Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thực trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp tại xã chiềng en, huyện sông mã, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.03 KB, 71 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đặc điểm nổi bật của vấn đề nông thôn và nông dân trong hơn mười
năm qua là sự đối diện với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa song hành
với toàn cầu hóa và thị trường hóa. Theo dự tính đến năm 2020 Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp. Những gì các nước Âu Mỹ vượt qua
trong hàng trăm năm, các nền kinh tế Đông Á đi qua hàng chục năm, thì nay
Việt Nam đang nếm trải gần như cùng một lúc [17].
Đô thị hóa là một đòi hỏi của phát triển. Đô thị hóa không chỉ là sự
thay đổi của cảnh quan bên ngoài, mà là sự thay đổi lối sống, tác động mạnh
đến tâm trạng con người. Vì vậy, vấn đề đô thị hóa xảy ra tự phát theo một
quy luật tất yếu không cưỡng lại được hay là tự giác và chủ động để thuận
theo quy luật ấy một cách thông minh, có tính toán, có “quy hoạch” là điều
đang rất được quan tâm.
Những năm qua ở nước ta, việc thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để chuyển
sang công nghiệp và đô thị đã diễn ra rất nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp, và có nguy cơ tiếp tục giảm mạnh. Theo phương án quy hoạch sử
dụng đất cả nước đến năm 2010, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người
của cả nước sẽ giảm từ 0,113 ha (năm 2000) xuống còn 0,108 ha (năm 2010) và
trong vòng 10 năm, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người đã giảm 50m².
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài
người [7]. Hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế
trên cơ sở phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác các tiềm năng của đất, lấy
đó làm bàn đạp phát triển các ngành khác. Vì vậy, việc tổ chức sử dụng nguồn
tài nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả theo quan điểm sinh thái bền vững đang
trở thành vấn đề toàn cầu. Mục tiêu hiện nay của loài người là phấn đấu xây
dựng một nền nông nghiệp toàn diện về kinh tế xã hội, môi trường một cách
bền vững. Để thực hiện mục tiêu trên cần bắt đầu từ việc nâng cao hiệu quả sử
dụng đất trong nông nghiệp toàn diện, như Bùi Huy Đáp đã viết "phải bảo vệ

1




một cách khôn ngoan tài nguyên đất còn lại cho một nền sản xuất nông
nghiệp bền vững" [28].
Tuy nhiên, xét trên tổng thể, nền nông nghiệp nước ta vẫn phải đang
đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề như: sản xuất nhỏ, manh mún, công
nghệ lạc hậu, năng suất chất lượng hàng hóa thấp, khả năng hợp tác liên kết
cạnh tranh yếu, sự chuyển dịch cơ cấu chậm. Trong điều kiện các nguồn tài
nguyên để sản xuất có hạn, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do
sức ép của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và sự gia tăng dân số thì mục
tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là hết sức cần thiết.
Xã Chiềng En nằm ở phía Tây Bắc của huyện Sông Mã tỉnh Sơn La, cách
trung tâm huyên 45km. với diện tích 6.648,76. Xã có hệ thống giao thông
đường bộ và đường thủy, song còn gặp nhiều khó khăn.
Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã Chiềng En chủ yếu là trồng lúa
nước, các loại cây trồng hàng năm khác như: ngô, khoai, sắn, lạc, đậu tương
và các loại cây ăn quả. Tuy nhiên diện tích sử dụng đất nông nghiệp của xã
đang bị thu hẹp xói mòn rất nghiêm trọng. Xã Chiềng En nằm ở vùng cao, khí
hậu khắc nhiệt nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao.
Việc nghiên cứu đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại, đánh giá
đúng mức độ của các loại hình sử dụng đất, để tổ chức, hộ gia đình cán nhân,
sử dụng đất hợp lý có hiệu quả cao theo quan điểm bền vững làm cơ sở cho
việc đề xuất quy hoạch sử dụng đất và định hướng phát triển sản xuất nông
nghiệp của xã Chiềng En vấn đề có tính chiến lược và cấp thiết.
Trước tình hình đó xã Chiềng En cần đánh giá quỹ đất nông nghiệp
hiện có và định hướng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất nông nghiệp
nhằm hướng tới sự phát triển bền vững và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
đô thị hóa. Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự phân công của Bộ môn Quản
lý đất đai - Khoa Nông Lâm - Trường Cao Đẳng Sơn La cùng với sự hướng
dẫn của cô giáo ThS.Trần Thị Oanh, tôi tiến hành nghiên cứu chuyên đề:

“Thực trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp xã Chiềng En, huyện
Sông Mã, tỉnh Sơn La’’

2


1.2. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hoàn thiện lý luận về đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn xã Chiềng En, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La và là cơ sở
định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp trong tương lai.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và thúc đẩy sự
phát triển sản xuất nông nghiệp nâng cao mức thu nhập của người dân.
1.3. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp góp phần giúp người dân
lựa chọn loại hình sử dụng đất phù hợp với điều kiện cụ thể của xã.
- Định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp trên địa bàn xã.

