Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận xử lý tình huống Giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.83 KB, 21 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật đất đai
2. Quyết đònh số 297/ CT ngày 02/10/1991 của Chủ tòch HĐBT ( nay là Thủ
tướng Chính phủ) .
3. Quyết đònh số 111/CP ngày 14/4/1997 của Chính phủ.
4. Thông tư số 201/ BXD ngày 23/6/1980 của Bộ Xây Dựng .
5. Thông tư số 383/BXD ngày 05/10/1991 của Bộ Xây Dựng .
6. Nghò quyết 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội .
7. Chỉ thò số 07/2004/CT-TTg ngày 27/2/2004 của Thủ tướng Chíng Phủ .
8. Tài liệu của các cơ quan khác .

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

1


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

A. LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý nhà đất là một trong những lónh vực thuộc hoạt động quản lý
Nhà nước , là hoạt động liên quan đến lợi ích của cá nhân cong dân và các tổ
chức trong xã hội .
Để giải quyết công tác quản lý nhà đất , Nhà nước đã ban hành các
văn bản sau đây :
- Luật đất đai sửa đổi năm 1999 .


- Quyết đònh số 297/CT ngày 02 tháng 10 năm 1991 của Chủ tòch Hội
Đồng Bộ Trưởng nay là Thủ Tướng Chính Phủ về việc giải quyết một số vấn
đề về nhà ở .
- Quyết đònh số 111/CP ngày 14 tháng 04 năm 1997 của Chính Phủ về
việc quản lý nhà đất vắng chủ .
- Thông tư số 201/BXD ngày 23 tháng 06 năm 1980 của Bộ Xây Dựng
hướng dẫn việc quản lýnhà đất vắng chủ .
- Thông tư số 383/BXD ngày 05 tháng 10 năm 1991 của Bộ Xây Dựng
hướng dẫn giải quyết một số vấn đề nhà ở.
- Nghò quyết 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Qốc Hội
- Chỉ thò 07/2004/CT=TTg ngày 27/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ.
- Luật sửa đổi bổ sung Luật đất đai năm 2004.
Việc Nhà nước quản lyãnã hội bằng pháp luật buộc mọi cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi công dân chấp hành hiến pháp và pháp luật, không
một ai được đứng trên hoặc ngoài vòng pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi ích
của nhân dân nhằm duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp
luật,thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của con người trong công cộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn hiện nay trong hoạt động quản lý nhà nước đã có rất nhiều
tình huống, nhiều sự việc phát sinh như tình huống tranh chấp nhà đất. Việc
giải quyết tình huống này giúp răng cường pháp chế xã hội chủ nghóa, giữ
vững kỷ cương phép nước, thực hiện pháp luật nghiêm minh.

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

2


Tiểu luận tốt nghiệp


Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Xuất phát từ các lý do nêu trên, bản thân em được viết tiểu luận cuối
khóa với đề tài : "Giải quyết khiếu nại, tranh chấp nhà đất" với các nội dung:
- Mô tả tình huống.
- Mục tiêu của việc xử lý tình huống.
-Phân tích nguyên nhân và hậu quả.
-Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống.
- Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án lựa chọn
Trong thời gian theo học lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính
nhà nước tuy không nhiều, nhưng với sự nhiệt tình của quý thầy giáo đã
truyền đạt cho Tôi những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong cuốc sốâng,
công tác. Tôi xin được gửi tới quý thầy lời chúc sức khỏe và biết ơn sâu sắc,
chân thành nhất của Tôi.
Vì thời gian theo học lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà
nước quá ngắn, thời gian đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu chưa được nhiều nên
mặc dù đã có nhiều cố gắng trong khi giải quyết tình huống, song không sao
tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quý thầy thông cảm và giúp đỡ để tiểu luận
được hoàn thành tốt.
Xin chân thành cảm ơn ./.

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

3


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh


B. NỘI DUNG
I. Mô tả tình huống.
Ông Trần Quang Hạnh sinh năm 1935 và vợ là bà Lê Thò Hải sinh năm
1937 là gia đình chính sách có công với cách mạng. Ông Hạnh và bà Hải
không có con, chưa có nhà ở, hiện tại đang ở nhờ nhà người cháu ở tổ B
phường NC, thành phố QA, tỉnh Q.
Theo lời trình bày của ông Hạnh:
Vào năm 1962 vợ chồng ông Hạnh, bà Hải được cha mẹ bà Hải ( cha
mẹ vợ ông Hạnh) cho 700m2 đất tại tổ B phường NC, thành phố QA, tỉnh Q
để vợ chồng ông Hạnh, bà Hải lập thổ cư. Hồ sơ về 700m 2 đất này đã bò mất
khi nhà bò cháy vào năm 1972.
Năm 1963 Vợ chồng ông Hạnh, bà Hải xây dựng một căn nhà tranh
vách đất trên diện tích 700m2 đất được cho, đến năm 1979 ông hạnh xây
dựng lại ngôi nhà cấp 4 ( ngôi nhà hiện nay vẫn còn đang được sử dụng ).
Sau năm 1975 ông Hạnh hành nghề thầu xây dựng. Do alf ăn thua lỗ,
ông Hạnh còn nợ tiền nhân công của người lao động. Để kiếm tiền trả nợ cho
nhân công và tạo vốn làm ăn tiếp, đầu năm 1980 vợ chồng ông hạnh gởi nhà
và vườn cho người em ruột là Trần Quang Phúc bảo quản, để đi làm ăn tại
tỉnh C . Đến ngày 15/12/1980 chính quyền đòa phương đến lập biên bản kiểm
kê và niêm phong ngôi nhà. Sau gần 14 năm ông Hạnh viết đơn yêu cầu
chính quyền đòa phương trả lại nhà và đất cho ông và sau đó ông liên tục gởi
đơn cho các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến đòa phương yêu cầu
trả lại nhà và đất cho ông
Việc quản lý và sử dụng nhà và đất vườn của ông Hạnh khi kiểm kê
niêm phong của các cấp chính quyền như sau:
Ngày 15/12/1980, UBND phường NC đến kiểm kê tài sản và niêm
phong nhà. Trong biên bản kiểm kê và niêm phong tài sản có nội dung: "
ông Trần Quang Hạnh ở Tổ B, phường NC làm nghề thầu xây dựng đã bò tòa
án gọi nhiều lần vì thiếu nợ Nhà nước. Ngày 10/02/1980, vợ chồng ông Hạnh
bỏ nhà ra đi, nhà giao lại cho em ruột là Trần Quang Phúc bảo quản, đến

nay đã hơn 10 tháng không về. UBND phường NC lập biên bản kiểm kê và
niêm phong tài sản, nhà ở. Giao Tổ B thông báo cho toàn dân trong Tổ biết"
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

