Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận: PHÂN TÍCH YẾU TỐ HÌNH THÀNH NỀN VĂN HÓA VÀ THIẾT KẾ QUY TRÌNH DUY TRÌ VĂN HÓA TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.91 KB, 14 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH YẾU TỐ HÌNH THÀNH NỀN VĂN HÓA
VÀ THIẾT KẾ QUY TRÌNH DUY TRÌ VĂN HÓA TẠI NGÂN HÀNG
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ NỘI
I.Khái quát về Ngân Hàng Chính sách xã hội Việt nam, chi nhánh Hà Nội,
NHCSXH Việt nam được thành lập năm 2003 sau khi tách ra từ ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam .
Tại Nghị quyết số 05-NQ/HNTW, ngày 10/6/1993 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII, về việc tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn, Đảng ta chủ trương có chế độ tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ chính sách,
vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng; mở rộng hình thức
cho vay thông qua tín chấp đối với các hộ nghèo…
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng và Chiến lược quốc gia về xóa đói
giảm nghèo, năm 1993, Chính phủ đã thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo với số vốn
ban đầu là 400 tỷ đồng, do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng
Ngoại thương và Ngân hàng Nhà nước đóng góp. Quỹ được sử dụng cho vay hộ nghèo
thiếu vốn sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, mức cho vay 500.000 đồng/hộ, người
vay không phải bảo đảm tiền vay.
Từ kinh nghiệm thực tiễn hai năm thực hiện Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo, ngày
31/8/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 525/QĐ-TTg về việc thành lập
Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đặt trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam), hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, để cung
cấp nguồn vốn ưu đãi cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất.
Với mô hình tổ chức được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương trên cơ
sở tận dụng bộ máy và màng lưới sẵn có của NHNo&PTNT Việt Nam, Ngân hàng Phục vụ
người nghèo đã thiết lập được kênh tín dụng riêng để hỗ trợ tài chính cho các hộ nghèo ở
Việt Nam với các chính sách tín dụng hợp lý, giúp hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn


việc làm, tăng thu nhập, từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá và có điều kiện
thoát khỏi đói nghèo.


Tuy nhiên, từ bộ phận quản trị đến bộ phận điều hành của Ngân hàng Phục vụ người
nghèo đều làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên rất ít thời gian để nghiên cứu những vấn
đề thực tiễn, hạn chế công việc nghiên cứu đề xuất chính sách, cơ chế quản lý điều hành.
Mọi hoạt động về nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách đều giao cho ban điều hành
nghiên cứu soạn thảo trong khi ban điều hành đang thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Như
vậy, không tách được chức năng hoạch định chính sách và điều hành theo chính sách.
Hơn nữa, bên cạnh Ngân hàng Phục vụ người nghèo, nguồn vốn từ ngân sách Nhà
nước hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác còn được giao cho nhiều cơ
quan Nhà nước, hội đoàn thể và Ngân hàng thương mại Nhà nước cùng thực hiện theo các
kênh khác nhau, làm cho nguồn lực của Nhà nước bị phân tán, chồng chéo, trùng lắp, thậm
chí cản trở lẫn nhau. Bên cạnh nguồn vốn cho vay hộ nghèo được Ngân hàng Phục vụ
người nghèo và NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện thì thực tế còn có: nguồn vốn cho vay
giải quyết việc làm do Kho bạc Nhà nước quản lý và cho vay; nguồn vốn cho vay đối với
học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn do Ngân hàng Công thương thực hiện; nguồn
vốn cho vay ưu đãi các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc
khu vực II, III miền núi, các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 của Chính
phủ…
Việc hình thành các nguồn vốn cho vay chính sách nằm rải rác ở nhiều tổ chức tài
chính với cơ chế quản lý khác nhau đã gây nhiều trở ngại cho quá trình kiểm soát của Nhà
nước, không tách bạch được tín dụng chính sách với tín dụng thương mại.
Để triển khai Luật các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện chính sách tín dụng đối
với người nghèo và các đối tượng chính sách; các nghị quyết của Đại hội Đảng IX, nghị
quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X về việc sớm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
NHCSXH, tách tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại; đồng thời thực hiện cam kết
với Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) về việc thành lập Ngân hàng