3


PHẦN 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất
2.1.1. Đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Theo Luật đất đai năm 2003, đất nông nghiệp được chia ra làm các
nhóm đất chính sau: đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi
trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác [18]. Sự phân chia
cụ thể này sẽ giúp cho việc khai thác tiềm năng và nâng cao hiệu quả sử
dụng của từng loại đất.
Cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội, công nghệ, khoa học

và kỹ thuật, công năng của đất được mở rộng và có vai trò quan trọng đối với
cuộc sống của con người. Nhân loại đã có những bước tiến kỳ diệu làm thay
đổi bộ mặt trái đất và mức sống hằng ngày. Nhưng do chạy theo lợi nhuận tối
đa cục bộ không có một chiến lược phát triển chung nên đã gây ra những hậu
quả tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, thoái hoá đất… Hàng năm gần 12 triệu
ha rừng nhiệt đới bị tán phá ở Châu Mỹ La Tinh và Châu á. Cân bằng sinh thái
bị phá vỡ, hàng triệu ha đất đai bị hoang mạc hoá [23]. Sự thoái hoá đất đai tập
trung chủ yếu ở các nước đang phát triển. Theo kết quả điều tra của UNDP và
trung tâm thông tin nghiên cứu đất quốc tế (ISRIC), thế giới có khoảng 13,4 tỷ
ha đất thì đã có khoảng 2 tỷ ha đất bị hoang hoá ở các mức độ khác nhau trong
đó Châu á và Châu Phi là 1,2 tỷ ha chiếm 62% tổng diện tích bị thoái hoá [11].
Lịch sử của thế giới đã chứng minh bất kỳ nước nào dù là nước phát
triển hay đang phát triển thì sản xuất nông nghiệp đều có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự ổn định xã hội và mức an toàn lương
thực quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, sản phẩm nông nghiệp và
còn là nguồn tạo ra thu nhập ngoại tệ. Tuỳ theo lợi thế của mình mà mỗi nước
có thể lựa chọn những nông sản phù hợp để xuất khẩu thu ngoại tệ hay trao
đổi lấy sản phẩm công nghiệp để đầu tư lại cho nông nghiệp và các ngành
khác trong nền kinh tế quốc dân.

4


Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trong tình
hình hiện nay nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội về nông sản đang trở thành
một trong các mối quan tâm lớn nhất của người quản lý và sử dụng đất
2.1.2. Nông nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới
Nông nghiệp nhiệt đới được tiến hành ở các vùng trong vành đai nhiệt
đới. Diện tích vùng nhiệt đới chiếm khoảng 1/3 diện tích lục địa với diện
tích đất nông nghiệp có ích khoảng 1,4 tỷ ha. Điều kiện khí hậu - đất đai đặc

biệt với hoàn cảnh kinh tế xã hội tạo cho nông nghiệp nhiệt đới có những nét
riêng biểu hiện trên các hệ thống cây trồng, vật nuôi. Khí hậu là yếu tố hạn
chế quyết định đến sự phát triển của hệ thống cây trồng. Vùng nhiệt đới ẩm,
mưa nhiều, tập trung gây dòng chảy và xói mòn nghiêm trọng. Đất đai phần
lớn là màu mỡ nhưng so với vùng ôn đới thì không tốt bằng vì ít chất mùn,
các xác vi sinh vật mau bị khoáng hoá. Khí hậu và đất nhiệt đới phần lớn
thích hợp cho việc trồng cây lâu năm, cà phê, chè, ca cao và các lọai cây ăn
quả nhiệt đới. Đối với những vùng đất trũng, đất phù sa, đất giàu chất hữu
cơ… rất thích hợp cho việc gieo trồng các giống cây ngắn ngày, cây lương
thực. Hiện nay, ở các vùng nhịêt đới, việc canh tác sử dụng đất nông nghiệp
theo hướng thâm canh cao, tăng năng suất, tăng vụ, áp dụng mạnh mẽ các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đây là những nguyên nhân gây tình
trạng thoái hoá đất, đất bị mất khả năng sản xuất. Điều đó đặt ra vấn đề là
phát triển sản xuất nông nghiệp đi đôi với bảo vệ cải tạo đất, xây dựng nền
nông nghiệp hiệu quả và bền vững [3].
2.1.4. Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
* Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Ngày nay nhu cầu sử dụng đất của con người ngày càng tăng trong
khi quỹ đất chỉ có hạn. Đất đai đang là nguồn tài nguyên được con người
khai thác với nhiều mục đích khác nhau. Chính vì vậy một phần lớn diện
tích đất nông nghiệp đang được chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác.
Do đó, cũng như các nước trên thế giới thì mục tiêu sử dụng đất nông
5


nghiệp ở nước ta cũng là nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở đảm
bảo an ninh lương thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công
nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử dụng đất nông nghiệp trong sản xuất
trên cơ sở cân nhắc các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng tối đa
lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi

trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác
sử dụng bền vững tài nguyên đất đai. Chính vì vậy, đất nông nghiệp cần
được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ, hợp lý và hiệu quả”, phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng vùng [28].
* Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
Nông nghiệp bền vững được phát triển vào những năm 70 của thế kỷ
này nhằm khắc phục nạn ô nhiễm đất, nước không khí bởi hệ thống nông
nghiệp và công nghiệp cùng với sự mất mát của các loài động thực vật, suy
giảm các tài nguyên thiên nhiên không tái sinh. Vấn đề nông nghiệp bền
vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực quan
tâm [4]. Đi cùng với vấn đề phát triển nông nghiệp là sử dụng đất bền
vững. Thuật ngữ sử dụng đất bền vững được dựa trên 5 quan điểm sau:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất;
- Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất;
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn sự thoái hoá đất và nước;
- Có hiệu quả lâu bền và được xã hội chấp nhận [22].
Năm nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất đai bền vững. Nếu
sử dụng đất đai đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất được bảo vệ cho phát
triển nông nghiệp bền vững.
Nông nghiệp bền vững là tiền đề và điều kiện cho định cư lâu dài. Một
trong những cơ sở quan trọng nhất của nông nghiệp bền vững là thiết lập
được các hệ thống sử dụng đất hợp lý. Altieri và Susanna B.H.1990 cho rằng
nền tảng của nông nghiệp bền vững là chế độ đa canh cây trồng với các lợi
thế cơ bản là: tăng sản lượng, tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm tác hại
6


của sâu bệnh và cỏ dại, giảm nguy cơ rủi ro… Quan điểm đa canh và đa dạng
hoá nhằm nâng cao sản lượng và tính ổn định này được Ngân hàng thế giới
đặc biệt khuyến khích đối với các nước nghèo [44].

Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại,
vừa đảm bảo được nhu cầu của các thế hệ tương lai [9]. Phát triển nông
nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật
nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả hiện tại và
mai sau [41]. Để phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta, cần nắm vững
mục tiêu và tác dụng lâu dài của từng mô hình, để duy trì và phát triển đa
dạng sinh học. Căn cứ vào nhu cầu thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây
trồng vật nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa
phương. Từ đó, nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản
phẩm có tính cạnh tranh cao - đó là điều kiện tiên quyết phát triển được nền
nông nghiệp bền vững .
2.2. Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp
2.2.1. Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây, người ta
thường quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, người ta nhận thấy rõ
sự khác nhau giữa hiệu quả và kết quả. Nói một cách tổng quát và chung nhất
thì hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của công việc mang lại [40].
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ
đợi hướng tới; nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có
nghĩa là hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi
nhuận. Trong lao động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá
bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng
số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian [3].
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử
dụng đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong
7


hoạt động kinh tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng

tiền. Đồng thời về mặt hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong
quá trình hoạt động kinh tế để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành
nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng
lao động trong nhiều trường hợp phải coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là
sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các loại nông sản cơ bản có ý
nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu…) để đảm bảo sự ổn định
về kinh tế - xã hội đất nước [3].
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện
pháp tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi
thế, khắc phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những
hoàn cảnh cụ thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền
kinh tế quốc dân, gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế [3].
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ
cấu cây trồng vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu
hết các nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp
mà còn là mong muốn của nông dân - những người trực tiếp tham gia sản
xuất nông nghiệp [40].
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng, vấn đề đánh giá hiệu quả sử
dụng đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó
mà phải xem xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã
hội và hiệu quả môi trường.
2.2.1.1. Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động
theo các ngành sản xuất khác nhau. Theo nhà kinh tế Samuel – Nordhuas thì
“Hiệu quả là không lãng phí”. Theo các nhà khoa học Đức (Stienier, Hanau,
Rusteruyer, Simmerman) hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm
8



chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt
động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích cho
xã hội [28].
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền
sản xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau.
Vì thế, hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
- Một là mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo
quy luật “tiết kiệm thời gian”;
- Hai là hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý
thuyết hệ thống;
- Ba là hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ
các lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra
là phần giá trị của nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về
phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh
tế sử dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối
lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao
động thấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội" [28].
2.2.1.2. Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt
xã hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối
quan hệ mật thiết với nhau và là một phạm trù thống nhất. Theo Nguyễn
Duy Tính [34], hiệu quả về mặt xã hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ


9


yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất
nông nghiệp.
Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu
nhập của nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát triển,
phát huy được nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của nhân dân.
Sử dụng đất phải phù hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc
sử dụng đất bền vững hơn.
2.2.1.3. Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải
bảo vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo
vệ môi trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh
thái (>35%) đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài [13].
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và
theo chiều hướng khác nhau. Cây trồng phát triển tốt khi phù hợp với đặc
tính, tính chất của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới tác động của
các hoạt động sản xuất, phương thức quản lý của con người, hệ thống cây
trồng sẽ tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi trường.
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm:
hiệu quả hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường [11].
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh
giá thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc
sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo
cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô
nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm thiểu
việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra.


