Để phát huy tối đa hiệu quả của quyết định, người lãnh đạo quản lý
phải lựa chọn và ra quyết định kịp thời ngay tại điểm quyết định phát huy tác
dụng ở mức cao nhất và phải thay đổi quyết định khi quyết định thể hiện sự trì
trệ, kìm hãm sự phát triển.
4


Quyết định quản lý là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý trên cơ sở
nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, nắm bắt thực trạng và tình
huống cụ thể về hệ thống quản lý. Do đó, quyết định quản lý có thể khoa học,
đúng đắn, phù hợp nhưng cũng có thể thiếu khoa học và không phù hợp với
đối tượng quản lý.
Chất lượng quyết định quản lý không chỉ phụ thuộc vào số lượng, chất
lượng thông tin về đối tượng quản lý mà còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ,
năng lực của chủ thể quản lý và cả quan điểm, tư cách, đạo đức và cá tính của
người ra quyết định quản lý.
Quyết định quản lý chỉ tác động trong phạm vi nhất định, trong chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà chủ thể quản lý do luật định hoặc được sự ủy
quyền của cấp trên. Để giảm thiểu tình trạng lạm quyền trong việc ra quyết định
quản lý, cần đặc biệt coi trọng việc gắn quyền hạn với trách nhiệm của mỗi cấp,
mỗi người trong việc ra quyết định quản lý.
1.1.4 Vai trò quyết định quản lý:

Các quyết định quản lý có vai trò quan trọng, là trung tâm của hoạt động

quản lý. Sự thành công hay thất bại trong các tổ chức phụ thuộc vảo các quyết
định của các nhà quản lý đúng hay sai. Các quyết định quản lý có vai trò định
hướng toàn bộ hoạt động của tổ chức, đảm bảo các nguồn lực, phối hợp nhiều
bộ phận lại với nhau, động viên hay bắt buộc người lao động thực hiện kế
hoạch. Các quyết định quản lý là cơ sở để kiểm tra, đánh giá hoạt động của các
thành viên, bộ phận trong tổ chức.
Toàn bộ quá trình quản lý thực chất cũng là quá trình ra các quyết định và
tổ chức thực hiện quyết định quản lý.
Quyết định quản lý và quá trình tổ chức thực hiện là yếu tố cơ bản nhất
chi phối toàn bộ quá trình vận động, phát triển của hệ thống quản lý.
Chất lượng của việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý là
thước đo năng lực của người lãnh đạo, quản lý ở mọi lĩnh vực, mọi cấp khác nhau.
Quyết định quản lý tác động mạnh tới hệ thống quản lý. Nếu việc ra quyết
định quản lý đúng đắn và tổ chức thực hiện tốt các quyết định đó thì sẽ đạt được
5


những kết quả như mong muốn. Ngược lại, thiệt hại sẽ rất nghiêm trọng nếu
quyết định không đúng đắn hoặc tổ chức thực hiện nó không tốt. Những quyết
định ở tầm chiến lược, chính sách quốc gia sẽ tác động đến toàn bộ đời sống
kinh tế - xã hội, dân cư trong một thời gian rất dài, thậm chí ảnh hưởng đến vận
mệnh, sự sống còn của cả quốc gia, dân tộc.
1.2. Yêu cầu của một quyết định quản lý
1.2.1. Có căn cứ khoa học và toàn diện:

Một quyết định khoa học là quyết định phù họp với định hướng, mục tiêu
của tổ chức, phù hợp với quy luật, nguyên tắc, nguyên lý khoa học và xu thế
khách quan, phù hợp với điều kiện cụ thể, với tình huống cần đưa ra quyết định
và được xây dựng dựa trên cơ sở vận dụng các phương pháp khoa học.
Một quyết định toàn diện là quyết định có nội dung bao quát được nhiều

vấn đề, thỏa mãn cao các mục tiêu, phù hợp với những ràng buộc nhất định,
được sự ủng hộ của số đông.
1.2.2

Có tính khả thi:

Quyết định quản lý cần phải được bảo đảm bằng những nguồn vật tư, tài chính,
lao động, trang bị kỹ thuật, bộ máy, con người và thời gian để có thể huy động,
khai thác nhằm thực hiện quyết định.
1.2.3 Bảo đảm tính thống nhất:
Các quyết định phải liên hệ và thống nhất vớỉ nhau, bổ sung cho nhau,
giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa quyết định trước và
quyết định sau. Trong cùng một khoảng thời gian không được mâu thuẫn, chồng
chéo hay phủ định nhau.
1.2.4

Đúng thẩm quyền

Việc ra quyết định quản lý phải gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi bộ phận và mỗi người lãnh đạo, quản lý. cấp
dưới không được ra quyết định vượt quá phạm vi chức năng, thẩm quyền của
mình, cũng như không được trốn tránh, ỷ lại vào cấp trên trong việc ban hành
6


các quyết định quản lý thuộc thẩm quyền, cấp trên không được lạm quyền cấp
dưới, không bao biện làm thay cấp dưới.
1.2.5

Kịp thời và chính xác


Một quyết định của tính kịp thời là quyết định ban hành vào thời điểm
quyết định có hiệu quả cao nhất, đáp ứng được sự mong đợi của đối tượng quản
lý. Quyết định phải được đề ra đúng thời điểm, đúng đối tượng, đúng tình huống
cần thiết, nội dung diễn đạt đầy đủ ở mức độ cần thiết, đảm bảo sự chính xác, rõ
ràng, không để xảy ra tình trạng có nhiều cách hiểu khác nhau.
1.2.6

Tính kinh tế và tính hiệu quả cao

Kết quả đem lại so với chi phí cho việc ra quyết định và tổ chức thực hiện
quyết định phải cao. Quyết định quản lý phải dựa trên sự phân tích, so sánh, lựa
chọn phương án tối ưu nhằm thực hiện mục tiêu quản lý đề ra với hiệu quả cao
nhất, đồng thời đảm bảo hài hòa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, hướng tới
công bằng, tiến bộ xã hội.

7


Phần II: CÁC BƯỚC TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
Khi ban hành được một quyết định đúng đắn đã có ý nghĩa to lớn nhưng
việc tổ chức thực hiện quyết định cũng có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc
đưa quyết định đó đi vào cuộc sống, được tiến hành qua các bước như:
2.1. Truyền đạt quyết định:
Quyết định phải được truyền đạt tới đối tượng thực hiện một cách: kịp
thời, chính xác (trung thực với nội dung quyết định); Nguyên vẹn (đầy đủ,
không được cắt xén nội dung quyết định).
Quyết định cần nêu rõ những nội dung cụ thể: Cần làm gì? Ai làm? ở
đâu? Khi nào? Làm bằng cách nào? Ai kiểm tra? Khi nào thì kiểm tra? Sau đó
quyết định phải được thông báo, truyền đạt kịp thời, chính xác cho đối tượng

thực hiện.
2.2. Lập kế hoạch thực hiện:
Kế hoạch tổ chức thực hiện quyết định phải căn cứ vào giới hạn hiệu lực
của quyết định và phải theo đúng gỉới hạn đó. Cần xây dụng kế hoạch hành động
theo thời gian, không gian tùy theo tính chất, phạm vi của quyết định. Kế hoạch
bao gồm việc sử dụng phối hợp các biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục
trong quá trình thực hiện, các phương án tổng hợp huy động nhân lực, tài chính,
vật tư, lực lượng dự trữ cho việc thực hiện quyết định; phương án về tổ chức bộ
máy 5 cán bộ cho việc thực hiện quyết định nếu cần thiết.
2.3. Bố trí nguồn lực thực hiện quyết định:
Đây là khâu trực tiếp biến quyết định thành hiện thực, trong đó quan trọng
nhất là điều động, bố trí cán bộ, huy động các nguồn vật tư, tài chính, tổ chức dự
trữ, dự phòng cho việc điều hành thực hiện. Để thực hiện thắng lợi những quyết
định có ý nghĩa đổi mới, phải bố trí những cán bộ thông suốt và nhất quán với tư
tưởng đổi mới. Sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong tổ chức phân công, bố trí
lực lượng thực hiện sẽ làm cho những quyết định bị vô hiệu hóa.

