Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

chỉ đạo thực hiện vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.82 KB, 14 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

I Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm
non là nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người. Nhiệm vụ giáo dục
mầm non cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển giáo dục. "Giáo dục
mầm non nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi cơ hội để
trẻ phát triển toàn diện về thể chất tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ".
Chính vì vậy chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đã nêu mục tiêu
của ngành học Mầm non :" Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước
6 tuổi , tạo cơ hội để trẻ phát triến toàn diện về thể chất , tình cảm trí tuệ ,
thẩm mỹ .".
Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT/BYT-BGDDT của Bộ Y tế và BBộ
GD&ĐT ngày 08/7/2008 về việc hướng dẫn công tác bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm trong các cơ sở giáo dục có nội dung : " Baỏ đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm trong các cơ sở giáo dục , không để xảy ra ngộ độc thực phẩm và
các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm. Mỗi học sinh sinh viên ,nhà giáo ,các
bộ và nhân viên trong các cơ sở gdục nghiêm túc thực hiên các qui định về vệ
sinh an toàn thực phẩm,tham gia tuyên truyền về vệ sinh an toàn thực phẩm
Vì vậy vấn đề dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của mỗi con người
nói chung và đối với trẻ mầm non nó vô cùng quan trọng. Trẻ ở lứa tuổi mầm
non nếu được nuôi dưỡng hợp lý khoa học thì trẻ sẽ phát triển một cách toàn
diện, đức, trí, thể, mỹ.. và ngược lại trẻ ở lứa tuổi này nếu không được ăn đủ
các chất dinh dưỡng hợp lý, ăn không đảm bảo vệ sinh sẽ gây cho trẻ mắc các
bệnh, sẽ làm cho trẻ bị suy dinh dưỡng.
Là một cán bộ quản lý tôi luôn suy nghĩ xác định đây là nhiệm vụ trọng
tâm của ngành học đã và đang chỉ đạo trong nhiều năm qua. Mặc dù các
trường mầm non trong toàn Thị xã chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào

Trang 1



trong trường mầm non, song tôi luôn suy nghĩ để tìm ra một số biện pháp hữu
hiệu để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm trong các trường mầm non để từng bước giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
ở trẻ dưới mức thấp nhất, để mỗi trẻ phát triển một cách toàn diện: Đức, Trí,
Thể, Mỹ.

Trang 2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận vấn đề.
Hiện nay vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối
quan tâm của mỗi gia đình của toàn xã hội. trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay ngày càng có nhiều bậc phụ huynh đã hiểu tầm quan trọng bậc học
Mầm non đã gửi con ăn bán trú tại trường ngày càng đông . Vì vậy yêu cầu
cấp bách về kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm rất cần thiết .Trong những
năm gần đây một số trường mầm non các tỉnh xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực
phẩm đã làm ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.
Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ phụ thuộc rất nhiều vào đội
ngũ cán bộ giáo viên. Vì vậy vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm còn phải được quan tâm trú trọng, cần phải được quán triệt, triển
khai kịp thời đến đội ngũ cán bộ giáo viên trong toàn ngành để mỗi giáo viên
đều phải thực hiện và biết vận dụng trong việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ hợp
lý khoa học, để tạo điều kiện giúp trẻ phát triển thể lực trí tuệ
2. Thực trạng- kết quả thực trạng:
- Năm học 2011 - 2012 ngành học mầm non đã chỉ đạo các nhà trường
làm tốt công tác tuyên truyền tới các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể các
ban ngành và các bậc phụ huynh trong toàn thị xã hiểu nhận thức sâu sắc bâc
học mầm non.