10


Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử
dụng đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
2.2.2. Đặc điểm, phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.2.1. Đặc điểm đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là rất cần thiết, có thể xem
xét ở các mặt [28];
- Quá trình sản xuất trên đất nông nghiệp phải sử dụng nhiều yếu tố đầu
vào kinh tế. Vì thế, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước tiên
phải được xác định bằng kết quả thu được trên một đơn vị diện tích cụ thể
(thường là 1 ha), tính trên 1 đồng chi phí, trên 1 công lao động.
- Trên đất nông nghiệp có thể bố trí các cây trồng, các hệ thống luân
canh, do đó cần phải đánh giá hiệu quả từng loại cây trồng, từng công thức
luân canh.
- Thâm canh là biện pháp sử dụng đất nông nghiệp theo chiều sâu, tác
động đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước mắt và lâu dài. Vì thế, cần
phải nghiên cứu hậu quả của việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nghiên
cứu ảnh hưởng của việc tăng đầu tư thâm canh đến quá trình sử dụng đất.
- Phát triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp được khi con người biết
làm cho môi trường cùng phát triển. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp cần quan tâm đến những ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp
đến môi trường xung quanh.
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính xã hội rất sâu sắc. Vì vậy,
khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần quan tâm đến những tác
động của sản xuất nông nghiệp đến các vấn đề xã hội khác như: giải quyết
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ dân trí nông thôn…


11


2.2.2.2. Nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
cần phải dựa trên những nguyên tắc cụ thể:
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính
so sánh có thang bậc [15], [29].
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ
bản biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan
điểm và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản
làm cho nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn [14].
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn, tính khoa học và
phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
2.2.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Bản chất của hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Mối quan
hệ này là mối quan hệ hiệu số hoặc là quan hệ thương số, nên dạng tổng quát
của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sẽ là:
H=K-C
H = K/C
H = (K - C)/C
H = (K1 - K0)/(C1 - C0)
Trong đó:
+ H: Hiệu quả

+ K: Kết quả
+ C: Chi phí
+ 1, 0 là chỉ số thời gian (năm)
12


* Hiệu quả kinh tế
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
- Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
- Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất
thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu
vào và dịch vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT): là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí
trung gian, là giá trị sản phẩm xã hội tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó.
GTGT = GTSX - CPTG
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): Đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử
dụng các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có
(GTSX/LĐ, GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống
cho từng kiểu sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí
cơ hội của người lao động.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau [15]:
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng;
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân;
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
* Các chỉ tiêu về hiệu quả môi trường

Theo Đỗ Nguyên Hải [11], chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường
trong quản lý sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
13


+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất
và bảo vệ cây trồng;
+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất
nông nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên
cứu, phân tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ
dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về
việc đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nhận xét của nông dân đối với
các loại hình sử dụng đất hiện tại.
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.3.1. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Cây trồng là tài nguyên sinh vật, là tài nguyên sống nên sự sống của nó
gắn liền với điều kiện môi trường, bởi vì môi trường cung cấp cho cây trồng
các yếu tố sinh trưởng cấn thiết cho quá trình sinh trưởng phát triển, mỗi loại
cây trồng chỉ có thể sống và cho năng suất trong điều kiện khí hậu và đất
trồng nhất định, các vùng có điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau sẽ cho năng
suất và sản lượng cây trồng khác nhau.
- Khí hậu (ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa,...): Việc đầu tư lựa chọn cơ
cấu cây trồng đòi hỏi người nông dân phải am hiểu sâu sắc về tình hình đất
đai, khí hậu, thời tiết của vùng mình, địa phương mình để bố trí cây trồng hợp

lý nhằm tận dụng những điều kiện thuận lợi của tự nhiên đồng thời tránh được
những thiệt hại mà thiên tai gây ra.
Cây trồng khác nhau yêu cầu về cường độ ánh sáng cũng khác nhau,
trong quá trình sống của cây trồng hàng năm cường độ ánh sáng tới ảnh
hưởng có quan hệ thuận với năng suất cây trồng ở giai đoạn cuối khoảng 45 60 ngày trước khi thu hoạch cây trồng.
Cây trồng sống trong điều kiện nhiệt độ khác nhau đã thích nghi với
14


nhiệt độ khác nhau.
Nước là yếu tố sinh trưởng quan trọng của cây trồng, nước vừa tham
gia cấu trúc nên cơ thể thực vật vừa quyết định các biến đổi sinh hoá và các
hoạt động sinh lý trong cây cũng như quá trình sinh trưởng, phát triển của cây
cho nên nước được xem là yếu tố sinh thái quan trọng nhất quyết định năng
suất cây trồng.
- Đất (loại đất, địa hình, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì, chua mặn,...): Có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, các yếu tố của
đất đai là tài nguyên để sinh vật tạo nên sinh khối, do vậy cần đánh giá đúng
điều kiện đất đai để trên cơ sở xác định cây trồng vật nuôi phù hợp, tuỳ theo vị
trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố trí cây trồng của từng vụ thích hợp trên
từng loại đất mới cho năng suất, chất lượng sản phẩm cao, bố trí sản xuất hợp
lý, thực hiện đa dạng hoá sản xuất và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
2.3.2. Nhóm các yếu tố kinh tế - tổ chức
- Cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố có vị trí quan trọng ảnh hưởng lớn
đến cây trồng, bởi muốn phát triển hệ thống cây trồng phải có những điều
kiện chủ yếu như các công trình thuỷ lợi, các công trình phúc lợi,...
- Vốn cũng là một nhân tố quyết định đến cây trồng, hộ nông dân muốn
có các loại giống mới có giá trị kinh tế cao đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn.
Trong sản xuất nông nghiệp, nông hộ phải quyết định tất cả các khâu sản xuất
và làm nảy sinh hàng loạt khó khăn, đa số nông hộ đều thiếu vốn cho sản xuất
nông nghiệp, vì vậy chi phí về vật tư cho sản xuất thường là không đủ và