8


2.4. Kiểm tra việc thực hiện quyết định:
Kiểm tra việc thực hiện quyết định có vai trò quan trọng, góp phần quan
trọng nâng cao trách nhiệm của người thực hiện, mặt khác, kịp thời phát hiện
những sai sót, lệch lạc trong quá trình thực hiện cũng như trong bản thân quyết
định để có những biện pháp khắc phục hoặc phòng ngừa kịp thời. Kiểm tra còn
phát hiện những gương tốt, những kinh nghiệm tốt để động viên, khen thưởng
kịp thời, nhân rộng những kinh nghiệm tốt và phát hiện những khả năng chưa sử
dụng và huy động kịp thời những khả năng đó.
Có nhiều hình thức kiểm tra: có thể dùng các chuyên gia kiểm tra theo các
chức năng, nhiệm vụ, chuyên môn; kiểm tra thông qua dư luận quần chúng....

2.5. Điều chỉnh quyết định
Điều chỉnh quyết định là công việc cần thiết trong quá trình theo dõi, tổ
chức thực hiện quyết định. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều chỉnh quyết
định: Có thể sai lầm trong bản thân quyết định; do thay đổi lớn hoặc thay đổi đột
ngột các điều kiện thực hiện quyết định; do tổ chức thực hiện không tốt...
Có nhiều mức độ điều chỉnh quyết định khác nhau, có thể điều chỉnh từng
bộ phận, điều chỉnh tiến độ thực hiện, thậm chí thay đổi hẳn quyết định. Trong
điều chỉnh quyết định cần tránh hai khuynh hướng cực đoan: Một là, bảo thủ, trì
trệ, thấy rõ những quyết định sai lầm hoặc không còn phù hợp nữa nhưng không
điều chỉnh; Haỉ là, điều chỉnh liên tục khi không cần thiết, gây ra tâm lý hoang
mang, thiếu tin tưởng cho người thực hiện.
2.6. Tổng kết vỉệc thực hiện quyết định:
Tổng kết là giai đoạn cuốỉ cùng của tổ chức thực hiện quyết định, nó
không chỉ rút ra những bài học cần thiết, bổ sung làm phong phú thêm kiến thức,
kinh nghiệm quản lý mà còn có ý nghĩa giáo dục chính trị, xã hội toàn diện.
Tổng kết thực hiện quyết định: Đánh giá lại chất lượng quyết định quản lý
và chất lượng tổ chức thực hiện quyết định thông qua kết quả mà quyết định
quản lý đó mang lại trên thực tế; Phát hiện những nguồn lực, những khả năng
chưa sử dụng; Tìm ra những sai sót, hạn chế và nguyên nhân của chúng để có
hướng khắc phục, hoàn thiện; Phát hiện những tiềm năng chưa được khai thác,
9


tận dụng có hiệu quả; Nắm vững hơn về đối tượng quản lý, trình độ cán bộ quán
lý, tổ chức bộ máy quản lý, điều kiện thực hiện quyết định quản lý; Rút ra những
bài học kinh nghiệm trong việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định
quản lý nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động quản lý, tạo lập
những cơ sở cho quá trình xây dựng, ra quyết định mới có chất lượng và sát thực
hiệu quả hơn.
Tóm lại, vấn đề ra quyết định quản lý và tổ chức thực hiện quyết định là

một quá trình không hề đơn giản, nó bao gồm nhiều bước phức tạp và gắn với
nó là sự sáng tạo, nhạy bén của tư duy nhà lãnh đạo quản lý trên cơ sở thực tiển
kết hợp với các phương pháp khoa học và các quy luật khách quan.