- Phòng đã chỉ đạo các nhà trường điều tra số cháu trong độ tuổi để xây
dựng kế hoạch huy động trẻ vào trường lớp. Bằng sự cố gắng nỗ lực của các
nhà trường, sự phối hợp có hiệu quả số trẻ huy động vào trường lớp năm học
2011- 2012 ngày càng tăng cụ thể :
Tổng số nhóm lớp : nhà trẻ : 27 nhóm , Mẫu giáo : 58 lớp
Số trẻ nhà trẻ huy động ra lớp : 645 cháu - đạt tỷ lệ 33 % tăng so với năm
học 2010-2011 : 21 cháu

Trang 3


Số cháu mẫu giáo đã huy động ra lớp: 2087cháu - đạt tỷ lệ 84 % tăng so
với năm học 2010-2011 : 392 cháu
Riêng mẫu giáo 5 tuổi đã huy động ra lớp: 791 cháu - đạt tỷ lệ 100 %
So với kế hoạch năm học 2011-2012 số cháu tăng 11 cháu ( Huyện khác
chuyển về ).
Đáng chú ý số các cháu ăn bán trú tại các trường lớp cũng có phần tăng
hơn so với năm học trước cụ thể:
Số cháu nhà trẻ ăn bán trú : 635 cháu - đạt tỷ lệ 98,4%
Số cháu mẫu giáo ăn bán trú : 1945cháu - đạt tỷ lệ 93,2 %
So với năm học trước số trẻ ăn bán trú nhà trẻ tăng 345 cháu, tỷ lệ: mẫu
giáo tăng 18%
Mức đóng góp thấp nhất 10.000đ ; cao nhất: 12.000đ
Đảm bảo định lượng Calo : Nhà trẻ: 800Calo ; Mẫu giáo: 850Calo
*Qua đánh giá theo dõi biêủ đồ phát triển của trẻ cụ thể :
Nhà trẻ : 645 cháu
Kênh bình thường : 589 cháu , tỷ lệ 91,5%
Kênh suy dinh dưỡng :49 cháu ,tỷ lệ 7,5%
Kênh cao hơn tuổi :7 cháu ,tỷ lệ 1%
Mẫu giáo : 2087cháu

Kênh bình thường : 1908 cháu ,tỷ lệ 91,4%
Kênh suy dinh dưỡng:173 cháu ,tỷ lệ 8,2%, kênh cao hơn tuổi :0,4%
Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ so với năm học trước giảm xuống : 2%
Điều đó cũng đủ để nói lên cha mẹ học sinh và các tầng lớp xã hội đã
nhận thức được tầm quan trọng của việc gửi con vào các trường lớp mầu non

Trang 4


và tin tưởng sự chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục của các cô giáo ,có sự phối kết
hợp giữa gia đình và nhà trường để chăm sóc giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
Từ thực trạng trên để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục dinh
dưỡng và VSATTP ở các trường mầm non có hiệu quả tốt hơn tôi đã đưa ra
một số biện pháp sau:
3- Các giải pháp thực hiện:
* Chỉ đạo các nhà trường tăng cường cơ sở vật chất trong thiết bị để phục
vụ vấn đề GDDD và VSATTP.
*. Công tác bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ đội ngũ cán bộ giáo viên.
* Tăng cường công tác quản lý thanh tra kiểm tra, chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
* Xây dựng môi trường an toàn, trong sạch lành mạnh.
* Công tác tuyên truyền phối kết hợp các ban ngành đoàn thể, các bậc phụ
huynh trong việc chăm sóc GDDD và VSATTP.
1. Chỉ đạo các nhà trường tăng cường CSVC, các trang thiết bị phục
vụ việc giáo dục dinh dưỡng (GDDD) và vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP) .
Để thực hiện tốt được vấn đề GDDD và VSATTP , CSVC, trang thiết bị
rất cần thiết, phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để có kinh phí mua
sắm các trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi đảm bảo theo hướng hiện đại hoá
hướng tới xây dựng trường chuẩn Quốc gia. Hiện nay 8/8 tổ chức bán trú đều
có bếp riêng, một số trường cải tạo theo hướng bếp không khói - đảm bảo

quy trình theo 1 chiều, một số trường xây dựng theo bếp qui chuẩn : Mn Ngọc
Trạo ,Mn Ba Đình , MN Hà lan.
Chỉ đạo các nhà trường tổ chức bán trú (9/9 trường) các đồ dùng dụng cụ
cá nhân của trẻ : ca, cốc, bát, thìa, 100% đều dùng bằng inoc, không còn hiện
tượng bát ăn của trẻ bằng đồ nhựa
Chỉ đạo các nhà trường ở các phòng học cấp 4 tập trung cải tạo phòng học
lát gạch hoa, các phòng vệ sinh, cải tạo tạo bếp để phù hợp sinh hoạt của trẻ.
Trang 5


