Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận cao học So sánh hành chính trong hiến pháp năm 1946 với năm 1980” làm đề tài kết thúc môn học chính so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.85 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
“Chúng ta thừa nhận những chân lý tự nhiên rằng tất cả mọi người
sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hoá cho họ những quyền không thể tước
đoạt đó là quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo
những quyền này người ta đã tạo nên một chính phủ với những quyền hạn
được trao bởi những người nó cai trị”. - Tuyên ngôn độc lập Mỹ – 1776.
Trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, nhà nước- như chúng ta đã biết
ra đời từ những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Vì vậy, nhà
nước luôn mang bản chất giai cấp thông trị, sử dụng những công cụ của nó
để ổn định trật tự xã hội. Và tuỳ theo bản chất, nhà nước đó phục vụ cho đa
số hay thiểu số mà nó thể hiện tính dân chủ đối với một phận giai cấp hay
đông đảo quần chúng nhân dân. Riêng đối với nhà nước dân chủ nhân dân
được thành lập ở nước ta vào ngày 02 tháng 09 năm 1945, là kết quả của
cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta dưới sự tổ chức lãnh đạo của
Đảng, nhà nước này do nhân dân lập nên cho nên tính chất của nó được thể
hiện rộng rãi - đó là nền dân chủ của tuyệt đại quần chúng lao động - được
thể hiện ngay trong tên gọi của nó đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà- một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Chính vì Đảng là của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của dân
tộc, lãnh đạo cả dân tộc cùng với chính phủ của dân tộc đó thực hiện
“những chân lý tự nhiên” cho nên dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngay từ khi
mới ra đời cho đến nay, nhất là trong giai đoạn khó khăn của đất nước, vừa
kháng chiến bảo vệ, vừa xây dựng đất nước (1945 – 1975) nhà nước ta luôn
được xây dựng theo hướng pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhà nước
luôn sát cánh, cụ thể hoá đường lối chính sách của Đảng tổ chức, đoàn kết
toàn dân tiến hành thành công cuộc kháng chiến chống Pháp, đế quốc Mỹ
giành lại độc lập, thống nhất đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1



Ba mươi năm (1945 – 1975) Đảng lãnh đạo nhà nước giành được
những thắng lợi ở các mặt như thế nào ? Đó là những thắng lợi gì ? Nhà
nước thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng tự xây dựng và hoàn
thiện ra sao về pháp luật, tổ chức để phát triển theo hướng pháp quyền của
dân, do dân, vì dân ? Và trong điều kiện ngày nay việc cải cách nhà nước
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý, nhân dân là chủ” thực hiện như thế nào ? Vì những lý do
trên tôi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo nhà nước trong thời kỳ (1945 – 1975)
làm tiểu luận cho học phần môn các chuyên đề Hành chính so sánh.
Nghiên cứu về Hành chính nhà nước không phải là một vấn đề mới
mẻ, nhất là trong giai đoạn đầu thành lập rồi xây dựng chính quyền vững
mạnh, đánh thắng hai đế quốc lớn (1945 – 1975). Vì vậy, có nhiều công
trình trước đó, tiếp xúc ở các khía cạnh khác nhau của vấn đề. Do vậy, tác
giả chọn đề tài “So sánh Hành chính trong Hiến pháp năm 1946 với năm
1980” làm đề tài kết thúc môn học chính so sánh.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Chương 2: So sánh hành chính trong Hiến pháp năm 1946 và hiến
pháp năm 1980
Chương 3: Đánh giá chung

2


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Khái niệm Hành chính so sánh
Hành chính so sánh là một bộ phận quan trọng cấu thành nên hành
chính học. Trong các lĩnh vực nghiên cứu hành chính, hành chính so sánh
có vị trí đặc biệt: hành chính so sánh cung cấp các tri thức mới, những hiểu