không kịp thời gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất.
- Với cơ chế kinh tế được đổi mới thì ngày càng có những tiến bộ kỹ
thuật và phương thức sản xuất được ứng dụng vào sản xuất như tiến bộ giống,
tiến bộ về kỹ thuật, chăm sóc khoa học, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch,
công nghiệp chế biến hiện đại,... thì sản xuất nông nghiệp hàng hoá đã thu
được kết quả đáng kể.
Tổ chức sản xuất kinh doanh tác động đến hộ nông dân qua các khâu tổ
15


chức dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ kỹ thuật, phổ biến các tiến bộ mới
vào sản xuất, những tác động này sẽ thúc đẩy việc đổi mới cây trồng, cơ cấu
canh tác của từng vùng cũng như trong từng hộ, thậm trí những tiến bộ khoa
học kỹ thuật thay đổi toàn bộ cơ cấu cây trồng.
2.3.3. Nhóm yếu tố xã hội
- Lao động và thị trường đều có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu cây trồng,
việc phát triển sản xuất nông nghiệp vừa giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động vừa phải đảm bảo được nhu cầu thị trường.
- Sự ổn định về chính trị - xã hội, sự phù hợp của chủ trương chính sách
sẽ khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp tạo điều kiện cho các chủ thể sử
dụng ruộng đất phát huy năng lực, lựa chọn các hướng đầu tư có hiệu quả,
đồng thời hạn chế được rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Ngoài ra, những kinh nghiệm tập quán sản xuất nông nghiệp và trình
độ dân trí của nhân dân cũng có tác động đến hiệu quả kinh tế sử dụng đất
nông nghiệp.
- Nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nông nghiệp phát
triển như: Luật đất đai, chính sách trợ giá nông nghiệp để giúp nông dân khi
nông phẩm biến động, chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn theo
hướng đa dạng hoá sản phẩm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá đa
canh kết hợp với việc phát triển dịch vụ và công nghiệp nông thôn nhằm tạo

việc làm cho người dân.
2.4.2. Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong tương lai
Những năm gần đây, nền nông nghiệp nước ta bước đầu đã gắn phương
thức truyền thống với phương thức công nghiệp hoá và đang từng bước giảm bớt
tính tự cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hoá và hướng tới xuất khẩu.
Trên cơ sở thành tựu kỹ thuật nông nghiệp của hơn 20 năm đổi mới, dựa
trên những dự báo về khoa học kỹ thuật, căn cứ vào điều kiện cụ thể, phương
hướng chủ yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm tới sẽ là:
+ Tập trung sản xuất nông sản hàng hoá theo nhóm ngành, nhóm sản
16


phẩm [8], dựa trên cơ sở dự báo cung cầu của thị trường nông sản trong nước,
thế giới và khai thác tốt lợi thế so sánh của các vùng [39].
+ Xác định cơ cấu sản phẩm trên cơ sở các tiềm năng tự nhiên, kinh tế,
xã hội của từng vùng, lấy hiệu quả kinh tế tổng hợp làm thước đo để xác định
cơ cấu, tỷ lệ sản phẩm hợp lý về các chỉ tiêu, kế hoạch đối với từng nông sản
hàng hoá [8].
+ Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng ngành
chăn nuôi, nhóm cây công nghiệp, rau quả so với cây lương thực. Giảm tỷ
trọng lao động nông nghiệp xuống còn 50% [8], tăng quỹ đất nông nghiệp
bình quân trên một lao động nông nghiệp [39]. Đồng thời đẩy mạnh công
nghiệp hoá, phát triển ngành nghề công nghiệp, dịch vụ ngoài nông nghiệp.
Mặt khác, cần phải phát triển mạnh các ngành nghề, dịch vụ trong nông
nghiệp để giải quyết lao động nông nhàn.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu cao hơn
của công nghiệp hoá [8]. Để khuyến khích sản xuất nông sản hàng hoá, tăng
sản phẩm xuất khẩu, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị
trường và từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt là thị trường ruộng đất, tạo ra sự lưu chuyển đất nông

nghiệp nhằm tạo ra các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hàng hoá với quy
mô thích hợp [2].
+ Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Cần ứng
dụng đồng bộ các yếu tố khoa học công nghệ vào sản xuất nông sản hàng hoá,
nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, lưu thông tiếp
thị nông sản hàng hoá.
Sản phẩm làm ra chứa đựng một lượng tri thức khoa học - kỹ thuật và
tổ chức quản lý cao để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm [34] và tiếp cận tích cực nhất với kinh tế tri thức đang diễn ra
trên toàn cầu.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát mỗi
năm nước ta mất ít nhất 70 – 80 ngàn hecta đất nông nghiệp cho các khu công
17