(MN Đông Sơn cải tạo khu 7 ; 3 phòng học và công trình vệ sinh trị giá .
100.000.000đ. Lát gạch hoa 3 phòng học các lớp trường MN Quang Trung
57.000.000đ. Cải tạo bếp MN đông sơn để tổ chức bán trú cho trẻ, số tiền:150
triệu đồng
- Mua bàn ghế đúng quy cách, 250 bộ trị giá: 450 Triệu đồng
Các nhà trường đã tập trung đóng mỗi lớp 1 tủ cá nhân để đựng các đồ
dùng các nhân của trẻ bằng các nguồn đóng góp của phụ huynh, mỗi trẻ có 1
ô tủ, ký hiệu riêng của từng cháu; MN Ngọc Trạo, MN xi măng, MN Đông
Sơn, MN Ba Đình, MN Bắc Sơn
Đã chỉ đạo các nhà trường từng bước mua sắm các trang thiết bị nhà bếp
theo hướng chuẩn bếp có tủ lạnh, có máy lọc nước, có máy xay thịt, xay đậu
nành- ngành đang chỉ đạo ở các nhà trường xây dựng trường chuẩn, MN Ba
Đình. Hiện nay có 6/7 trường có máy lọc nước cho trẻ uống nước sạch hàng
ngày, 9/9 trường có tủ lạnh để lưu mẫu thực phẩm hàng ngày
Chỉ đạo các trường tổ chức bán trú đối với cô phục vụ nấu chế biến đều
có trang phục lao động, quần áo, mũ, tạp rề, khẩu trang phù hợp, thuận tiện
cho việc chế biến ở bếp ăn đảm bảo vệ sinh.hàng năm phối kết hợp Trung tâm
phòng dịch tổ chức khám sức khoẻ cho cô phục vụ cho trẻ ăn ,cô chế biến
thức ăn và cấp giấy chứng nhận : 55 cô
Việc mua sắm trang thiết bị để phục vụ cho vấn đề GDDD và VSATTP

đã được đầu tư trong năm tương đối tốt.
2. Công tác bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ giáo
viên, nhân viên về vấn đề nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
Đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành là giải pháp quan trọng để
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ . Bằng nhiều giải pháp linh hoạt
tạo điều kiện để giáo viên theo học các lớp trung cấp nấu ăn, cao đẳng đại học
tại chức, để nâng cao trình, độ để vận dụng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Tập trung chỉ đạo các nhà trường xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên
qua dự giờ, hội thi, tổ chức chuyên đề GDDD và VSATTP, tổ chức hội thi từ
Trang 6


cấp trường đến cấp thị về chế biến các món ăn cho trẻ ở các độ tuổi. Mỗi giáo
viên đều phải tự xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn cho từng lứa tuổi để
biết được định lượng calo hợp lý, biết cân đối giữa thành phần các chất. Với
các tiết thực hành trực tiếp như vậy giúp giáo viên học tập rút kinh nghiệm
được kỹ năng thực hành cho bản thân.
Tổ chức các lớp chuyên đề bồi dưỡng cho đội ngũ CBGV biết lồng ghép
vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong các môn học khác
Tổng số lớp : 1 lớp ; Tổng số CBGV tham gia : 195 cô
- Bồi dưỡng cho giáo viên tăng cường sử dụng giáo án điện tử .
Năm học 2011- 2012 phòng Tổ chức hội thi giáo viên giỏi cấp thị xã
Số giáo viên dự thi : 31 , có 21 tiết sử dụng giáo án điện tử, nhiều tiết sử
dụng khá thành công được hội đồng giám khảo cho điểm gần tối đa : tiết nhận
biết tập nói :các loại quả cô Oanh MN Đông sơn, sự tích quả dưa hấu cô lý
MNBa Đình…
Trong tổng số 31 giáo viên dự thi , đạt giáo viên có giờ dạy giỏi: 23 cô ,
đạt khá : 8 cô ; không có giáo viên trung bình.