Chính sách; ngày 04/10/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín
dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân

hàng Phục vụ người nghèo, tách khỏi NHNo&PTNT Việt Nam.
Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH):
NHCSXH được thành lập để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người
nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm
khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham
gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
NHCSXH được thực hiện các nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay, thanh toán, ngân
quỹ và được nhận vốn uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức
kinh tế, chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân
trong và ngoài nước đầu tư cho các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
NHCSXH là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước nhằm giúp hộ
nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để
phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên
thoát nghèo, góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với xóa đói, giảm
nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng văn minh.
1.2 Cơ cấu tổ chức


NHCSXH được tổ chức theo 3 cấp: Hội sở chính ở Trung ương, Chi nhánh ở cấp
tỉnh, Phòng giao dịch ở cấp huyện. Mỗi cấp đều có bộ máy quản trị và bộ máy điều hành
tác nghiệp:
Bộ máy quản trị, gồm: Hội đồng quản trị và bộ máy giúp việc ở Trung ương; Ban
đại diện Hội đồng quản trị ở cấp tỉnh, cấp huyện.
Bộ máy điều hành tác nghiệp bao gồm: Hội sở chính ở Trung ương; Sở giao dịch,
Trung tâm Đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông tin; 63 Chi nhánh cấp tỉnh và 618 Phòng
giao dịch cấp huyện.
*Sản phẩm tín dụng
- Cho vay hộ nghèo
- Cho vay vốn đi xuất khẩu lao động

- Cho vay hộ nghèo về nhà ở theo quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ
- Cphurvay hộ nghèo tại 62 huyện nghèo
- Cho vay Học sinh sinh viên
- Cho vay Giải quyết việc làm
- Cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
- Cho vay nhà ở vùng thường xuyên ngập lũ Đồng bằng Sông cửu long
- Cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khan
- Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Cho vay hộ cận nghèo


- Cho vay hộ thoát nghèo.
*Các dịch vụ nhan tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm của người nghèo
*Các dịch vụ thanh toán ngân quỹ
- Tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi có kỳ hạn
- Chuyển tiền đi trong nước
- Chuyển tiền đến trong nước
- Dịch vụ chuyển tiền kiều hối
*Các dịch vụ khác:
- Nhận vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
- Phát hành thẻ ATM cho HSSV
- Phát hành trái phiếu được chính phủ bảo lãnh
II.PHÂN TÍCH YẾU TỐ HÌNH THÀNH NỀN VĂN HÓA VBSP
Từ ngày đi vào thành lập năm 2003đến nay hàng nămVBSP đều tổ chức các
sự kiện văn hoá như Gặp mặt thường niên và tặng quà cho toàn thể các bộ nhân viên trong
ngân hàng đã nghỉ hưu, gia đình ban lãnh đạo; Ngày hội truyền thống nhân ký niệm ngày