nghiệp, sân golf, các nhà máy…[21]. Trước tình hình đó Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định 391/QĐ-TTG ngày 18/4/2008 về việc rà soát, kiểm tra thực
trạng việc quản lý quy hoạch, kế hoạch và sử dụng đất 5 năm 2006 – 2010 trên địa
bàn cả nước, trong đó rà soát, kiểm tra thực trạng công tác quản lý quy hoạch, kế
hoạch, sử dụng đất nông nghiệp 5 năm 2006 – 2010 nói chung và đất trồng lúa
nước nói riêng. Và mới đây nhất trong trong Hội nghị TW7 (khai mạc tại Hà Nội
ngày 9-7-2008) đã đề cập nhiều vấn đề, trong đó có một nội dung rất quan trọng là
“vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn” (thường được gọi là "tam nông").
Đây được coi là “đại vấn đề” mà việc xử lý đúng sai sẽ trực tiếp quyết định sự thành
bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN.
2.4.3. Xây dựng nền nông nghiệp bền vững
2.4.3.1. Sự cần thiết phải xây dựng nền nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan
hệ giữa người và đất đai. Mục tiêu của con người là sử dụng đất khoa học và
hợp lý. Tuy nhiên thực tế cho thấy sử dụng đất đai là vấn đề phức tạp, chịu

ảnh hưởng của nhiều yếu tố quan trọng khác nhau, thực chất đây là vấn đề có
liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu đặt ra là sử dụng tối đa
và có hiệu quả toàn bộ quỹ đất của quốc gia, nhằm phục vụ phát triển nền
kinh tế quốc dân và phát triển xã hội. Việc sử dụng đất dựa trên nguyên tắc là
ưu tiên đất đai cho sản xuất nông nghiệp.
Ngoài những tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên như: khí hậu,
thuỷ văn, thảm thực vật và quy luật sinh thái tự nhiên, đất đai còn chịu ảnh
hưởng của yếu tố con người, các quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ
thuật. Đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên là
yếu tố quyết định chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai, còn phương hướng sử
dụng đất đai được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong
từng thời kỳ nhất định.
Trong thực tế do quá trình sử dụng lâu dài, nhận thức về sử dụng đất
của người dân còn hạn chế đã dẫn tới nhiều diện tích đất đai đang bị thoái
hoá, ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người. Diện tích đất đai
18


thích hợp cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, do đó con người
phải mở mang thêm diện tích đất canh tác trên các vùng không thích hợp và
hậu quả đã gây ra quá trình thoái hoá, rửa trôi và phá hoại đất một cách
nghiêm trọng.
Sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn cho
sự tồn tại và tương lai phát triển của loài người. Chính vì vậy việc nghiên cứu
và đưa ra các giải pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều nhà
khoa học đất và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ “sử dụng đất bền
vững” (Sustainable Land Use) đã trở thành thông dụng trên thế giới hiện nay.
Vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững hiện nay có nhiều cách hiểu
khác nhau, nhưng nhìn chung các nhà khoa học đều nhất trí với nhận định của
FAO, 1992 [42]: “Phát triển bền vững là sự quản lý, bảo vệ cơ sở của nguồn

lợi tự nhiên và phương hướng của sự thay đổi kỹ thuật, thể chế bằng cách nào
để đảm bảo thoả mãn nhu cầu của con người, cho thế hệ hôm nay và mai
sau”. Trong nông nghiệp được dùng theo nghĩa rộng bao gồm nghề trồng trọt,
nghề cá, nghề rừng, chăn nuôi và chế biến nông sản. Bảo vệ được tài nguyên
đất, nước, nguồn lợi di truyền thực vật và động vật đi đôi với việc tăng hiệu
quả kinh tế, xã hội và không làm thoái hoá môi trường, thích ứng về kỹ thuật,
có sức sống kinh tế và được chấp nhận về xã hội [23].
Nông nghiệp bền vững là một hệ thống thiết kế để tạo môi trường bền
vững cho cuộc sống của con người. Mục đích của nông nghiệp bền vững là
xây dựng một hệ thống ổn định về mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả
năng thoả mãn những nhu cầu của con người mà không bóc lột đất đai, không
làm ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững phải coi thiên nhiên là môi
trường lý tưởng để phát triển một cách hoà hợp với thiên nhiên.
Hệ thống canh tác lấy năng lượng, nguyên liệu từ môi trường, nếu
khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo được, hoặc khai thác quá
khả năng phục hồi tài nguyên sẽ dẫn đến không còn nguyên liệu, năng
lượng. Từ đó dẫn tới phải loại bỏ khả năng sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu
19


hệ thống canh tác. Hệ thống canh tác chuyển vào môi trường các chất thải
trong đó có các chất độc đối với đất, nước và không khí khiến cho sản xuất
không bền vững. Do vậy khi bố trí các hệ thống canh tác các nhà khoa học
bao giờ cũng phải cân nhắc đến hiệu quả kinh tế và môi trường.
Trước năm 1970, trong nông nghiệp người ta nói đến nhiều giống mới,
năng suất cao, kỹ thuật cao. Nhưng sau năm 1970 một khái niệm mới đã xuất
hiện và ngày càng có tính thuyết phục - khái niệm tính bền vững và tiếp theo
là nông nghiệp bền vững.
FAO [42] cho rằng sự phát triển bền vững như vậy trong lĩnh vực nông
nghiệp chính là sự bảo tồn đất, nước, các nguồn động và thực vật, không bị suy

thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt
xã hội. FAO đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
- Thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương
lai về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm
việc tốt cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và chỗ nào có thể thì tăng cường khả năng sản xuất của các cơ
sở tài nguyên thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên
tái tạo được mà không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở cân
bằng tự nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hoá - xã hội của các cộng đồng sống
ở nông thôn, hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng
tin trong nông dân.
Thực chất của nông nghiệp bền vững là phải thực hiện được khâu cơ
bản là duy trì độ phì nhiêu của đất được lâu bền. Độ phì nhiêu đất là tổng hoà
của nhiều yếu tố vật lý, hoá học và sinh vật học để tạo ra môi trường sống
thuận lợi nhất cho cây trồng tồn tại và phát triển.
2.4.3.2. Định hướng sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất gắn với các mục đích kinh tế, xã hội và môi trường là vấn
20