Ngoài ra đã chỉ đạo các nhà trường phối kết hợp với công đoàn tổ chức

cho giáo viên tổ chức hội thi mâm cơm dinh dưỡng hợp lý vào ngày 8/3 ;
20/10 hàng năm.
Năm học 2011- 2012 ở một số trường đã tổ chức thi giữa các tổ kết quả
rất tốt: MN Xi măng, MN Đông Sơn; MN Bắc Sơn. Thông qua các hội thi đã
giúp cho giáo viên củng cố và nâng cao kỹ năng thực hành về cách chế biến
nấu các món ăn và hiểu biết thêm về vấn đề dinh dưỡng. Đối với những chị
em cấp dưỡng, ngành đã có kế hoạch gửi đi học ở các lớp chế biến các món
ăn cho trẻ ở độ tuổi mầm non do trung tâm hướng nghiệp day nghề tổ chức
(MN Ngọc trạo: 1 cô; MN Bắc Sơn: 1 cô ; MN Ba Đình: 2 cô ).
Trang 7


+ Cùng với việc bồi dưỡng trực tiếp cho giáo viên qua hội thi, việc bồi
dưỡng vấn đề GDDD và VSATTP thông qua các tiết hoạt động chung là rất
cần thiết, luôn quán triệt cho giáo viên biết cách lồng ghép, tích hợp vấn đề
dinh dưỡng vào các tiết dạy để giờ học đạt kết quả cao, nâng cao nhận thức
của trẻ về dinh dưỡng và VSATTP.
Ví dụ: Dạy tiết tìm hiểu MTXQ về các loại quả: Cam, chuối, đu đủ.
(giáo viên sử dụng giáo án điện tử )
Ngoài việc cho trẻ nắm được các đặc điểm chính : quả cam có hình tròn,
khi ăn cam phải bóc vỏ, bỏ hạt, giáo viên phải cho trẻ nắm được cam ăn ngọt
và bổ, có nhiều vitamin C , trẻ ăn da dẻ hồng hào, khoẻ mạnh, dạy trẻ trước
khi ăn phải rửa tay bằng xà phòng, cho trẻ biết so sánh các loại quả giống và
khác nhau. ( Giống nhau : quả Cam - chuối ăn bổ , có nhiều vi ta minC,giúp
trẻ khoẻ mạnh chóng lớn , khác nhau : quả chuối dài, cam hình tròn ,quả cam
có hạt, chuối không có hạt., vỏ chuối nhẵn , vỏ cam xù…) . giáo viên cho trẻ
làm quen các loại quả :đu đủ. xoài ,chôm chôm, dưa hấu ... trẻ rất hứng thú
kết quả gìơ học đạt kết quả cao.
+ Năm học 2011 - 2012 phòng đã tiếp tục xây dựng trường MN xi măng
chỉ đạo điểm về chuyên đề GDDD và VSATTP cho tất cả trường để học tập

rút kinh nghiệm ở một số điểm.
- Chỉ đạo các nhà trường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối
đầy đủ, các phòng học -bếp, công trình vệ sinh - các đồ dùng cá nhân của trẻ
tương đối chuẩn.
- Công đoàn đã phát động cho giáo viên trồng rau sạch, nuôi thực phẩm
sạch hàng tháng nhập cho bếp ăn nhà trường để chế biến thức ăn cho trẻ, quy
định mỗi giáo viên nhập là 10 kg rau sạch :MNXi Măng , MNĐông sơn , MN
- Công đoàn đã tổ chức trồng vườn rau sạch nhập cho bếp ăn nhà trường.
hàng ngày MN Đông Sơn ,MN Ngọc Trạo , MNQuang Trung