thành lập Ngân hàng CSXH , nhằm tôn vinh các giá trị văn hoá tới toàn thể cán bộ, nhân
viên trong toàn hệ thống, thể hiện thông qua hệ thống giải thưởng văn hoá VBSP được tổ
chức thường niên. Giải thưởng này được trao với mục đích khuyến khích, động viên các
đơn vị, cá nhân xây dựng tinh thần văn hoá VBSP; tôn vinh các điển hình văn hoá, qua đó
đề cao những giá trị văn hoá VBSP và hình thành một danh hiệu, biểu tượng chung của
VBSP. Đồng thời, thông qua hình ảnh văn hoá VBSP sẽ góp phần quảnh bá thương hiệu,
cổ động lòng tự hào, tạo sự gắn bó giữa các nhân với tổ chức. Giải thưởngvăn hoá VBSP
được bình chọn theo từng nhóm giải thưởng cho hai đối tượng: cá nhân và tổ chức, dựa
trên đánh giá hàng năm và kết quả bình chọn của Ban thi đua khen thưởng VBSP. Lễ trao
giải được tổ chức trang trọng trong Ngày lễ tôn vinh văn hoá VBSP hàng năm. Thêm nữa,
tại Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố Hà nội nói riêng và hệ thống Ngân
hàng Chính sách xã hội Việt Nam nói chung, đội ngũ giao dịch viên hầu hết là nữ nên vào
các ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, Ban lãnh đạo Chi nhánh đều
tổ chức gặp mặt và trao quà cho chị em nhằm tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ.
2.1 Logo:
Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) có biểu trưng Logo hình búp sen. Biểu
trưng ấy được tạo thành bởi hình ảnh cách điệu của 2 bàn tay đan nhau, tạo hình 2 chữ N
(viết tắt của từ Người nghèo) và tạo thành 3 khối chéo trên đỉnh, tượng trưng cho 03 miền
Bắc - Trung - Nam. Phía dưới biểu trưng Logo mang dòng chữ “VBSP” là chữ viết tắt tên
tiếng Anh của NHCSXH (Vietnam Bank For Social Policies) tạo đài hoa như một bệ đỡ
vững chắc, thể hiện tinh thần vì người nghèo và những cam kết của NHCSXH, đoàn kết
chung tay cùng người dân trong cả nước, hướng về người nghèo, đồng hành cùng người
nghèo, giúp đỡ người nghèo chống lại đói nghèo và sự lạc hậu với ước vọng xây dựng đất
nước mạnh giàu, xã hội dân chủ - công bằng - văn minh.
Với biểu trưng gắn liền với hình ảnh của loài hoa thanh tao, thuần khiến có sức sống
mãnh liệt, thân thiện, gắn liền với đời sống con người và cảnh sắc làng quê Việt Nam, nhắc



nhở cán bộ NHCSXH không ngừng nỗ lực phấn đấu; vượt qua khó khăn, thử thách; cần kiệm - liêm chính - chí công - vô tư; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cao cả mà Đảng - Quốc
hội - Chính phủ và nhân dân cả nước đã tin tưởng giao phó.
2.2 Ngôn ngữ và khẩu hiệu:
Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam có câu khẩu hiệu được in rất rõ
tại phòng giao dịch là: “Ngân hàng Chính sách xã hội không hoạt động vì mục đích lợi
nhuận”. Với slogan như vậy VBSp muốn nhấn mạnh vào sự tận tâm của vbsp trong việc
xóa đói giảm nghèo góp phần tạo dựng một cuộc sống tươi đẹp, giàu ý nghĩa. Chúng tôi
cam kết thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên tất cả thế giới thông

qua các hành

động quốc gia kiên quyết và hợp tác quốc tế coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo
đức, xã hội, chính trị, và kinh tế của toàn nhân loại.
2.3 Các hoạt động xã hội
Một trong những nhân tố mang lại sự thành công của VBSP là :
nâng cao trách nhiệm xã hội với cộng đồng. Ngay từ năm 2003, Ngân Hàng Chính
sách xã hội Việt Nam đã vinh dự được Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động hạng
Nhì về công tác từ thiện - xã hội. Hàng loạt các chương trình xã hội như “uống nước nhớ
nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “Chung tay chăm sóc nghĩa trang liệt sỹ”, “phụng dưỡng bà
mẹ Việt nam anh hùng”, “Nghĩa tình Côn Đảo”… đã được duy trì hàng năm với số tiền lên
đến trên 100 tỷ
- Việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp phải đảm bảo đúng pháp luật Việt Nam, pháp
luật các nước có liên quan và công ước quốc tế, đúng định hướng chỉ đạo của Ngân hàng
Nhà nước. Đồng thời cũng cần có tính thống nhất trong toàn hệ thống; thường xuyên tổ
chức kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết đánh giá, bình xét thi đua khen thưởng.
2.4. Thực hiện việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp của Chi nhánh Ngân hàng
Chính sách xã hội Thành phố Hà nội
Mục tiêu