biết về các nền hành chính khác nhau để làm nền tảng cho sự phát triển của
khoa học hành chính. Đó là lĩnh vực đặc biệt nghiên cứu các đặc điểm, môi
trường phát triển của các mô hình hành chính và những bộ phận cấu thành
của nền hành chính khác nhau nhằm tìm kiếm các quy luật chung và cả
những điểm khác biệt giữa chúng.
Các nhà nghiên cứu về hành chính đều tương đối thống nhất quan
điểm cho rằng hành chính so sánh tập trung vào nghiên cứu sự giống và
khác nhau giữa các nền hành chính trên thế giới. tuy nhiên, các nghiên cứu
so sánh trong lĩnh vực hành chính còn được áp dụng rộng rãi để so sánh sự
giống và khác nhau trong phương thức tổ chức và nguyên tắc hoạt động
của bộ máy hành chính trong nội bộ một quốc gia, qua đó tìm ra các quy
luật vận động chung cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả lao động
của chúng.
Việc nghiên cứu các mô hình hành chính khác nhau trên thế giới cho
phép rút ra các bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc nâng cao
hiệu lực và hiệu quả của hoạt động hành chính nhà nước ở mỗi quốc gia.
Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng các yếu tố lịch sử, địa lý, văn hoá...
có thể ảnh hưởng rất lớn tới cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy
hành chính và khiến cho nền hành chính ở các nước khác nhau được tổ
chức và hoạt động không giống nhau. Tuy nhiên, cũng có những nguyên
tắc chung chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính của mọi
quốc gia trên thế giới. Nhận xét về vấn đề này, Leonard D. White cho rằng,
3


một nguyên tắc hành chính “là hữu ích với tư cách hướng dẫn các hành
động trong nền hành chính công của nước Nga thì cũng hữu ích đối với nền
hành chính công của Vương quốc Anh, Irắc và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.
Hành chính so sánh đã xuất hiện từ thời cổ đại trong các nghiên cứu
so sánh về nhà nước và chính trị. Tuy nhiên, lĩnh vực này mới chỉ được

quan tâm và phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu của Thế kỷ XX, đặc biệt từ
sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở Mỹ, vào cuối thập kỷ 40 của Thế kỷ
XX, hành chính so sánh đã xuất hiện với tư cách là một môn học trong các
chương trình đào tạo hành chính. Đến những năm 1950 đã có hàng loạt các
hội thảo bàn về hành chính so sánh và năm 1960 Hội Hành chính so sánh
thuộc Hiệp hội Hành chính công Hoa Kỳ đã ra đời.
Ở Việt Nam, hành chính so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ.
Trong tiến trình đổi mới và hội nhập, việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm
của các nước để vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để
“đi tắt đón đầu”, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển có ý nghĩa
quan trọng. Trong bối cảnh hiện nay, khi cải cách hành chính đã và đang
được Đảng và Nhà nước ta xác định là trọng tâm của cải cách nhà nước,
các nghiên cứu trong lĩnh vực hành chính so sánh giành được sự quan tâm
mạnh mẽ và có cơ hội để phát triển. Chính phủ đã xác định một trong các
bài học của cải cách hành chính là: Cải cách hành chính phải xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam với đặc điểm, truyền thống, bản sắc Việt Nam; đồng
thời tham khảo, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm của các nước về tổ chức và
hoạt động quản lý để vận dụng thích hợp.
2. Phương pháp so sánh trong nghiên cứu hành chính học
2.1. Phương pháp so sánh trong nghiên cứu khoa học
So sánh là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng đối
với hầu hết các khoa học, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mục
đích của phương pháp so sánh là qua việc nghiên cứu so sánh các trường
hợp cụ thể để rút ra nhận thức về các quy luật vận động chung của sự vật
4


và hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Nhiều nhà khoa học đã dánh giá so
sánh không chỉ là một phương pháp nghiên cứu khoa học mang tính thực
nghiệm mà đã từ rất lâu nó được sử dụng như một biện pháp để tìm ra các