4


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Ngày 26/12/1980 phòng quản lý nhà đất và công trình công cộng thành
phố QA có tờ trình không số về việc : " Quản lý nhà vắng chủ, vô chủ" gởi
UBND thành phố QA với nội dung : " Theo văn bản tại Viện kiểm sát nhân
dân thành phố QA, ông Trần Quang Hạnh trước đây là thầu xây dựng có
thiếu nợ nhà nước và nhân dân lao động đòa phương ( trong đó có nợ của một
số công ty, xí nghiệp nhà nước đóng trên đòa bàn thành phố QA, tỉnh Q) với
số tiền là 32.000 đồng, nhưng ông không trả và đã bỏ nhà đi khỏi đòa phương
từ ngày 10/02/1980". Đề nghò UBND thành phố QA ra quyết đònh quản lý
toàn bộ cơ sở nhà và đất văng chủ nêu trên.
Ngày 23/01/1981, UBND thành phố QA ra quyết đinh số 55/QĐ-UB
với nội dung " tạm quản lý nhà và đất vắng chủ của ông Trần Quang hạnh ở
Tổ B, phường NC và giao ngôi nhà, đất đã nêu trên cho phòng Quản lý nhà
đất và công trình công cộng thành phố quản lý ngôi nhà và đất theo đúng
pháp luật"
Ngày 25/01/1981 phòng Quản lý nhà đất và công trình công cộng
thành phố, Thanh tra thành phố, Viện kiểm sát nhân dân thành phố, UBND
phường NC lập biên bản kiểm kê ngôi nhà, đất của ông Trần Quang Hạnh và
niêm phong để thực hiện quyết đònh số 55/QĐ-UB của UBND thành phố QA
nêu trên. Trong biên bản ghi diện tích đất vườn là 608m 2, diện tích xây dựng

nhà và công trình phụ là 92m2.
Ngày 10/02/1981 UBND phường NC lập biên bản ngôi nhà của ông
Hạnh ở tổ B phường NC thuộc nhà cấp 4 là nhà vắng chủ, đề nghò UBND
tỉnh Q quản lý.
Ngày 20/02/1981 phòng Quản lý nhà đất và công trình công cộng
thành phố QA lập biên bản tạm giao nhà và đất cho ông Tạ Quý sử dụng làm
nhà ở ( lúc bấy giờ ông Tạ Quý là cán bộ đang công tác tại Sở Văn hóaThông tin tỉnh Q). Biên bản này được UBND thành phố QA thò thực. Ông Tạ
Quý sử dụng nhà và đất vườn từ ngày 20/02/1981 mãi đến tháng 10/1992 ông
Tạ Quý ký hợp đồng thuê nhà với công ty Kinh doanh xây dựng nhà Q ( công
ty này được UBND tỉnh Q giao nhiệm vụ quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà
nước để kinh doanh cho thuê).
Ngày 11/10/1992 ông Tạ Quý viết đơn xin hóa giá ngôi nhà đang sử
dụng nêu trên.
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

5


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Ngày 09/12/1993 Hội đồng hóa giá nhà của tỉnh gồm lãnh đạo các Sở,
ban, Ngành : Xây dựng, Đòa chính, Lao động- Thương binh- Xã hội, Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh, Thanh tra tỉnh, thành viên của 2 tổ giúp việc Hội
đồng ( tổ Kỹ thuât- Đònh giá và tổ Chính sách) đã xem xét và thống nhất đề
nghò tỉnh hóa giá nhà cho ông Tạ Quý. Trên cơ sở đó Sở Xây dựng có tờ trình
số : 90/SXD-QLN ngày 16/12/1993 và UBND tỉnh có quyết đònh số:
2085/QĐ-UB ngày 28/12/1993 bán hóa giá ngôi nhà nguyên của ông Trần
Quang Hạnh ở tại Tổ B, phường NC, thành phố QA mà nhà nước đã quản lý

thuộc diện vắng chủ cho ông Tạ Quý và vợ là bà Hoàng Ngọc Mai. Tại
Điều 1 Quyết đònh số 2085/QĐ-UB có ghi: Nhà có tổng diện tích xây dựng
và công trình phụ là 92m2 , diện tích đất 189m2 , giá bán là 5.608.000 đồng.
Ông Tạ Quý đã đóng thuế trước bạ và đăng ký ngôi nhà trên với cơ quan
quản lý nhà nước.
Nhà đất ông Hạnh đòi lại thuộc thửa đất có số hiệu 276 thuộc tờ bản
đồ số 4 được đo vẽ năm 1982 với diện tích 700m2 .
Các cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại việc đòi lại nhà đất cho ông
Trần Quang Hạnh như sau:
* Sở Xây dựng tỉnh Q có công văn số : 424/SXD-TT ngày 09/9/1996
trả lời đơn của ông Trần Quang Hạnh đồng thời gửi UBND tỉnh Q và các
ngành chức năng liên quan với nội dung như sau: " Ngôi nhà của ông Trần
Quang Hạnh ở Tổ B, phường NC, thành phố QA thuộc diện vắng chủ, nhà
nước đã quản lý theo quyết đònh số 55/QĐ-UB ngày 23/01/1981 của UBND
thành phố QA về việc quản lý nhà vắng chủ của ông Trần Quang Hạnh và
các ngành chức năng đã lập biên bản kiểm kê quản lý nhà vắng chủ ngày
25/01/1981 và đã bố trí người khác sử dụng từ đó đến nay. Căn cứ theo quyết
đònh 279/CT ngày 02/10/1991 của Chủ tòch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ
tướng Chính phủ) về việc giải quyết một số vấn đề về nhà ở và thông tư
383/BXD-VKT ngay 05/10/1991 của Bộ Xây dựng thì ngôi nhà trên thuộc sở
hữu nhà nước. Năm 1993 thực hiện chủ trương chung của nhà nước, UBND
tỉnh Q đã có quyết đònh số 2085/QĐ-UB ngày 28/12/1993 về việc " bán nhà
do nhà nước quản lý" cho chủ hộ đang sử dụng là ông Tạ Quý.