- Xây dựng văn hoá doanh nghiệp trở thành nguồn sức mạnh nội lực trong hoạt động
xóa đói giảm nghèo đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thủ đô.
- Xây dựng văn hoá doanh nghiệp trở thành giải pháp quản trị điều hành, góp phần
củng cố uy tín, nâng cao vị thế của Ngân hàng Chính sách xã hội trong nước và quốc tế.
- Xây dựng văn hoá doanh nghiệp trở thành phẩm chất, đạo đức, nếp sinh hoạt và
làm việc của cán bộ viên chức. Toàn hệ thống quán triệt và thực hiện “Trung thực, kỷ
cương, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả” trở thành truyền thống của NHCSXH nhằm mục
tiêu xóa đói giảm nghèo đảm bảo an sinh xã hội của thủ đô.
3.1. Việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp của Chi nhánh Ngân hàng CSXH
Thành phố Hà nội đảm bảo các yêu cầu
- Đúng pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế, kế thừa và phát huy truyền thống
văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, hội nhập với các nền văn hoá doanh nghiệp tiên
tiến trong khu vực và quốc tế theo đúng chủ trương, định hướng chỉ đạo của Nhà nước,
Ngân hàng Nhà nước và của chinh phủ.
- Có tính thống nhất, tính khoa học, tính kế thừa, tính thực tiễn và tính phát triển,
phù hợp với nhịp độ của NHCSXH. Có các chương trình, phương án cụ thể triển khai thực
hiện văn hoá doanh nghiệp xác định rõ mục đích, yêu cầu, kế hoạch, giải pháp thực hiện
đảm bảo thiết thực, chất lượng, tiết kiệm, hiệu quả.
- Thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá, bình xét thi
đua khen thưởng về việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
3.2. Tổ chức xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân
hàng CSXH thành phố Hà Nội
- Nghiêm túc chấp hành việc hướng dẫn sử dụng Logo, bảng hiệu và biểu trưng
bằng chữ, bằng màu sắc thống nhất theo đúng các văn bản quy định của Ngân hàng Công


Thương. Phải nhận thức thương hiệu NHCSXH được sử dụng chung thống nhất trong
toàn hệ thống có tính bắt buộc và thể hiện sức mạnh của Ngân hàng Chính sách xã hội;
phải nhận thức văn hoá doanh nghiệp Ngân hàng CSXH là văn hoá thống nhất trong toàn
hệ thống theo nội dung” Ngân hàng phục vụ người nghèo”.

Thương hiệu thông qua biểu trưng trên (Logo, chữ, màu sắc) là nội dung bên ngoài
phải được triển khai, giữ gìn, quảng bá thể hện ở mọi nơi, mọi lúc, gây ấn tượng tốt và sâu
sắc đến mọi khách hàng, mọi người, mọi cấp là trách nhiệm của toàn bộ cán bộ nhân viên
trong ngân hàng. Một vấn đề cũng hết sức quan trọng đó là việc triển khai các dịch vụ của
ngân hàng là vấn đề hết sức nhạy cảm, nó gắn mọi quyền lợi của khách hàng với ngân
hàng, đòi hỏi Giám đốc Chi nhánh phải xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện có chất
lượng, hiệu quả. Đấy chính là xây dựng thương hiệu tốt nhất và thể hiện được văn hoá
doanh nghiệp của ngân hàng. Để làm tốt vấn đề này cần tổ chức đánh giá lại chất lượng
sản phẩm, dịch vụ của ta so với yêu cầu, so với đòi hỏi của xã hội, của khách hàng. Từ đó
thấy được còn khiếm khuyến điều gì cần phải có giải pháp khắc phục để sản phẩm, dịch vụ
hoàn thiện hơn, cung cấp được nhiều tiện ích cho khách hàng hơn và mục đích cuối cùng
quan trọng là cho mọi người nói đến Chi nhánh Ngân hàng CSXH TP Hà Nội đều nhớ đến
các sản phẩm và sự phục vụ tốt nhất.
III. Thiết kế quy trình duy trì văn hóa tại Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã
hội Thành phố Hà nội.
1. Người lãnh đạo phải làm gương cho toàn Chi nhánh
Vai trò của người lãnh đạo trong doanh nghiệp là hết sức to lớn. Nó có ảnh hưởng
đến lề lối, phong cách làm việc của toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Vì vậy để
thay đổi bất cứ vấn đề nào trong ngân hàng thì người lãnh đạo phải luôn là người đi tiên
phong, làm gương cho các nhân viên.