quy luật và những nét đặc thù riêng của sự vật, hiện tượng.
2.2. Sử dụng phương pháp so sánh trong hành chính học
Trong các nghiên cứu về hành chính học, phương pháp so sánh đóng
vai trò quan trọng. Hành chính so sánh không chỉ chỉ ra những khác biệt
giữa các nền hành chính khác nhau ở các quốc gia mà còn góp phần quan
trọng chỉ ra những quy luật chung, chi phối tổ chức và hoạt động của các
nền hành chính khác nhau trên thế giới, không phụ thuộc vào những đặc
điểm riêng có của mỗi quốc gia. Trên cơ sở các nghiên cứu so sánh, các
quốc gia có thể rút ra các bài học, vận dụng các kinh nghiệm của các quốc
gia khác một cách thích hợp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
hành chính ở quốc gia mình.
Thêm vào đó, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng
tăng đặt ra yêu cầu cấp bách phải hội nhập, tương đồng cả về cấu trúc tổ
chức, thể chế và hoạt động hành chính của nhà nước nhằm đáp ứng các yêu
cầu giải quyết công việc chung, mang tính toàn cầu. Các kết quả nghiên
cứu hành chính so sánh sẽ góp phần tích cực vào việc hình thành những kết
cấu tương đồng ở các nền hành chính khác nhau, phục vụ cho quá trình
quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Trong khi thừa nhận vai trò quan trọng của nghiên cứu hành chính so
sánh, cần phải khẳng định rằng hoạt động của bộ mày hành chính ở mỗi
quốc gia chỉ là một bộ phận cấu thành hoạt động của nhà nước và cả hệ
thống chính trị của quốc gia đó. Do đó, hoạt động hành chính bị chi phối
mạnh mẽ bởi định hướng chính trị đang chi phối quốc gia, lịch sử hình
thành quốc gia cũng như những đặc điểm phát triển khác của quốc gia đó.
Các nghiên cứu so sánh về hành chính có mối liên hệ mật thiết với các

5


nghiên cứu so sánh về chính trị và phải được bắt nguồn từ thực tiễn vận

hành của cả hệ thống chính trị trong quốc gia.

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 2
I . SO SÁNH HÀNH CHÍNH TRONG HIẾN PHÁP NĂM 1946
VÀ HIẾN PHÁP NĂM 1980
1. Tổ chức Nghị viện nhân dân theo Hiến pháp 1946
Cơ quan lập pháp được gọi là Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân
theo Hiến pháp 1946 có vị trí pháp lý là cơ quan có quyền cao nhất của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bầu 3 năm một lần theo chế độ
phổ thông đầu phiếu, thực tiếp và bỏ phiếu kín. Số lượng các nghị viên
được xác định theo số lượng dân cư: cứ 5.000 dân được bầu một nghị viện
đại diện. Vì là cơ quan không hoạt động thường xuyên nên Nghị viện nhân
dân thành lập một Ban Thường vụ gồm một Nghị trưởng, hai Phó Nghị
trưởng, 12 ủy viên chính thức và 03 ủy viên dự khuyết.
Bên cạnh quyền lập pháp, với tư cách là cơ quan có quyền cao nhất,
Nghị viện nhân dân còn “giải quyêt mọi vấn đề chung cho toàn quốc,…,
biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà chính phủ ký với nước
ngoài” (Điều 23). Trong trường hợp Nghị viện nhân dân không họp được,
“Ban Thường vụ cùng với chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay
đình chiến” (Điều 38). Trong Hiến pháp năm 1946 cũng xác định quyền
tham gia trưng cầu dân ý của công dân khi khẳng định. Những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết, nếu hai phần ba số
nghị viên đồng ý” (Điều 32).
2. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo Hiến pháp 1946
2.1. Tổ chức bộ máy hành chính trung ương
Theo Hiến pháp 1946, tổ chức hành chính nhà nước ở Việt Nam có

hình thức tương đối giống với mô hình hành pháp lưỡng nghi với quyền
hành pháp được phân chia chủ yếu giữa hai vị trí quyền lực là Chủ tịch
nước và Thủ tướng-người đứng đầu Nội các.

7


Cơ quan hành chính nhà nước cao nhất được xác định là Chính phủ,
bao gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng,
các Bộ trưởng, Thứ trưởng và có thể có Phó Thủ tướng. Như vậy, các thành
viên của Nội các có thể đồng thời là thành viên nghị viện, có thể không
nhưng tất cả các vị trí chủ chốt trong Nội các đều do các thành viên của
Nghị viện nắm giữ. Nhân viên Ban Thường vụ Nghị viện không được tham
dự vào Chính phủ.
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguyên thủ quốc gia,
được lựa chọn trong số các thành viên của Nghị viện nhân dân và phải
được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Chủ tịch nước Việt
Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại (Điều 45).
Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong số các thành viên Nghị
viện và đưa ra Nghị viện biều quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm, Thủ
tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết
toàn thể danh sách. Thứ trưởng có thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ
tướng đề cử ra Nghị viện duyệt y. Theo quy định trong Hiến pháp 1946,
các Bộ trưởng sẽ phải từ chức và Nội các phải giải tán khi không còn được
Nghị viện tín nhiệm (Điều 54).
Với vị trí pháp lý là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc (Điều
43), Chính phủ là cơ quan hành pháp trung ương quan trọng. Quyền hạn
của Chính phủ được thể hiện qua các mặt sau (Điều 52):
- Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
- Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.