Trang 8


- Thực hiện sắp xếp bếp ăn hợp lý đảm bảo vệ sinh tuân thủ nguyên tắc
bếp 1 chiều , có đầy đủ dụng cụ dùng cho chế biến thực phẩm sống riêng,
thực phẩm chín riêng.
- Chỉ đạo các nhà trường phải ký hợp đồng mua thực phẩm bằng văn bản
có tính pháp lý giữa nhà trường và bên cung cấp thực phẩm. Mua thực phẩm
đúng nơi đăng ký. Hàng ngày đều có lưu mẫu thực phẩm trong 24giờ . Vì vậy
trong nhiều năm qua các nhà trường chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào.
Đặc biệt về sức khỏe của trẻ luôn khoẻ mạnh ,thông minh, số cháu suy dinh
dưỡng hàng năm đều giảm
3. Tăng cường công tác quản lý thanh tra, kiểm tra việc chăm sóc sức
khỏe trẻ.
Trong những năm gần đây tỷ lệ trẻ vào trường lớp mầm non cao, các bậc
phụ huynh cũng đã nhận thức tốt về vấn đề dinh dưỡng đối với trẻ. Do đó số
cháu ăn bán trú tại trường tương đối cao, một số trường từ chỗ chưa tổ chức
cho trẻ ăn bán trú đến năm học này đã tổ chức bán trú cho trẻ, mặc dù số cháu
ăn chưa đông mới chỉ cháu (trường MN Lam Sơn) có trường số cháu ăn tăng
: MN Đông Sơn , MN Bắc Sơn, số cháu bán trú ăn 100% kể cả khi lẻ và khu

chính. Vì vậy việc tăng cường công tác quản lý thanh tra kiểm tra việc chăm
sóc sức khỏe cho trẻ rất cần thiết. Nhờ có kiểm tra để phát hiện mức độ thực
hiện tốt hay không tốt, uốn nắn những sai sót trong việc chăm sóc nuôi dưỡng
giáo dục trẻ. Phòng đã kết hợp các nhà trường kiểm tra dưới nhiều hình thức:
Kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chuyên đề, kiểm tra công tác quản lý của hiệu
trưởng trong việc theo dõi chất lượng nuôi dưỡng trẻ, việc theo dõi thể lực trẻ
qua biểu đồ hàng tháng đối với nhà trẻ, hàng quý đối với mẫu giáo, việc chấm
biểu đồ cho trẻ mỗi giáo viên.
Phòng đã chỉ đạo các nhà trường phối kết hợp với y tế xã phường đã tổ
chức khám sức khỏe tiêm chủng định kỳ cho trẻ để phát hiện một số cháu mắc
bệnh kịp thời cùng phối hợp gia đình có hướng điều trị cho trẻ.

Trang 9


Trên cơ sở phòng bệnh thực hiện tốt, ở các nhà trường đã trú trọng việc
nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ bằng cách đầu năm họp phụ huynh để
truyên truyền về vấn đề dinh dưỡng hợp lý, các bậc phụ huynh đã thống nhất
đóng thêm tiền ăn cho trẻ. Năm học 2011-2012 mức đóng góp của trẻ thấp
nhất 10.000đ (nhà trẻ MN Quang Trung ; cao nhất 12.000đ (MN Ngọc trạo).
Trong 9 trường mầm non số cháu tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp nhất; MN xi
măng; MN Ba Đình, một số trường tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cao; MN Lam
Sơn ; MN Hà Lan .Năm học 2011-2012 tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng toàn ngành
<8% ,giảm so với năm học trước 2%
4. Xây dựng môi trường an toàn trong sạch lành mạnh.
Một trong những nhiệm vụ ở các nhà trường có thể chăm sóc nuôi dưỡng
có hiệu quả là phải trú trọng đến công tác vệ sinh môi trường; ở các khu chính
phải có nhiều cây xanh bóng mát, sân trường thoáng, phòng chỉ đạo các nhóm
lớp luôn vệ sinh , phòng nhóm sạch sẽ, cửa sổ thông thoáng có đủ ánh sáng.
Các lớp nền lát gạch hoa, luôn khô ráo, các lớp lên được kế họach tổng vệ