- Lãnh đạo ở Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố Hà Nội rất gần gũi
với nhân viên tuy nhiên cũng cần sử dụng uy quyền đúng lúc, đúng hoàn cảnh, như việc
mặc đồng phục và đeo thẻ của nhân viên cần được thực hiện một cách triệt để, tránh để
tình trạng đã có đồng phục rồi mà lại không sử dụng.
- Chỉ đạo để tạo sự liên kết và công việc được thực hiện một cách đồng bộ, thúc đẩy
việc luân chuyển văn bản nhanh chóng, kịp thời.
- Cần tạo dựng và củng cố niềm tin ở toàn bộ nhân viên đối với Ban lãnh đạo Chi
nhánh.

- Mặt khác yêu cầu của thời kỳ hội nhập kinh tế ngày càng đặt ra hết sức khắt khe
vì vậy để đáp ứng được yêu cầu này thì cần tập trung bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý để mỗi một cán bộ lãnh đạo của ngân hàng phải có một
phong cách làm việc có văn hoá. Một ngân phụ thuộc rất lớn vào chính phong cách làm
việc của Ban lãnh đạo, từ đó tạo ra sự đồng tình và lôi kéo sự tham gia đông đảo của mọi
người
2. Bồi dưỡng và nâng cao nhận thức về văn hoá doanh nghiệp cho cán bộ viên
chức tại Chi nhánh
- Ngày nay, các tập đoàn kinh tế trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã
ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong công ty. Và thực tế thì
các tập đoàn tài chính – ngân hàng thành công trong kinh doanh đều coi người lao động
trong đơn vị là yếu tố quan trọng nhất. Con người là trung tâm văn hoá của ngân hàng vì
với trình độ hiểu biết, các phong tục tập quán, giao tiếp của mình sẽ tạo nên những giá trị
văn hoá nói chung và văn hoá doanh nghiệp nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng này
mà trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, lực lượng lao động ở từng phòng của ngân
hàng cần phải được coi trọng. Việc nâng cao nhận thức về văn hoá doanh nghiệp cho thành


viên trong ngân hàng không chỉ đơn giản là tuyên truyền mà cần phải tuân theo một quy
trình huấn luyện nhân viên cùng gắn kết ngay từ khi nhân viên đó mới gia nhập vào ngân
hàng để xây dựng một nền văn hoá doanh nghiệp chung:
- Tuyển chọn nhân viên là bước cơ sở để đặt nền tảng cho việc xây dựng một nền
văn hoá doanh nghiệp vững mạnh. Mục đích của công việc này là tuyển chọn những người
phù hợp với ngân hàng như cần có
Hòa nhập là điều cần thiết của nhân viên mới khi họ bước chân vào một môi trường
hoàn toàn mới để học hỏi những chuẩn mực tại ngân hàng và cách làm việc từ những
thành viên cũ. Tuy nhiên, người quản lý cần lưu ý phải lựa chọn đúng những nhân viên lâu
năm gương mẫu, tích cực làm người hướng dẫn cho nhân viên mới trong quá trình hòa
nhập. Sự tiếp xúc quá sớm với những nhân viên cũ tiêu cực có thể gây tác động xấu cho
quá trình hòa nhập.

- Huấn luyện là quá trình đem lại cho học viên những kỹ năng, kiến thức cần thiết
cho quá trình làm việc tại ngân hàng như những kiến thức kỹ thuật, kỹ năng làm việc, kỹ
năng giao tiếp giúp nhân viên mới hòa nhập được vào môi trường làm việc mới, tìm kiếm
được sự hợp tác của các bạn đồng nghiệp.
- Đánh giá và thưởng/phạt: một hệ thống đánh giá, thưởng phạt phân minh sẽ là
động lực để nhân viên nỗ lực hoàn thành công việc một cách tốt nhất và gắn bó với ngân
hàng, tạo cơ sở cho một nền văn hoá doanh nghiệp bền vững, lành mạnh.
- Tạo dựng những giá trị chung: hơn ai hết người lãnh đạo phải là người tuyệt đối tin
tưởng vào vào những giá trị văn hoá và vào sứ mệnh của ngân hàng, từ đó mới có thể
truyền đạt lại những giá trị này tới nhân viên.
- Tuyên truyền những giai thoại, những hình mẫu, những tấm gương lớn của ngân
hàng.