- Đề nghị những dự án luật ra trước Ban Thường vụ, trong lúc Nghị
viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
- Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu
cần.
- Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành
chính hoặc chuyên môn.
8


- Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn
đất nước.
- Lập dự án ngân sách hàng năm.
2.2. Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
Về bộ máy chính quyền địa phương, Hiến pháp 1946 quy định nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có 4 cấp chính quyền địa phương gồm cấp bộ
(3 bộ là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, tương đương với “kỳ” trước đây),
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã (Điều 57). Trừ ở bộ và huyện, mỗi đơn vị
hành chính ở các cấp còn lại đều được tổ chức một Hôi đồng nhân dân và
một Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân được hình thành qua việc bầu
cử chính quyền địa phương theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu phổ
thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 58), còn Ủy ban hành chính do Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã bầu ra và chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà cước cấp trên.
Khác ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã, ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban
hành chính (Ủy ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố và
Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra). Cấp huyện là cấp
trung gian đặc biệt nằm giữa tỉnh và xã. Trước đây, theo Hiến pháp 1946,
cấp huyện không được thừa nhận là một cấp chính quyền hoàn chỉnh nên
không tổ chức HĐND mà chỉ tổ chức Ủy ban hành chính. Sau đó, trong
những năm 70 và 80, do quan niệm cấp huyện là cấp chính quyền hoàn

chỉnh nên Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều quy định mở rộng thẩm
quyền cho cấp huyện. Hiện nay, cấp huyện vẫn là cấp trung gian giữa tỉnh
và xã, có nhiệm vụ đôn đốc, chỉ đạo và kiểm tra cấp xã trong việc thực hiện
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Hình thức tổ
chức chính quyền địa phương này tương tự như hình thức tổ chức chính
quyền không tổ chức Hội đồng nhân dân ở quận, huyện và xã mà chúng ta
đang tiến hành thí điểm tại 10 tỉnh, thành phố theo tinh thần của Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 (khóa X).
9


Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương
mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên.
Ủy ban hành chính ở các cấp với tư cách là cơ quan hành chính ở địa
phương có trách nhiệm:
- Thi hành các mệnh lệnh của cấp trên.
- Thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa phương mình
sau khi được cấp trên chuẩn y.
- Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.
3. Tổ chức bộ máy tư pháp theo Hiến pháp 1946
Bộ máy tư pháp theo Hiến pháp năm 1946 được tổ chức 3 cấp, bao
gồm: Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm và các Tòa án đệ nhị cấp và sơ
cấp. Ngay từ những ngày đầu tiên xây dựng chính quyền mới, hệ thống Tòa
án đã được thiết kế theo hướng nhằm bảo đảm tính khách quan trong xét
xử. Theo quy định, trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp (Điều 69).
II. HÀNH CHÍNH TRONG HIẾN PHÁPNĂM 1980
1. Sự ra đời của Hiến pháp 1980
Chiến thắng tháng 4 năm 1975 đã đập tan bộ máy chính quyền tay
sai của Đế quốc Mỹ ở miền Nam, thống nhất đất nước về một mối. Nhiệm

vụ đặt ra cho giai đoạn mới là đưa cả nước đi lên CNXH.
Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 14 đến 20 tháng 12 năm
1976 là bước ngoặt quan trọng trong hoạt động xây dựng chính quyền nhà
nước ở nước ta. Đại hôi đã khẳng định sự tất yếu và tầm quan trọng của
việc đưa cả nước đi lên CNXH. Đường lối chung của cách mạng XHCN và
đường lối xây dựng kinh tế XHCN ở nước ta trong giai đoạn này đã được
Đại hội đề ra trên cơ sở kinh nghiệm của công cuộc xây dựng CNXH ở
miền Bắc (từ 1954 đến 1975) và đặc điểm của tình hình đất nước trong giai
đoạn mới.