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

6


Tiểu luận tốt nghiệp


Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

* Thanh tra tỉnh Q có báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh đơn khiếu nại
của ông Trần Quang Hạnh theo báo cáo số 199/BC-TTr ngay 13/9/1997 đã
có kết luận và kiến nghò xử lý như sau:
1/ Kết luận
1.1 Ngôi nhà và đất vườn của ông Trần Quang hạnh ở tổ B, phường
NC, thành phố QA chưa có văn bản của cấp có thẩm quyền ( cấp tỉnh) quản
lý, chỉ có quyết đònh số 55/QĐ-UB ngày 23/01/1981 của UBND thành phố
QA về việc " tạm quản lý theo diện vắng chủ". Do vậy, ngôi nhà nêu trên
chưa thuộc sở hữu nhà nước.
1.2. Theo quy đònh tại quyết đònh 111/CP ngày 14/4/1997 của Chính
phủ và thông tư 201/BXD ngày 23/6/1980 hướng dẫn việc quản lý nhà đất
vắng chủ ở các tỉnh phía nam thì ông Hạnh không thuộc diện nhà nước quản
lý nhà đất.
1.3. Sở xây dựng tham mưu UBND tỉnh Q ra quyết đònh số 2085/QĐUB ngày 28/12/1993 bán ngôi nhà kèm theo diện tích đất 289m 2 nêu trên cho
ông Tạ Quý là trái với quy đònh bán hóa giá nhà cấp 3, cấp 4 thuộc sở hữu
nhà nước kèm theo quyết đònh số 1385/QĐ-UB ngày 01/10/1992.
1.4. Thanh tra tỉnh chưa tìm thấy hồ sơ chứng cứ nào thể hiện ông Trần
Quang Hạnh có thiếu nợ nhà nước, cũng như chưa tìm thấy có hồ sơ do cá
nhân hoặc cơ quan nhà nước khiếu nại việc ông Hạnh có thiếu nợ họ. Hiện
tại vợ chồng ông Trần Quang Hạnh đang gặp khó khăn trong cuộc sống vì
chưa có nhà ở.
2. Kiến nghò xử lý:
UBND tỉnh Q giải quyết theo một trong 2 phướng án như sau:
a) Phương án 1 :
- Ra quyết đònh hủy bỏ quyết đònh số 2085/QĐ-UB ngày 28/12/1993 về
việc " bán nhà do nhà nước quản lý" mà trước đây UBND tỉnh đã bán ngôi
nhà và 289m2 đấùt vườn của ông Trần Quang Hạnh ở Tổ B, phường NC, thành

phố QA cho ông Tạ Qúy .
-Hoàn trả số tiền 5.608.000 đồng cho ông Tạ Quý đã nộp cho nhà nước
để mua ngôi nhà và đất nói trên, đồng thời cấp cho ông Tạ Quý một lô đất
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

7


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

diện tích 100m2 để xây dựng nhà ở ổn đònh cuộc sống. Ông Tạ Quý phải trả
lại ngôi nhà và đất cho UBND thành phố QA .
- Chỉ đạo UBND thành phố QA giao trả lại nhà và đất vườn cho ông
Trần Quang Hạnh ở Tổ B, phường NC, thành phố QA. Ông Trần Quang Hạnh
phải có trách nhiệm thanh tóan cho ông Tạ Quý số tiền tu bổ, sữa chữa nhà
( nếu có) do ông Quý đã bỏ ra.
b) Phương án 2:
- Giữ nguyên quyết đinh số 2085/QĐ-UB ngày 28/12/1993 về việc
" bán nhà do nhà nước quản lý" của UBND tỉnh Q nêu trên.
- giao trả số diện tích đất vườn còn lại là 411m 2 ( 700m2 - 289m2) của
thửa đất số hiệu 494 tờ bản đồ số 6 lập năm 1991 cho ông Trần Quang Hạnh
ở Tổ B, phường NC, thành phố QA để ông xây dựng nhà ở ( diện tích đất này
ông Tạ Quý đang tạm thời sử dụng)
- Giao Sở Xây dựng tính tóan đề bù cho ông Trần Quang Hạnh một số
tiền ( lấy từ quỹ nhà ở ) tương ứng với ngôi nhà cũ nêu trên để ông Hạnh xây
dựng lại nhà ở.
- Chỉ đạo Sở Đòa chính, UBND thành phố Qa cắm mốc giới, điều chỉnh
diện tích đất, hồ sơ đòa chính phù hợp với việc sử dụng đất của hai hộ trần

Quang Hạnh và Tạ Quý.
- UBND tỉnh Q chỉ đạo kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá
nhân trong việc tham mưu cho UBND tỉnh bán hóa giá nhà" thuộc sở hữu nhà
nước" cho ông Tạ Quý trái với quy đònh của pháp luật và có hình thức xử lý
thích hợp.
* UBND tỉnh Q
Sau khi xem xét báo cáo số 199/BC-TTr ngày 13/9/1997; công văn số
93/CV-TTr ngày 01/4/1998 về việc "báo cáo đề xuất hướng giải quyết khiếu
nại của ông Trần Quang Hạnh" của Thanh tra tỉnh và xét đề nghò của các
ngành chức năng tại phiên họp Hội đồng xử lý hành chính ngày 10/8/1998,
UBND tỉnh Q đã có quyết đònh số 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 về việc "
giải quyết khiếu nại của ông Trần Quang Hạnh ở Tổ B, phường NC, thành
phố QA, nội dung quyết đònh như sau:
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

8


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Điều 1. UBND tỉnh không chấp nhận đòi lại nhà và đất của ông Trần
Quang Hạnh vì:
-Nhà và đất vườn trước đây của ông ở Tổ B, phường NC, thành phố QA
nhà nước đã quản lý vắng chủ tại quyết đònh số : 55/QĐ-UB ngày 23/01/1981
của UBND thành phố QA đã bố trí cho người khác sử dụng từ đó đến nay.
- Căn cứ theo thông tư số 383/BXD ngày 05/10/1991 của Bộ Xây dựng
hướng dẫn thi hành quyết đònh số : 279/CT ngày 02/10/1991 của Chủ tòch Hội
đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc giải quyết một số vấn