10


Phần III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Quyết định về triển khai, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra năm 2015
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Bước 1: Tryền đạt quyết định:
Căn cứ các quy định của pháp luật về công tác kiểm tra (Luật Thanh tra,
Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm
y tế); Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
Căn cứ chương trình công tác của Ngành Bảo hiểm xã hội năm 2015, Tổng
Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định ban hành kế hoạch kiểm tra
toàn ngành năm 2015 với các nội dung cụ thể:
- Kiểm tra về công tác quản lý, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội:
công tác thu; cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH; quản lý đối tượng hưởng bảo
hiểm xã hội hàng tháng và chi trả các chế độ ngắn hạn (ốm đau, thai sản, nghỉ
dưỡng sức – phụchồi sức khỏe,…);
- Kiểm tra về công tác quản lý, thực hiện chính sách bảo hiểm y tế: các
hành vi gian lận, trục lợi quỹ bảo hiểm y tế; công tác cấp, quản lý và sử dụng thẻ
bảo hiểm y tế;
- Kiểm tra việc thực thi công vụ của công chức, viên chức ngành Bảo
hiểm xã hội;
- Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng.
Kèm theo Quyết định là kế hoạch kiểm tra, phối hợp thanh tra, kiểm tra
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và kế hoạch kiểm tra giao cho Bảo hiểm xã hội

các tỉnh, thành phố.
Quyết định này được gửi đến các bộ, ngành có liên quan (Thanh tra Chính
phủ, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Thanh tra Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) để báo cáo. Đồng thời,
11


quyết định cũng được triển khai tới Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố và các
đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam để thi hành.
Bước 2: Lập kế hoạch để thực hiện quyết định
Trên cơ sở quyết định kiểm tra, các đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam và Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố sẽ lập kế hoạch để thực hiện
quyết định, cụ thể:
- Rà soát, nhận định tình hình để xác định số lượng đơn vị trực thuộc, số
lượng doanh nghiệp, cơ sở khám, chữa bệnh, đại lý thu BHXH, BHYT,…cần
kiểm tra hoặc phối hợp với các sở, ngành thanh tra, kiểm tra đảm bảo phù hợp
với kế hoạch Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao.
- Xây dựng kế hoạch chi tiết gồm: mục đích, yêu cầu, nội dung kế hoạch;
xác định quy mô, phạm vi thanh tra, kiểm tra đối với từng đối tượng; phân công
nhiệm vụ; xây dựng thời gian biểu (thời gian thực hiện, thời gian kết thúc); xác
định nguồn lực tài chính, phân công trách nhiệm thực hiện, giám sát, kiểm tra
việc thực hiện.
Bước 3: Bố trí nguồn lực thực hiện quyết định
Sau khi thống nhất với các sở, ngành về kế hoạch kiểm tra, phối hợp
thanh tra, kiểm tra, Bảo hiểm xã hội tỉnh yêu cầu các đơn vị cử cán bộ có năng
lực, kinh nghiệm thực tiễn, phẩm chất, đạo đức lối sống tốt,…tham gia các Đoàn
kiểm tra. Việc triển khai thực hiện hiệu quả quyết định trong quá trình kiểm tra,
thanh tra là vô cùng quan trọng. Vì vậy, Đoàn kiểm tra phải bám sát các quy
định của pháp luật, kiểm tra đầy đủ các nội dung công việc theo quyết định
nhưng không được làm xáo trộn các hoạt động của đối tượng được kiểm tra.

Trong quá trình tổ chức thực hiện nếu gặp khó khăn, vướng mắc phải báo cáo
kịp thời để lãnh đạo xử lý, nếu cần phối hợp tổ chức thực hiện phải có yêu cầu
cụ thể.
Bước 4: Kiểm tra việc thực hiện quyết định
Kiểm tra, đánh giá việc tổ chức thực hiện quyết định là công việc thường
xuyên, để đảm bảo rằng các nhiệm vụ đã được giao phải được thực hiện đầy đủ,
12