10


Quốc hội khóa VI năm 1976 đã hoàn thành quá trình thống nhất đất
nước về mặt nhà nước. Trong bối cảnh đó, việc ban hành một Hiến pháp mới
nhằm xác định và tổng kết những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, vạch
đường cho công cuộc cách mạng trong giai đoạn mới – xây dựng CNXH
trên phạm vi toàn quốc là cần thiết. Quốc hội khóa VI cũng đã bầu ra Ủy ban
dự thảo Hiến pháp mới và ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội đã thông
qua Hiến pháp 1980- Hiến pháp chung đầu tiên của nhà nước Việt Nam
thống nhất. Hiến pháp 1980 bao gồm Lời nói đầu, 12 chương và 147 điều.
2. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo Hiến pháp 1980
2.1. Tổ chức bộ máy hành chính trung ương
Với việc sáp nhập hai thiết chế (Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước) thành một thiết chế Hội đồng Nhà nước, Hiến pháp 1980 đã
xác định lại vị trí của cơ quan hành pháp. Hội đồng Chính phủ được đổi
thành Hội đồng Bộ trưởng. Theo Điều 104 Hiến pháp năm 1980 của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ
của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và
hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”.

Điều này có nghĩa là Quốc hội vừa thực thi trực tiếp quyền lập pháp, vừa
thực thi quyền hành pháp thông qua Hội đồng Bộ trưởng. Đây là điểm khác
biệt với Hiến pháp 1992, khi quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội nhưng là cơ quan hành chính cao nhất của đất nước. Với thiết chế
Hội đồng Bộ trưởng, hoạt động của cơ quan hành pháp cao nhất này hướng
tới việc đề cao vai trò của tập thể Chính phủ mà ít thể hiện vai trò cá nhân
của người đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng.
Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của
Nhà nước, tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ
sở; đảm bảo việc tôn trọng và pháp luật; phát huy quyền làm chủ tập thể

11


của nhân dân; đảm bảo xây dựng chủ nghĩa xã hôi, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.
Hội đồng Bộ trưởng gồm có: Chủ tịch Hội đồng, các phó Chủ tịch
Hội đồng, Thường vụ Hội đồng, các Bộ trưởng và Chủ nhiệm Ủy ban Nhà
nước (Điều 105).
Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan thường trực của Hội đồng
gồm: Chủ tịch Hội đồng, các Phó Chủ tịch Hội đồng và Bộ trưởng Tổng
thư ký Hội đồng.
2.2. Tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp 1980
Điều 113 Hiến pháp 1080 xác định: Các đơn vị hành chính của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
- Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị

hành chính tương đường;
- Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố
trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
- Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia
thành phường và xã; quận chia thành phường.
Hệ thông cơ quan chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân
(HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND), được tổ chức trên tất cả các đơn vị
hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp 1980, Luật tổ chức
HĐND và UBND được ban hành năm 1983, cụ thể hóa tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành chính địa phương các cấp như sau:
2.2.1. Bộ máy hành chính cấp tỉnh
- UBND Tỉnh gồm có: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, ủy viên thư ký, các
ủy viên khác (với tổng số từ 11 đến 17 người). UBND tỉnh thành lập ra cơ
12


quan hoạt động thường trực là Thường trực UBND tỉnh gồm: Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch, ủy viên thư ký. Bộ máy giúp việc của UBND tỉnh gồm có:
Văn phòng UBND và các cơ quan Sở, Ban, Ngành chuyên môn trực thuộc
UBND.
Ngoài cac Sở, Ban, Ngành chuyên môn nói trên, còn một số cơ quan
trực thuộc UBND tỉnh như các công ty, trạm, trại, công, nông trường, nhà
máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện….
2.2.2. Bộ hành chính cấp huyện
Các thành viên UBND huyện được bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của
mỗi khóa HĐND huyện (gồm 9-13 người). Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Ủy
viên thư ký của UBND cấp huyện hợp thành thường trực UBND cấp huyện.
Sự phân công nhiệm vụ giữa các thành viên của UBND huyện như sau: Chủ
tịch phụ trách chung và phụ trách khổi nội chính, từ 2 đến 3 Phó chủ tịch