đề nhà ở thì ngôi nhà trên thuộc diện sở hữu nhànước.
Điều 2. UBND tỉnh giao cho Sở Tài nguyên - Môi trường làm đầy đủ
thủ tục, hồ sơ đòa chính trình UBND tỉnh công nhận quyền sử dụng đất ở và
đất sản xuất cho vợ chồng ông Trần Quang Hạnh nằm trong thửa đất số 494
tờ bản đồ số 6 của phường NC lập năm 1993 ( trừ diện tích đất nhà nước đã
giao quyền sử dụng cho ông Tạ Quý theo quyết đònh số 2085/QĐ-UB ngày
28/12/1993 của UBND tỉnh ).
Điều 3. Giao cho Thanh tra tỉnh, Sở Tài nguyên- môi trường, UBND
thành phố QA phối hợp tổ chức kiểm tra việc thực hiện này.
* Việc thực hiện quyết đònh số 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của
UBND tỉnh Q:
Sau khi quyết đònh ban hành có hiệu lực từ ngày 10/12/1998, Thanh tra
tỉnh chủ trì phối hợp với Sở Tài nguyên- môi trường, UBND thành phố QA,
UBND phường NC họp để bàn thống nhất các bước thực hiện như sau :
- Thanh tra tỉnh, Sở Tài nguyên- môi trường, UBND thành phố QA,
UBND phường NC đến tại hiện trường đo đạt, cắm mốc giới, vẽ sơ đồ cụ thể
hiện trạng lô đất.
- Khi có đầy đủ các số liệu, Sở Tài nguyên - môi trường hoàn chỉnh thủ
tục trình UBND tỉnh giải quyết đất cho ông Trần Quang Hạnh.
Ngày 28/12/1998, đại diện Thanh tra tỉnh, Sở Tài nguyên - môi trường,
UBND thành phố QA, UBND phường NC đến hiện trường ( thửa đất ký hiệu
494 nêu trên ) để đo đạt cắm mốc giới thì ông Quý cho biết : "Gia đình ông
không thực hiện quyết đònh số 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của UBND tỉnh"
, đồng thời ông Quý còn đưa ra giấy chứng nhận số 1080/ĐKĐ do ông Trần
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

9


Tiểu luận tốt nghiệp


Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Đặng ( nguyên chủ tòch UBND phường NC kiêm chủ tòch Hội đồng đăng ký
ruộng đất) ký ngày 25/8/11983 chứng nhận ông Quý đã đăng ký thửa đất số
276 trong tờ bản đồ số 299 ( nay là thửa đất 494) và có hành vi ngăn cản,
không cho đại diện các cơ quan thực hiện nhiệm vụ. Do vậy, việc đo đạt ,
cắm mốc không thực hiện được.
Do không triển khai thực hiện được Quyết đònh số 1780/QĐ-UB ngày
28/8/1998 của UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh đã có công văn số 14/TTr ngày
15/01/1999 báo cáo UBND tỉnh , đồng thời có những kiến nghò sau:
-1. Ông Tạ Quý và vợ là bà Hoàng Ngọc Mai đều là đảng viên và
đang công tác tại Sở Vắn hóa - Thông tin tỉnh, không những không tự giác
chấp hành quyết đònh số 1780/QĐ-UB mà còn ngăn cản các cơ quan chức
năng thi hành nhiệm vụ là hành vi thiếu tôn trọng kỷ cương Nhà nước, làm
giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại của công
dân của UBND tỉnh. Do đó đề nghò UBND tỉnh chỉ đạo Sở văn hóa - Thông
tin và UBND phường NC kiểm điểm ông Quý và vợ là bà Mai về việc không
chấp hành quyết đònh số 1780/QĐ-UB của UBND tỉnh.
2. Nếu sau khi giáo dục, động viên, giải thích mà ông Quý và bà Mai
không chấp hành thực hiện quyết đònh số 1780/QĐ-UB, đề nghò UBND tỉnh
giao cho UBND thành phố QA phối hợp với Sở Tài nguyên - môi trường,
UBND phường NC tổ chức cưỡng chế thực hiện việc đo đạt, cắm mốc giới sử
dụng đất để thực hiện quyết đònh số 1780/QĐ-UB của UBND tỉnh .
Sau khi xem xét công văn sốâ 14/CV-TTr ngày 15/01/1999 của Thanh
tra tỉnh, UBND tỉnh đã có công văn số 185/UB-NC ngày 28/02/1999 về việc
thực hiện quyết đònh số 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của UBND tỉnh với ý
kiến chỉ đạo như sau :
Giao cho giám đốc Sở văn hóa - thông tin tổ chức kiểm điểm việc ông
Tạ Quý và bà Hoàng Ngọc Mai không chấp hành quyết đònh số 1780/QĐ-UB

ngày 28/8/1998 của UBND tỉnh, yêu cầu ông Quý và bà Mai phải nghiêm túc
chấp hành và báo cáo kết quả cho UBND tỉnh biết trước ngày 15/3/1999.
Nếu ông không chấp hành quyết đònh của UBND tỉnh; giao cho UBND thành
phố QA chủ trì phối hợp với Thanh tra tỉnh, Sở tài nguyên - môi trường,
UBND phường NC tổ chức lực lượng cưỡng chế để thực hiện quyết đònh số
1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của UBND tỉnh.
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

10


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Gia đình ông Quý không những không thực hiện quyết đònh số
1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của UBND tỉnh mà còn có đơn khiếu nại gửi
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Q
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Q :
Kháng nghò số 338/ KS-XKT ngày 19/10/1999 của Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Q gửi Chủ tòch UBND tỉnh Q: " Đề nghò xem xét lại việc giải quyết
khiếu nại của ông Tạ Quý và bà Hoàng Ngọc Mai"
Sau khi thụ lý đơn khiếu nại của ông Quý và bà Mai, Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh đã nghiên cứu hồ sơ liên quan đến vụ khiếu nại thì quá trình
diễn biến vụ việc giống như phần trước đã trình bày. Riêng Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh còn điều tra xác minh thêm: Hiện nay ông Hạnh không đăng
ký tạm trú, tạm vắng cũng như không đăng ký hộ khẩu tại đòa phương
( phường NC), ông Hạnh đòi lại nhà rồi vào miền nam; Đòa phương ( phường
NC) không rõ hoàn cảnh và tình trạng thực tế gia đình ông Hạnh, đồng thời
ông Hạnh và bà Hải cũng không cư ngụ tại tỉnh C