sinh phòng nhóm, đồ dùng đồ chơi từng tuần, từng tháng, bàn ghế, đồ dùng
đồ chơi, việc trang trí lớp theo chủ điểm đẹp, gọn gàng,phát động phụ huynh
huy động quyên góp cây cảnh hoa, tạo góc thiên nhiên mỗi lớp. Đồ dùng
dụng cụ của trẻ: bát, thìa tráng nước sôi hàng ngày.
Thực hiện vệ sinh cá nhân cho trẻ hàng ngày sạch sẽ, hàng tuần vệ sinh
cắt móng tay cho trẻ. Đầu năm phòng đã lên kế họach kiểm tra việc trang trí
các nhóm lớp, vệ sinh môi trường - nề nếp các cháu một số trường thực hiện
tốt; MN Đông Sơn; MN Bắc Sơn; MN Xi măng.
Hiện nay vấn đề dinh dưỡng và VSATTP đang là mối quan tâm hàng đầu
của toàn xã hội. Trong những năm gần đây ở một số tỉnh thành, các địa
phương đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm. Vì vậy vấn đề VSATTP
ngành luôn luôn trú trọng quan tâm, đã chỉ đạo các trường tổ chức bán trú: 8/8
trường đều có hợp đồng cung cấp thực phẩm, phát động cho mỗi CBGV trồng

Trang 10


rau sạch, nuôi gà, vịt, trứng đảm bảo chất lượng cung cấp cho bếp ăn của
trường.

- Chỉ đạo các trường từ khâu sơ chế đến khâu chế biến thực phẩm phải
luôn giữ vệ sinh sạch sẽ, đảm bảo cho trẻ ăn hợp lý. Vì vậy trong nhiều năm
qua ở các nhà trường chưa xảy ra hiện tượng ngộ độc thực phẩm.
5. Phối kết hợp các ngành các cấp hội phụ huynh để tuyên truyền về
vấn đề dinh dưỡng và VSATTP.
Quá trình chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non mang tính xã hội hóa
cao, để thực hiện có hiệu quả cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường gia
đình và toàn xã hội.
+Phối hợp với các ban ngành đoàn thể, với cấp ủy chính quyền địa
phương tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi cho các nhà

trường.
- Tuyên truyền bằng nhiều kênh thông tin ở phường xã để huy động trẻ
vào lớp tỷ lệ cao (nhiều năm nay các nhà trường đã phối hợp rất tốt).
- Từng bước thăm mưu CSVC- trang thiết bị cho các trường để tiến tới
xây dựng trường chuẩn Quốc gia.
- Phối hợp với trung tâm y tế xã, phường để tổ chức khám sức khoẻ cho
trẻ theo định kỳ.
- Phối hợp với đội ngũ tuyên truyền viên của hội để trang bị cho hội viên
những kiến thức nuôi dạy trẻ theo khoa học - kiến thức vấn đề dinh dưỡng VSATTP
- Phối hợp với hội phụ nữ huy động trẻ đến trường, tổ chức các hội thi
"Kiến thức mẹ - sức khỏe con". Hội thi "Mâm cơm dinh dưỡng" trong nhiều
năm qua sự phối hợp này đã có hiệu quả cao.

Trang 11


- Tuyên truyền vận động trong sinh hoạt hội để đóng góp cho trẻ ăn bán
trú, vận động mua sắm các đồ chơi trang thiết bị dạy và học.
- Phối hợp trung tâm y tế dự phòng kiểm tra các bếp ăn 8 trường Mầm
non . Kết quả: các nhà trường đều thực hiện tố khâu vệ sinh an toàn thực
phẩm . tổ chức khám sức khỏe theo định kỳ 1 năm 2 lần cho trẻ và cho cô cấp
dưỡng. Hướng dẫn các bậc cha mẹ biết phối hợp nhà trường trong việc chăm
sóc nuôi dưỡng con theo khoa học, biết chăm sóc sức khỏe phụ nữ từ khi
mang thai về chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, khám thai định kỳ.