phụ trách các khối, Nông, Lâm nghiệp, Tài chính – thương nghiệp, Công
nghiệp – thủ công nghiệp, Văn hóa xã hội và các ủy viên khác.
Bộ máy giúp việc cho UBND huyện gồm có Văn phong UBND cấp
huyện, các phòng ban chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.
Ngoài các phòng ban chuyên môn còn có các cơ quan chuyên môn
trực thuộc các ngành chuyên môn ở tỉnh, chịu sự quản lý hành chính của
UBND cấp huyện như các công ty, xí nghiệp, công, lâm trường thuộc
quyền quản lý của UBND cấp huyện.
2.2.3. Bộ máy hành chính cấp xã
UBND cấp xã do HĐND cấp xã bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của
mỗi khóa Hội đồng. UBND cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên trong đó gồm
Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch, một ủy viên thư ký và các ủy viên khác.
Thường trực UBND cấp xã gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và ủy
viên Thư ký. Bộ máy giúp việc cho UBND cấp xã gồm: Thường trực Văn
phòng UBND cấp xã, Ban tư pháp, Ban Văn hóa xã hôi, Ban Nội chính
(Ban công an). Điều đáng chú ý trong quy định về hoạt động của Ủy ban
13


nhân dân cấp xã trong giai đoạn này là đã có sự phân biệt trong hoạt động
của Ủy ban nhân dân xã ở nông thôn với hoạt động của UBND phường, thị
trấn, phản ánh những nét riêng biệt trong hoạt động ở nông thôn và đô thị:
trong khi hoạt động của bộ máy UBND xã theo hình thức bán chuyên trách
thì UBND phường và thị trấn hoạt động theo hình thức chuyên trách.
3. Tổ chức bộ máy tư pháp theo Hiến pháp 1980
Bộ máy tư pháp theo Hiến pháp 1980 không có sự thay đổi nhiều so
với Hiến pháp 1959, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân
các cấp. Nhiệm vụ của hai hệ thống cơ quan tư pháp này được xác định cụ
thể: Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân (Điều 127).
Hệ thống Tòa án nhân dân (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân các cấp địa phương) được xác định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các thẩm phán được bầu theo
nhiệm kỳ. Việc xét xử ở Tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia,
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền
với thẩm phán. Chế độ bầu cử hội thẩm nhân dân được thực hiện ở Tòa án
nhân dân các cấp. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối
cao là hai năm rưỡi; nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa
phương là hai năm. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật.
Bên cạnh hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân các cấp cũng có
bước phát triển mới. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân các cấp được
xác định cụ thể: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan
14


khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ
chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công
dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách
nhiệm của mình (Điều 138).

15



Chương 3
ĐÁNH GIA CHUNG
So sánh với Hiến pháp của các quốc gia khác, ta thấy nội dung Hiến
pháp năm 1946 của Việt Nam dân chủ cộng hòa "không hề có bóng dáng
của Hiến pháp Liên Xô 1936″, có "thái độ thượng tôn và tiếp nối truyền
thống tư pháp đã có từ thời thực dân", và chứa đựng những tư tưởng dân
chủ hơn hẳn hệ thống luật pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Hiến pháp 1946 phản ánh đúng tinh thần pháp quyền – "những
nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể
xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ". Điều đó thể
hiện ở 5 điểm:
Một là: Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện
nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ
sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
Hai là: Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và
bảo đảm thay vì được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.
Ba là: Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia
khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
Bốn là: Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ.
Năm là: Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Các
cơ quan khác không có quyền can thiệp.
Theo đó "Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất
kỳ bản hiến pháp nào trên thế giới".
Thực tế cho thấy, các điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 là:


Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam;




Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân;

16




Tư tưởng pháp quyền;



Những quy định về quyền con người và đảm bảo quyền công dân;



Cơ chế bảo hiến;



Sửa đổi hiến pháp.