đề hiện đang được nhiều nước và người sử dụng đất quan tâm. Trong thời kỳ
cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, việc sử dụng đất luân hướng tới mục
tiêu kinh tế, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trên mọi đơn vị diện tích đất nhất
định (xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, chuồng trại chăn nuôi quy
mô lớn...). Bên cạnh đó, một phần diện tích đất không nhỏ được sử dụng để
phục vụ nhu cầu sinh hoạt, ăn ở cũng như thỏa mãn đời sống tinh thần của
con người (xây dựng nhà cửa, hệ thống giao thông, các công trình dịch vụ thể
thao, văn hóa xã hội, mở mang phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn...) .

Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, các mục đích sử dụng đất nêu
trên luôn nảy sinh mâu thuẫn làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng
căng thẳng. Những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất
(sai lầm có ý thức hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường nói chung và
môi trường đất nói riêng (các thảm hoạ sinh thái như lũ lụt, hạn hán, cháy
rừng, trượt lở đất... liên tục xẩy ra với quy mô ngày càng lớn và mức độ ngày
càng nghiêm trọng), làm cho một số chức năng của đất bị yếu đi. Để thoả mãn
nhu cầu của con người cả về 3 lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường nhất thiết
phải giải quyết những xung đột này để sử dụng đất có hiệu quả. Việc sử dụng
đất như một thể thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo
ra hiệu quả sử dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo
vệ và nâng cao chất lượng môi trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà
được các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường.
Những xung đột giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường rất đa dạng:
- Đất sản xuất nông nghiệp đối lập với quá trình đô thị hoá.
- Phát triển thủy lợi đối lập với việc phân chia các nguồn tài nguyên
nước cho đô thị và phát triển công nghiệp.
- Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đối lập với việc bảo vệ hệ
sinh thái ven biển.
- Sản xuất thuốc phiện đối lập với sản xuất lương thực thực phẩm ở một
số địa phương.
- Quyền lợi của người bản địa và những người di cư.
21


- Bảo vệ các giá trị sinh thái đối lập với nhu cầu về thực phẩm hoặc
nông sản khác.
- Các chủ sử dụng đất nhỏ mâu thuẫn với việc canh tác quy mô lớn.
* Sử dụng đất với mục tiêu kinh tế
Sử dụng đất trước hết bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế, những

mục tiêu kinh tế trong sử dụng đất giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn
hơn có lúc trùng nhau và có lúc không trùng nhau.
Các hộ nông dân trong việc sử dụng đất của mình luôn đặt ra mục tiêu
làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, nếu thấy việc đó không có lợi họ
có thể thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả hơn hoặc nếu việc canh tác
không có lợi họ có thể bán phần đất của họ cho người nông dân khác, những
người mà sản xuất nông nghiệp đem lại lợi nhuận cao hơn hoặc họ cũng có
thể thay đổi mục đích sử dụng đất của mình kể cả việc bán đất sét cho nhà
máy gạch, bán cát dưới dạng vật liệu xây dựng hoặc sử dụng đất làm khu vui
chơi giải trí cho khách du lịch...
Trong khi đó cộng đồng (xã, huyện, tỉnh, cả nước) luôn có những mối
quan tâm kinh tế lâu dài trong sử dụng đất, trước hết đó là đảm bảo các mục
tiêu kinh tế lâu dài và cần thiết cho cả cộng đồng, đó là vấn đề an toàn lương
thực; có đất để mở mang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu
cụm công nghiệp, bảo vệ môi trường và các khu vui chơi giải trí...
Như vậy các mối quan tâm kinh tế nhất thời của người sử dụng đất cụ
thể mâu thuẫn với mối quan tâm lâu dài của cả cộng đồng.
Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế được xem là hợp lý không có nghĩa
là thoả mãn được nguyện vọng của từng chủ sử dụng đất và toàn thể cộng
đồng mà là quá trình xem xét cân nhắc để sử dụng đất hài hoà về mặt lợi ích
của toàn thể cộng đồng và các chủ sử dụng đất cụ thể. Trong vấn đề này bao
giờ cũng đặt ưu tiên cho việc sử dụng đất lâu dài và mối quan tâm chung của
toàn thể cộng đồng.
* Sử dụng đất với mục tiêu xã hội
Sử dụng đất trước tiên liên quan đến những người sống trên mảnh đất
22