Từ những cơ sở trên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh thấy rằng : Năm
1980 gia đình ông hạnh đã bỏ đòa phương đi nơi khác không báo cáo với cấp
có thẩm quyền, không có tài liệu mang tính căn cứ và hợp pháp chứng minh
ông hạnh gửi nhà cho ông Trần Quang Phúc hay một người nào khác. Khi
niêm nhà có sự chứng kiến của ông Trần Quang Vinh là anh ruột của ông
Trần Quang hạnh và những người hàng xóm. Sau đó ông Hạnh cũng được
biết nhà mình bò quản lý theo diện vắng chủ nhưng không khiếu nại, mãi đến
15 năm sau ông Hạnh mới có đơn đòi lại nhà. Do vậy, ngôi nhà và diện tích
đất vườn trước đây của ông Trần Quang Hạnh ở tổ B, phường NC, thành phố
QA nhà nước quản lý theo diện vắng chủ là có cơ sở và ngôi nhà trên thuộc
sở hữu nhà nước là đúng pháp luật.
Việc UBND tỉnh nêu tại Điều 2 quyết đònh số 1780/QĐ-UB ngày
28/8/1998 của UBND tỉnh công nhận quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất
cho vợ chồng ông Hạnh là mâu thuẫn với Điều 1 của quyết đònh này. Do vây,
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh đề nghò ông Chủ tòch UBND tỉnh Q xem xét
điều chỉnh Điều 2 của quyết đònh 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của UBND
tỉnh theo hướng không công nhận quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất cho vợ
chồng ông Hạnh nằm trong thửa 494 tờ bản đồ số 6 của phường NC( đã trừ
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

11


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

diện tích đất nhà nước đã giao cho ông Tạ Quý) mà nên chỉ đạo xử lý theo
đúng qui đònh của Luật đất đai.
* UBND tỉnh Q.

Sau khi có Kháng nghò số 338/ KS-XKT ngày 19/10/1999 của Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh ; UBND tỉnh Q yêu cầu sở Xây dựng báo cáo về việc
quản lý nhà ông Trần Quang Hạnh và việc hóa giá nhà cho ông Tạ Quý.
Sở Xây dựng có báo cáo số 17/BC-SXD ngày 02/02/2000 nêu rõ :
1. Việc nhà nước quản lý nhàđất vắng chủ của ông Trần Quang Hạnh :
Quá trình diễn biến như phần trình bày trước và khẳng đònh:
- Nhà đất của ông Hạnh nhà nước quản lý là thuộc diện nhà vắng chủ
đúng theo mục 1 thông tư 201/BXD ngày 23/6/1978 của Bộ Xây dựng
2. Việc hóa giá nhà cho ông Tạ Quý:
Căn cứ quyết đònh số 1358/QĐ-UB ngày 07/10/1992 của UBND tỉnh Q
về việc " Ban hành quy đònh hóa giá nhà cấp 3, cấp 4 thuộc sở hữu nhà nước"
thì ông Quý được mua nhà hóa giá theo đúng quy đònh. Trước khi UBND tỉnh
ra quyết đònh hóa giá nhà cho ông Quý theo quyết đònh số 2085/QĐ -UB
ngày 16/12/1993, Hội đòng hóa giá nhà của tỉnh bao gồm lãnh đạo các Sở,
Ban, Ngành chức năng đã xem xét cụ thể và thống nhất cụ thể cho bán hóa
giá, do đó việc mua nhà hóa giá của ông Quý là đúng trình tự, đúng pháp
luật.
II. MỤC TIÊU TÌNH HUỐNG
Việc khiếu kiện đòi lại nhà, đất vườn của ông Trần Quang Hạnh đã
kéo dài hơn 10 năm, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân và sự
việc diễn ra từ năm 1980 đến nay đã hơn 25 năm, nhưng các cơ quan thẩm
quyền của nhà nước chưa giải quyết xong sự việc. Đây là vấn đề rất khó giải
quyết, liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều cơ quan và chòu sự chi phối bởi
nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Các cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh Q
chưa có sự thống nhất cao, mỗi ngành, mỗi cơ quan nhận thức vấn đề mỗi
khác làm cho vụ việc càng thêm phức tạp. Để giải quyết vụ khiếu kiện trên
ta cần xác đònh mục tiêu xử lý như sau :

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui


12


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

1. Giải quyết dứt điểm vụ khiếu nại đòi lại nhà và đất vườn đối với
ông Trần Quang Hạnh và bà Lê Thò Hải một cách có tình, có lý nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của công dân dân.
2. Giải quyêt sực việc trên nhằm phân dònh đúng, sai theo quy đònh của
pháp luật mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã giải quyết, bảo đảm kỷ
cương phép nước trong hoạt động quản lý nhà nước trên lónh vực nhà, đất.
3. Xử lý nghiêm minh những cán bộ công chức, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã không làm hết trách nhiệm khi giải quyết sự việc, nhằm trả
lại công bằng xã hội cho công dân trên lónh vực nhà đất, đồng thời bảo đảm
uy tín của chính quyền đòa phương trong hoạt động quản lý lónh vực này.
III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1) Phân tích tình huống:
Nhà nước quản lý nhà tư nhân nói chung và nhà vắng chủ nói riêng,
đặc biệt sau năm 1975 đến năm 1985 là rất nhiều và cũng có nhiều cấp chính
quyền ( tỉnh, huyện, xã) ra quyết đònh quản lý hoặc có quyết đònh quản lý
tạm thời và sau chuyển thành sở hữu nhà nước. Chúng ta cũng biết rằng ở
những thời điểm này các văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ, chư a
đồng bộ, còn chồng chéo, một số cán bộ công chức làm công tác quản lý nhà
nước còn yếu, chưa có kinh nghiệm thực tiễn, nhất là lónh vực quản lý nhà
đất, đồng thời nhận thức về pháp luật của nhân dân chưa cao, an ninh trật tự
xã hội chưa thực sự ổn đònh. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự vụ khiếu kiện
đòi lại nhà, đất do nhà nước quản lý của một số người trong thời gian qua.
Trường hợp nhà đất của ông Trần Quang Hạnh:

Khi gia đình ông Hạnh đi vắng không báo cáo chính quyền đòa phương,
khi nhà nước kiểm kê niêm phong nhà có có ông anh là Trân Quang Vinh và
những người hàng xóm chứng kiến, còn theo ông Hạnh khi đi vắng có giao
nhà cho em ruột là Trần Quang Phúc trông coi lại không có chứng cứ nào
chứng minh.
Ông Hạnh cho rằng thời gian vắng nhàlà ông đi đến tỉnh C tạm trú là
không đúng vì chính quyền đòa phương nơi đó không xác nhận ông có cư ngu.
Như vậy trong thời gian gầm 25 năm kể từ ngày chính quyền đòa phương
kiểm kê niêm phong nhà thì ông Hạnh cư ngụ tại đâu không rõ và cũng
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

13


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

không cư ngụ hợp pháp tại đòa phương là phường NC, thành phố QA, như vậy
việc kiểm kê, niêm phong nhà của ông Hạnh là đúng, nhưng UBND thành
phố QA ra quyết số 55/QĐ-UB tạm quản lý nhà vắbg chủ của ông Hạnh mà
sau đó không có quyết đònh quản lý chính thức của cấp có thẩm quyền là
chưa làm đủ các thủ tục pháp lý. Tuy chỉ có quyết đònh tạm quản lý của
UBND thành phố QA, nhưng theo quyết đònh 279/CT ngày 02/10/1991 của
Chủ tòch Hội đông Bộ trưởng và thông tư 282/BXD ngày 05/10/1991 của Bộ
Xây dựng hướng dẫn thi hành quyết đònh 279/CT về việc giải quyết một số
vấn đề về nhà ở nêu rõ: "... bao gồm nhà ở đã có hoặc chưa có quyết đònh
quản lý của UBND cấp có thẩm quyền nhưng đã bố trí sử dụng là thuộc sở
hữu nhà nước ( Điều 1 quyết đònh 297/CT ) và theo thông tư 38/BXD thì
"... Để ổn đònh hiện trạng nhà cửa, ổn đònh đời sống nhân dân, kể từ ngày

01/7/1991 các loại nhà vắng chủ do nhà nước quản lý đều chuyền thành sở
hữu nhà nước" và " Từ nay UBND các cấp không nhận và xem xét đơn đòi
lại nhà hoặc xin chuyển quyền sở hữu, ủy quyền quản lý nhà vắng chủ nữa ".
Ngoài ra Điều 1 Nghò quyết 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc
hội cũng nêu rõ: " Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và
thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN liên
quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01/7/1991.
Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà nhà nước đã quản
lý, bố trí, sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất
và chính sách cải tạo XHCN liên quan đến nhà đất .
Như vậy kể từ ngày 01/7/1991 ngôi nhà và đất của ông Trần Quang
Hạnh là thuộc sở hữu nhà nước .Do đó việc ông Trần Quang Hạnh khiếu nại
đòi lại nhà đất là không đúng . Các cơ quan quản lý nhà nước không có cơ sở
để xét trả lại nhà đất cho ông .
- Việc bố trí nhà đất đã quản lý của ông Hạnh cho ông Tạ Qúy sử
dụngđể ở là hợp lý , vì ông Qúy chưa có nhà ở riêng và ông Qúy có đơn xin
hóa giá nhà đã được Hội đồng hóa giá nhà của tỉnh xem xét thống nhất đề
nghò UBND tỉnh ra Quyết đònh số 2085/QĐ-UB ngày 16/12/1993 bán hóa giá
ngôi nhà trên cho ông Qúy là phù hợp theo Quyết đònh số 1385/QĐ-UB ngày
01/10/1992 của UBND tỉnh trên cơ sở :
- Ông Qúy chưa được cấp đất , chưa được mượn tiền làm nhà .
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

14


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh


- Có hộ khẩu thường trú tại đòa phương .
- Có hợp đồng thuê nhà .
- Đã được Nhà nước phân ở từ năm 1980 đến thời điểm xin mua .
- Đến thời điểm xin mua không có tranh chấp ( xin mua năm 1992 ) .
- Nhà và đất không nằm trong quy hoạch giải tỏa .
Đối với diện tích đất ngoài diện tích đất Nhà nước đã hóa giá kèm theo
đất là 298 m2 của thửa494 tờ bản đồ số 6 là 411 m 2 ( 700-289 ) khi hóa giá
nhà xong ông Qúy không được quyền quản lý sử dụng mà phải giao cho
Công Ty Kinh Doanh Nhà của tỉnh ( cơ quan được UBND tỉnh giao quản lý
cho thuê quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước ) để đơn vò này giao lại cho Nhà
nước theo quy đònh của luật đất đai .
Việc quản lý của cơ quan quản lý nhà nước .
Thanh tra tỉnh Quảng Ngãi có kiến nghò 2 phương án giải quyết như đã
nêu ở phần trước .
Đối với phương án 1 : Không thể chấp nhận được bởi lẽ nhà đất Nhà
nước đã quản lý thuộc sở hữu nhà nước đã khẳng đònh tại Quyết đònh 297/CT
và Thông tư 383/BXD thì không có lý do gì trả lại toàn bộ nhà đất cho chủ cũ
( ông Hạnh ) .
Đối với phương án 2 : đã công nhận nhà đất Nhà nước quản lý là
thuộc sở hữu nhà nước , đã thống nhất với quy đònh bán hóa giá nhà do Nhà
nước quản lý sao lại giao trả diện tích đất vườn còn lại của thửa 494 là 411
m2 và đền bù cho ông Hạnh nhà cũ mà Nhà nước đã hóa giá cho ông Qúy .
Hai phương án nêu trên mâu thuẫn với nhau và cách giải quyết không
theo một cơ sở pháp lý nào .
UBND tỉnh sau khi có kiến nghò của Thanh Tra tỉnh đã ra Quyết đònh
số 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 . Nội dung Quyết đònh như đã trình bày ở
phần trước trong đó điều 1 và điều 2 rất mâu thuẫn nhau ; ở điều 1 khẳng
đònh là không chấp nhận việc ông Hạnh đòi lại nhà cũ nhưng điều 2 lại công
nhận quyền sử dụng phần đất còn lại của thửa 494 tờ bản đồ số 6 sau khi đã
trừ diện tích đất Nhà nước đã giao quyền sử dụng cho ông Qúy .