+ Trong nhiều năm qua ở cá nhà trường đã có sự phối hợp chặt chẽ, đoàn
thanh niên các cơ quan, đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn tạo các công trình
phúc lợi rất tốt ( MN Bắc Sơn; MN Ngọc Trạo) các đơn vị bộ đội đã xây dựng
cho nhà trường hiên chơ, sàn chơi..
+ Đối với các bậc phụ huynh:

Các nhà trường ở tất cả các lớp đều có góc tuyên truyền về GDDD và
VSATTP, dán các hình ảnh các món ăn đủ dinh dưỡng.
- Hàng ngày các cô giáo đã trực tiếp trao đổi phụ huynh về tình trạng
sứckhỏe con em mình để cùng phối kết hợp chăm sóc, đặc biệt trao đổi biểu
đồ của trẻ hàng tháng.
- Tuyên truyền thông qua hội thi, năm học 2011-2012 tổ chức hội thi "Bé
khỏe bé ngoan" từ cấp trường đến cáp thị được các bậc phụ huynh rất quan
tâm. Năm học 2011-2012 các bậc phụ huynh đã có sự đầu tư cơ sở vật chất ở
các trường rất lớn.
C- KẾT LUẬN
1. Kết quả.

Trang 12


Qua quá trình chỉ đạo thực hiện vấn đề giáo dục dinh dưỡng và VSATTP
trong nhiều năm và đặc biệt trong năm học 2011- 2012 đã đạt được một số kết
quả hữu hiệu.
+ Đối với đội ngũ giáo viên:
- đội ngũ CBGV đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác GDDD và
VSATTP. từ đó các cô có ý thức trách nhiệm cao trong việc chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ, đặc biệt trong việc cân đo theo dõi biểu đồ để đánh giá tình hình
sức khỏe của trẻ, biết phối kết hợp chặt chẽ với gia đình trong việc bổ sung,
điều chỉnh chế độ ăn cho trẻ hợp lý.
+ Đối với các bậc phụ huynh:
Các bậc phụ huynh đã nhận thức tầm quan trọng của việc đa trẻ vào các
trường mầm non, thật sự tin tưởng đội ngũ CBGV, vì vậy các bậc phụ huynh
đã gửi con vào trường lớp khá đông, so với năm học trứớc tỷ lệ huy động trẻ
tăn 2%.
Cá bậc phụ huynh rất yên tâm về chế độ ăn bán trú ở trường. Vì vậy số

trẻ ăn bán trú tại các trường mầm non tỷ lệ cao .Nhà trẻ đạt 98,4%, Mẫu giáo
đạt 93,2%
+ Đối với các cháu:
- Nhìn chung các cháu ăn ngủ tại trường tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm - các
cháu ngoan, nề nếp có nhiều thói quen trong sinh hoạt hàng ngày. Qua khảo
và đánh giá kết quả cuối năm học tình hình sức khỏe trẻ so với năm học trước
tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm xuống 2% .
Trong năm học 2011- 2012 mức ăn của trẻ cũng đã được tăng lên, trường
đóng mức thấp nhất là 3.000đ; cao nhất là 5.000đ/cháu/ngày.
Năm học 2011- 2012 hội thi Bé khoẻ bé ngoan cấp tỉnh đạt giải nhất toàn
đoàn; 5 cháu đạt giải xuất sắc cấp tỉnh.
2. Kiến nghị đề xuất.

Trang 13


- Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể, tiếp
tục đầu tư xây dựng CSVC trang thiết bị cho các trường mầm non sớm xây
dựng khu chính Trường MN Lam Sơn; Xây dựng trường chuẩn quốc gia
trường MN Ba Đình.
- Tạo điều kiện hỗ trợ trang thiết bị đồ chơi ngoài trời các trường mầm
non cận chuẩn - các trường MN ở các xã khó khăn.
Bỉm sơn, ngày 15 tháng 5 năm 2012
Người viết

Nguyễn Thị Sự

Trang 14




×