- Xây dựng các hình tượng điển hình.
Từ những cảm nhận khác nhau của nhân viên trong quá trình làm việc cũng cho thấy
môi trường làm việc cũng chưa thực sự thoải mái vì vẫn còn gặp phải sự soi xét của cấp
trên và các đồng nghiệp. Có lẽ một phần cũng do giữa cấp trên và nhân viên hay quan hệ
đồng nghiệp chưa thực sự hiểu nhau nên vẫn tồn tại một rào cản vô hình nào đó. Động lực
chủ yếu để phát triển bền vững ngân hàng phải là nguồn lực của chính ngân hàng vì vậy
cần tạo một môi trường làm việc để người lao động phát huy các thế mạnh, sức sáng tạo và
khả năng cống hiến của họ.


KẾT LUẬN
Qua những nghiên cứu ở trên có thể thấy rằng văn hoá doanh nghiệp không phải là
vấn đề dễ dàng có được trong thời gian ngắn mà đó là cả một quá trình hình thành và phát
triển với bao thăng trầm xen lẫn để khẳng định tên tuổi của Chi nhánh Ngân hàng CSXH .
Trình độ nhận thức của mọi người về văn hoá doanh nghiệp đã dần được nâng cao dù cho
các nghiên cứu về lĩnh vực này còn chưa được hoàn thiện. Thực tế cho thấy còn rất nhiều

cán bộ nhân viên chưa có nhận thức đúng đắn về văn hoá doanh nghiệp, điều này làm cho
doanh nghiệp giảm đi sức mạnh của mình. Như vậy đòi hỏi lãnh đạo doanh nghiệp phải
luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên trong toàn doanh nghiệp về
văn hoá doanh nghiệp. Vì có hiểu được nó thì mới có thể góp phần xây dựng và phát triển
văn hoá doanh nghiệp của doanh nghiệp mình ngày một lớn mạnh hơn. Để tạo dựng và
phát triển văn hoá doanh nghiệp cần sự nhất trí đồng lòng của tất cả các thành viên trong
doanh nghiệp chứ không phải là trách nhiệm của riêng ai trong doanh nghiệp.
1. Nội dung thực hiện văn hoá doanh nghiệp
- Trung thực: được hiểu là làm những việc đúng với lương tâm của mình, phù hợp
với các nguyên tắc, quy định được đề ra trong doanh nghiệp.
- Kỷ cương: được hiểu là những phép tắc chi phối cuộc sống xã hội, tổ chức, gia
đình; để gìn giữ những quan hệ giữa người và người trong khuôn khổ một lối sống sinh
hoạt được coi là phù hợp với đạo đức.
- Sáng tạo: được hiểu là làm ra cái chưa bao giờ có hoặc tìm tòi làm cho tốt hơn mà
không bị gò bó, ràng buộc.
- Chất lượng: được hiểu là giá trị về mặt lợi ích.
Về chất lượng sản phẩm (theo nghĩa kinh tế): những thuộc tính của sản phẩm được xác
định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được, phù hợp với các điều kiện kỹ
thuật hiện có và có khả năng thoả mãn nhu cầu xã hội và của các cá nhân trong điều kiện
xác định về sản xuất và tiêu dùng. Bản thân nó phản ánh một cách tổng hợp trình độ khoa
học kỹ thuật và công nghệ, là một tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật rất quan trọng để nâng cao


hiệu quả sản xuất và có ý nghĩa kinh tế to lớn (mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị
trường tiêu thụ, nhất là thị trường quốc tế). Đề cập đến chất lượng không chỉ là chất lượng
sản phẩm và còn là chất lượng công việc. Chất lượng sản phẩm chỉ công dụng của sản
phẩm, nghĩa là thích hợp với ý định sử dụng nhất định, làm thoả mãn đặc tính chất lượng
mà nhu câu xã hội cần có, và độ bền theo thời gian của các đặc tính đó.




×