b) Nguyên nhân :
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

15


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Do sự thiếu hiểu biết về pháp luật một số người dân cũng như việc
quản lý ban đầu của cơ quan Nhà nước chưa được chặt chẽ đồng thời việc
giải quyết khiếu nại của công dân trong lónh vực nhà đất rất phức tạp . Quan
điểm của mỗi cơ quan quản lý nhà nước có cách nhìn nhận , hiểu vấn đề mỗi
khác , không thống nhất chung cách giải quyết trên cơ sở pháp luật và có tình
, có lý , chưa thuyết phục được các đối tượng co liên quan đến việc khiếu nại.
Vì vậy khi giải quyết ban hành quyết đònh không có tính khả thi , làm cho
việc giải quyết vụ khiếu nại thêm phức tạp rắc rối .
c) Hậu quả :
Từ những nguyên nhân trên đây cho chúng ta thấy được việc giải quyết
khiếu nại của công dân không được giải quyết kòp thời, kéo dài, dây dưa
pháp chế XHCN bò giảm sút ảnh hưởng không tốt về mặt xă hội, làm giảm
uy tín của cơ quan quản lý nhà nước, gây mất niềm tin đối với nhân dân .
IV/ XÂY DỰNG,PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI
QUYẾT .
Để đáp ứng mục tiêu đã đề ra ta chọn các phương án sau đây để giải
quyết .
Phương án 1 :
Như chúng ta đã biết trong những năm từ 1975 đến 1980 ở một số tỉnh
Miền trung, do quá khó khăn trong cuộc sống có một số gia đình ít người, ở

những vùng quê khó khăn ) đã gởi lại nhà cửa, vườn tược cho hàng xóm
không báo cáo với chính quyền sở tại ) để đi vào các tỉnh phía nam kiếm
sống, nhiều gia đình do gặp khó khăn trong vấn đề mưu sinh, nên 5 đến 10
năm sau thậm chí có người đến 15 năm mới trở về xây dựng lại nhà cửa và
sinh sống trên đất cũ một cách bình thường, nhà nước không quản lý và thu
nhà đất của họ theo diện vắng chủ, nên việc nhà nước trả lại nhà đất cho gia
đình ông Trần Quang Hạnh cũng là lẽ công bằng, hơn nữa gia đình ông lại là
gia đình chính sách, có công với cách mạng. Đồng thời tạo điều kiện cho gia
đình ông Tạ Quý được mua hóa giá ngôi nhà khác trong quỹ nhà thuộc sở
hữu nhà nước hiện có của tỉnh.
Việc giải quyết theo phương ản này về mặt thực tế , đạo lý là phù hợp
với lòng nhân ái , vò tha của dân tộc ta , nhưng trên phương diện luật pháp thì
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

16


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

vô hình dung khuyến khích người dân vi phạm pháp luật , xem thường kỷ
cương , phép nước , gây xáo trộn khó khăn trong việc quản lý nhà nước về đô
thò , nhà đất...Hơn nữa việc nhà nước không quản lý những ngôi nhà vắng
chủ nêu trên của chính quyền đòa phương sở tại là thiếu sót nhất thời , trong
những thời điểm giai đoạn nhất đònh , không phải là chủ trương , chính sách
của Đảng , Nhà nước .
Phương án 2 :
- Không công nhận việc đòi lại đất nhà của ông Hạnh trên thửa 494 tờ
bản đồ số 6 của phường N.C .

- Chỉ công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với 289m 2
đất Nhà nước đã hóa giá cho ông Tạ Qúy , phần đất còn lại của thửa 494 tờ
bản đồ số 6 ( diện tích đất này lâu nay do ông Quý sử dụng ) đề nghò UBND
tỉnh chỉ đạo xử lý theo đúng quy đònh của luật đất đai .
Tuy nhiên gia đình ông Trần Quang Hạnh là gia đình chính sách , nếu
ông Hạnh bà Hải về thường trú hợp pháp tại đòa phương và thực sự có khó
khăn về nhà ở thì đề nghò UBND tỉnh chỉ đạo đòa phương và các ngành hữu
quan tạo điều kiện giúp đỡ trên cơ sở quy đònh của pháp luạt và chính sách
của Nhà nước .
Gia đình ông Tạ Qúy là gia đình cán bộ và cũng là gia đình thương
binh liệt só, thuộc đối tượng chính sách, đề nghò UBND tỉnh chỉ đạo các
ngành , các cấp quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ để gia đình ông Qúy ổn đònh
đời sống , thể hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa của đản và Nhà nước ta với
những người có cơng với cách mạng.
Phương án 3.
- Khơng trả lại nhà đất cho ơng Trần Quang Hạnh.
- Giao tồn bộ nhà đất bao gồm đất ở 289m 2 Nhà nước đã hố giá nhà kèm theo
đất và đất vườn còn lại của thửa 494 tờ bản đồ số 6 cho ơng Q vì ơng ta đã sử
dụng và kê khai từ khi Nhà nước phân nhà cho ơng ở.
Phương án giải quyết này : Nhà nước khơng trả lại nhà, đất cho ơng Hạnh là
đúng pháp luật nhưng xét về điều kiện ơng Hạnh là gia đình thuộc diện chính
sách, hiện nay ơng khơng có nhà ở, do đó xử lý theo phương án này chưa có sự
hài hồ giữa pháp lý và đạo lý, đồng thời đối với ơng Q chỉ cơng nhận nhà đất
289m2 Nhà nước đã hố giá là hồn tồn đúng đắn, diện tích đất còn lại Nhà
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