Theo ông, việc nghiên cứu về "quyền phúc quyết" hiến pháp của người dân
trong Điều 70 Hiến pháp 1946 rất có ý nghĩa trong hoàn cảnh xây dựng
Luật trưng cầu dân ý của Việt Nam.
Giáo sư Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng Hiến
pháp năm 1946 là "bản hiến văn dân chủ vào loại bậc nhất Đông Nam
Châu Á lúc bấy giờ" và "đã có thể là một bản khế ước tốt để ràng buộc và
khống chế công bộc với lợi ích của ông chủ nhân dân". Ông tỏ ý tiếc rằng

sáu mươi năm sau Việt Nam "đã không có cơ hội đi xa hơn trong chủ
nghĩa lập hiến". Hiến pháp 1946 vẫn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của
Việt Nam và "vẫn còn nguyên giá trị cho một xã hội dân chủ pháp quyền ở
Việt Nam".
Đây là bản Hiến pháp được soạn thảo theo tinh thần "tam quyền phân
lập": lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án) với
ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp, và Hiến pháp của các nước cộng
hòa khác. Điều 1 của Hiến pháp 1946 ghi rõ: "Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hòa".
Phân tích 5 đặc điểm
1. Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện nhân dân
không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải
đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ
bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn một
dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: "Quyền tư hữu tài sản của công

17


dân Việt Nam được bảo đảm"). Một trong những lý do giải thích sự ngắn
gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp quyền.
Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực
sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân
được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng tinh thần đó.
Trước hết, để lạm quyền không thể xảy ra thì hiến pháp đã được đặt cao
hơn nhà nước. Về mặt lý luận, điều này có thể đạt được bằng hai cách:


1- Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông qua;




2- Hoặc hiến pháp phải do toàn dân thông qua.

Hiến pháp 1946 đã thực sự do một Quốc hội lập hiến thông qua. Theo quy
định của Hiến pháp 1946, nước ta không có Quốc hội mà chỉ có Nghị viện
nhân dân với nhiệm kỳ ba năm. Như vậy, nếu không có chiến tranh, sau khi
thông qua hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân
dân. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa
đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến
pháp 1946).
2. Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm
thay vì được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.
Hai là các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Hiến
pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao hơn là nhà nước ghi nhận và bảo đảm. Vì
rằng nếu nhà nước ghi nhận và bảo đảm thì quyền chủ động là thuộc nhà
nước, nhưng nếu hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì nhà nước không có
quyền chủ động ở đây.
3. Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và
nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
Ba là quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và
nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế. Ví dụ "quyền

18


kiểm soát và phê bình Chính phủ" của Ban thường vụ Nghị viện (Điều 36
Hiến pháp1946); quyền của "nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu
quyết trong Nghị viện" (Điều 40 Hiến pháp1946); Thủ tướng có quyền nêu

vấn đề tín nhiệm để Nghị viện biểu quyết (Điều 54 Hiến pháp 1946)...
4. Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương cũng được phân chia rất rõ.
Bốn là quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương cũng được phân chia rất rõ. Nghị viện nhân dân chỉ quyết định
những vấn đề "chung cho toàn quốc" (Điều 23 Hiến pháp1946). Hội đồng
nhân dân được quyền quyết định "những vấn đề thuộc địa phương mình"
(Điều 59Hiến pháp 1946).
5. Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm.
Cuối cùng, vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Điều này đạt
được nhờ hai cách: một là các toà được thiết kế không theo cấp hành chính
(Điều 63 Hiến pháp 1946); hai là khi xét xử,thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp" (Điều 69 Hiến pháp1946).

19


KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống về hành chính
trong Hiến pháp năm 1946 và Hành chính năm 1980 ta có thê thấy ưu và
nhược của từng bản hiến pháp. Mỗi bản hiến pháp có những thành công
nhất định, vì xét trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể mà nó tồn tại và phát
triển.Hiến pháp năm 1946 có những đóng góp nhất định với lịch sử của dân
tộc, bên cạnh đó hiến pháp năm 1980 cũng có những giá trị thiết thực với
giai đoạn những năm 80 mà nó tồn tại.
Hiến pháp là bộ luật tối cao của một quốc gia định nguyên tắc tổ
chức guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội
trong đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền
của công dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định, chính thống và hợp
pháp của nhà nước. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, so sánh

giữa các Hiên pháp qua các thời kỳ lịch sử là việc cần thiết và có ý nghĩa
lớn đối với công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Ðối với nhân dân Việt Nam, việc nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp qua
các thời kỳ cách mạng là điều cần thiết để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và
yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo tài tình của
Đảng, sự quản lý sâu sát của nhà nước,đội ngũ trí thức ngày càng góp phần
sáng tạo, vận dụng lý luận tiếp tục làm cho Hiên pháp của nước ta gắn liền
với thực tiễn và mang tầm thời đại.

20



×