đúng quy trình và thời gian quy định, nếu có chậm trễ hay gì lý do khác mà chưa
hoàn thành đúng tiến độ cũng như công việc được giao cần tìm hiểu xác định rõ
nguyên nhân, đề ra biện pháp phù hợp. Theo quy định, đối với ngành Bảo hiểm
xã hội, Ban Kiểm tra được giao giúp Tổng Giám đốc thực hiện nhiệm vụ này.
Việc kiểm tra thực hiện quyết định này sẽ được thực hiện dưới hình thức báo
cáo định kỳ hoặc kiểm tra trực tiếp tại các đơn vị.
Bước 5: Điều chỉnh quyết định
Điều chỉnh quyết định kiểm tra, thanh tra là công việc rất quan trọng. Tuy
nhiên, trong thực tế, việc điều chỉnh này chỉ nằm trong phạm vi điều chỉnh đối
tượng kiểm tra, thanh tra từ đơn vị này sang đơn vị khác hay khi cần phải thực
hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra đột xuất theo sự chỉ đạo của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc khi phát sinh các vụ việc, đơn thư phản ánh của dư
luận và nhân dân.
Bước 6: Tổng kết việc thực hiện quyết định
Đây là bước cuối cùng trong việc triển khai quyết định. Bước này giúp
Bảo hiểm xã hội Việt Nam đánh giá đúng những kết quả đã làm được và kết quả
thu được qua công tác kiểm tra, thanh tra cũng như những việc còn hạn chế, từ
đó có giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, thanh tra; phát hiện
những lỗ hổng trong công tác quản lý của Ngành để chấn chỉnh, kiện toàn kịp
thời; phát hiện, xử lý và răn đe các đơn vị vi phạm các quy định quản lý và quy
định của pháp luật; yêu cầu khắc phục sai phạm của các đối tượng được kiểm

tra,…Đây cũng là bước giúp cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam tiếp tục xác
định những nội dung cần tập trung thanh tra, kiểm tra để chuẩn bị kế hoạch kiểm
tra, thanh tra cho những năm tiếp theo.
Tóm lại: Việc thực hiện quyết định quản lý nói chung và quyết định kiểm
tra, thanh tra nói riêng trong ngành Bảo hiểm xã hội thời gian qua đã được triển
khai thực hiện theo đúng trình tự 6 bước. Tuy nhiên, tùy từng công việc, quyết
định quản lý cụ thể, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đều đã có sự điều chỉnh, vận
dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo thực hiện đầy
đủ, kịp thời các nội dung công việc theo kế hoạch cũng như các nhiệm vụ phát
13


sinh; đồng thời tùy theo yêu cầu nhiệm vụ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có sự
phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho từng cơ quan, đơn vị, đảm bảo
đúng nguyên tắc và phân cấp quản lý, giúp các đơn vị chủ động, trách nhiệm
trong thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

14


KẾT LUẬN
Quyết định quản lý trong cơ chế hiện nay đòi hỏi xây dựng phải căn cứ
khoa học, quyết định quản lý phải phù hợp với yêu cầu các quy luật khách quan,
tuân thủ toàn diện yêu cầu các quy luật thực tế đang hoạt động mới cho phép có
khả năng lựa chọn được quyết định quản lý có chất lượng. Quyết định quản lý
và quá trình tổ chức thực hiện là yếu tố cơ bản nhất chi phối toàn bộ quá trình
vận động, phát triển của hệ thống quản lý. Để tổ chức thực hiện quyết định quản
lý đạt kết quả thì người lãnh đạo quản lý trước hết phải nắm vững các yêu cầu
và các bước tổ chức thực hiện quyết định, phân tích đúng thực trạng, tình huống
cụ thể của đối tượng, có thông tin đầy đủ, chính xác, phải có năng lực chuyên

môn, nắm vững tri thức lý luận và thực tiễn, phù hợp, sáng tạo. Quyết định quản
lý gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người lãnh đạo
quản lý, đòi hỏi người lãnh đạo quản lý có đủ trình độ năng lực, phẩm chất và
đạo đức để thực thi công vụ nhà nước, một quyết định đúng đắn, kịp thời sẽ đem
lại sự phát triển, nhằm đáp ứng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Khoa học Quản lý - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh - Khoa Quản lý Kinh tế - MXB lý luận chính trị - Hà Nội - 2004.
2.

Tập bài giảng của Thầy PGS.TS Nguyễn Hữu Thắng

3.

Một số tài liệu tham khảo khác.

16




×