17


Tiểu luận tốt nghiệp


Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

nước thu hồi lại để sử dụng mục đích khác, nếu giao cho ơng Q phần diện tích
đất còn lại là vi phạm quy định về hạn mức sử dụng đất ở của tỉnh.
Qua 3 phương án nêu trên ta thấy rằng phương án 2 là phương án tốt nhất, có
tính khả thi, đáp ứng mục tiêu đề ra; giải quyết có tình, có lý trên cơ sở kết hợp
giữa pháp lý và đạo lý, do đó chúng ta thống nhất chọn phương án 2 để giải
quyết vụ việc nầy.
V. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để giải quyết khiếu nại đạt kết quả thấu tình đạt lý theo phương án đã
chọn trên đây, chúng ta cần có một kế hoạch thật tốt để tổ chức trhực hiện cụ thể
như sau :
Trên cơ sở kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi số
338/KS-XKT ngày 19/10/1999, báo cáo số 17/BC-SXD ngày 02/02/2000 của Sở
Xây dựng Quảng Ngãi và các phiên họp của Hội đồng xử lý hành chính của tỉnh
đối với vụ khiếu nại của ơng Trần Quang Hạnh. UBND tỉnh Quảng Ngãi ra
Quyết định điều chỉnh Quyết định số 1780/QĐ-UB ngày 28/8/1998 của UBND
tỉnh theo hướng khơng cơng nhận việc đòi lại nhà đất của ơng Hạnh, diện tích
đất còn lại của thửa 494 tờ bản đồ số 6 phường NC, sau khi đã trừ 289m 2 đất
Nhà nước đã bán hố giá cho ơng Q theo quyết định số 2085/QĐ-UB ngày
16/12/1993, giao cho UBND phường NC quản lý theo qui định của Luật đất đai.
Trường hợp gia đình ơng Trần Quang hạnh về thường trú tại địa phương
và có khó khăn thực sự về nhà ở thì địa phương và các ngành theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình giải quyết, hoặc có hướng giải quyết trình
UBND tỉnh quyết định trên cơ sở qui định của pháp luật và chính sách của Nhà
nước.
UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài ngun và Mơi trường, Sở Xây dựng, UBND
Thành phố QA tổ chức đo đạc, cắm mốc giới cho giai đình ơng Q diện tích
289m2 theo Quyết định số 2085/QĐ-UB ngày 16/12/1993 của UBND tỉnh, đồng

thời giao diện tích đất còn lại của thửa 494 tờ bản đồ số 6 phường NC cho
UBND phường để quản lý theo qui định của Luật đất đai.
Thời gian tổ chức thực hiện cơng việc này là sau 15 ngày kể thừ khi quyết
định của UBND tỉnh có hiệu lực. Trong q trình thực hiện, cơ quan chủ trì cần
mời các ngành chức năng như Thanh tra, Viện Kiểm sát nhân dân phối hợp để
kiểm tra giám sát; lưu ý khi giải qut cơng việc cần lấy phương châm giáo dục,
thuyết phục là chính để tránh gây căng thẳng.
u cầu các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện và báo cáo kết quả cho
UBND tỉnh.
Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

18


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

Sau khi thực hiện xong UBND tỉnh cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm
trong việc xử lý khiếu nại của cơng dân, nhất là trong lĩnh vực nhà đất để tạo sự
thống nhất trong q trình áp dụng các qui định của pháp luật.

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

19


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua vụ khiếu nại đòi lại nhà đất của ơng Trần Quang Hạnh tại khu phố B,
phường NC, thành phố QA cho chúng ta thấy được rằng việc khiếu nại tranh
chấp trong lĩnh vực nhà, đất là rất phức tạp, nhất là Nhà nước quản lý nhà tư
nhân nói chung và quản lý nhà vắng chủ nói riêng trong những năm sau giải
phóng. Việc ra quyết định quản lý chưa được chặt chẽ về nội dung, các cấp
chính quyền đều có quyền kê biên tài sản, giải quyết khiếu nại kéo dài. Khi quản
lý bố trí cho người khác sử dụng và hố giá xong, các cơ quan chức năng khơng
tổ chức cắm mốc giới phân chia và thu hồi diện tích đất còn lại nằm ngồi diện
tích đất đã hố giá cho ơng Q.
Đối với UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, quyết định để giải quyết
vụ khiếu nại nhưng khơng thực hiện được; phải sử đổi, điều chỉnh làm giảm uy
tín của cơ quan quản lý nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, giảm sút
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh khi điều tra,
xác minh, xử lý và đề xuất hướng giải quyết đã khơng nắm được yếu tố khách
quan, giai đoạn lịch sử, các văn bản quy phạm pháp luật làm cho vụ việc phức
tạp thêm, đồng thời làm cho quyết định của UBND tỉnh kém hiệu lực.
Qua tình huống tranh chấp khiếu nại đòi lại nhà, đất đã nêu trên, sau khi
phân tích các mặt yếu, mặt mạnh trong việc giải quyết vấn đề của các cơ quan
quản lý nhà nước, bản thân tơi xin kiến nghị một số vấn đề sau:
1/ Giải quyết khiếu nại của cơng dân u cầu các cơ quan chức năng tập
trung giải quyết nhanh, gọn, đúng pháp luật; tránh tình trạng kéo dài gây phiền
hà và ảnh hưởng lòng tin của nhân dân đối với nhà nước.
2/ Đối với cơ quan quản lý nhà nước khi ra quyết định quản lý tài sản của
cá nhân phải thực hiện đúng trình tự, đúng cấp có thẩm quyền theo qui định của
pháp luật.
3/ các cơ quan chun mơn khi thụ lý hồ sơ, điều tra xác minh và đưa ra
phương án giải quyết phải nắm chắc các qui định của pháp luật hiện hành, đồng
thời cần xem các yếu tố chủ quan, khách quan, giai đạon lịch sử xảy ra vụ việc

và phải có kinh nghiệm thực tiễn.
4/ Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ban hành quyết định phải
tính đến khả thi của quyết định, tránh trường hợp quyết định ban hành ra nhưng
khơng thực hiện được vì chưa đạt tình, thấu lý, trái với lòng dân hoặc khơng
đúng qui định của pháp luật.

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

20


Tiểu luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn : Trần Duy Linh

5/ Cần tun truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân để nhân dân biết
pháp luật, tránh các trường hợp khiếu kiện tràn lan khơng đúng pháp luật làm
cho q trình giải quyết khiếu nại tranh chấp phức tạp kéo dài.
6/ Khi giải quyết tranh chấp khiếu nại khơng nên áp dụng pháp lý khơng
thơi mà còn phải giải quyết hợp tình, hợp lý, giáo dục tun truyền để họ tự
giác. Nhằm tránh những thiệt hại, thiệt thòi và gây mâu thuẫn về sau, nhất là
trong sinh hoạt dân cư, làng xóm, khối phố, họ tộc.../.

Học viên thực hiện : Huỳnh Thò Vui

21




×