đó, họ có những nhu cầu thiết yếu của mình và đó là mục tiêu xã hội rõ rệt
của bất cứ một Nhà nước nào nhằm tạo ra hay duy trì các điều kiện mà nó có

tác dụng giúp thoả mãn những nhu cầu thiết yếu này. Việc tạo ra công ăn việc
làm trong quá trình phát triển bền vững là một phương pháp hữu hiệu nhằm
cùng một lúc đạt được 3 mục tiêu (xã hội, kinh tế và môi trường). Những nhu
cầu thiết yếu này bao gồm các cơ sở vật chất công cộng hoặc các phương tiện
phục vụ cho sức khoẻ, giáo dục, định cư, thu nhập,... ngoài ra còn tạo ra một ý
thức về công bằng xã hội và kiểm soát chính tương lai của họ.
Công bằng xã hội là rất cần thiết cho mọi người. Trong sử dụng đất
Chính phủ thường có những dự án ưu đãi cho nhóm người nghèo trong xã hội.
Việc làm giảm tình trạng căng thẳng giữa các nhóm dân số cũng là một
mục tiêu xã hội của Chính phủ (mâu thuẫn giữa dân bản địa, dân di cư ...).
Một mục tiêu xã hội nữa cần phải kể đến là mâu thuẫn giữa các thế hệ
về việc sử dụng đất. Đó là việc sử dụng đất của các thế hệ hiện tại không nghĩ
đến lợi ích của các thế hệ con cháu. Do đó đã có khuyến cáo: “Đất không thể
là đối tượng của từng cá thể! Đất mà chúng ta đang sử dụng, tự coi là của
mình, không chỉ thuộc về chúng ta! Đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn
tại và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy, trong sử dụng
cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau”
* Sử dụng đất với mục tiêu môi trường
Đối với bất kỳ vùng đất nào trong sử dụng đất đai gắn với mục tiêu môi
trường thì điều quan trọng là phải phân biệt được mục tiêu chung và mục tiêu
riêng. Chính phủ các nước đều đưa ra các tiêu chuẩn và mục tiêu về môi trường.
Việc nhìn nhận “môi trường” không chỉ có nghĩa là một hệ thống các
tiêu chuẩn về hoá học. Đất nước, phong cảnh thiên nhiên ... là các tài sản có
giá trị. Vì thế, những vấn đề về môi trường chỉ có thể giải quyết một cách có
hiệu quả nếu nó được thực hiện kết hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội.

23


PHẦN 3. ĐỐI TƢỢNG NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận và
thực tiễn về hiệu quả sử dụng đất. Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài là
quỹ đất nông nghiệp và một số yếu tố liên quan đến quá trình sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn xã Chiềng En, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Phạm vi nghiên cứu là xã Chiềng En Huyện
Sông Mã tỉnh Sơn la
+ Giới hạn về thời gian: Các số liệu thống kê được lấy từ năm 2005 –
2011. Số liệu giá cả vật tư và nông sản phẩm hàng hoá điều tra vào thời điểm
năm 2011.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều tra, đánh giá về điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội có liên quan
đến đất đai
- Đánh giá về điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, thời tiết,
thuỷ văn,…
- Đánh giá điều kiện kinh tế xã hội: dân số và lao động, trình độ dân trí,
cơ sở hạ tầng, cơ cấu kinh tế, thực trạng sản xuất nông nghiệp của xã, thị
trường tiêu thụ nông sản phẩm,... Từ đó rút ra những thuận lợi và hạn chế
trong sản xuất nông nghiệp.
- Đánh giá chung.
3.2.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã
- Nghiên cứu hiện trạng các kiểu sử dụng đất.
- Diện tích và sự phân bố diện tích đất nông nghiệp.
- Mức độ biến động diện tích các kiểu sử dụng đất trong xã.
24



3.2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
- Đánh giá hiệu quả kinh tế thông qua một số chỉ tiêu: GTSX, CPTG, GTGT,
hiệu quả đồng vốn (HQĐV) của các kiểu sử dụng đất
- Đánh giá hiệu quả xã hội của các kiểu sử dụng đất thông qua các chỉ
tiêu như: số lao động được sử dụng trong các loại hình sử dụng đất; giá trị
ngày công lao động trong các loại hình sử dụng đất.
- Đánh giá hiệu quả môi trường thông qua các chỉ tiêu về mức đầu tư
phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng và ảnh hưởng của nó
đến môi trường.
- Đánh giá tổng hợp dựa trên các đánh giá về hiệu quả kinh tế, hiệu quả
xã hội, hiệu quả môi trường từ đó đưa ra cái nhìn tổng quát về vấn đề phát
triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu
3.2.4. Định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Chiềng En, huyện Sông Mã, tỉnh
Sơn La
- Xác định các loại hình sử dụng đất có triển vọng.
- Định hướng nâng cao sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả.
- Dự kiến một số giải pháp sau định hướng.
- Đề xuất sử dụng đất nông nghiệp và giải pháp thực hiện.
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Chọn điểm nghiên cứu đại diện cho các vùng sinh thái và đại diện cho
các vùng kinh tế nông nghiệp của huyện. Những xã được chọn là những xã có
đặc điểm về đất đai, địa hình, tập quán canh tác, hệ thống cây trồng có lợi thế
về sản xuất nông nghiệp hàng hóa khác nhau, đại diện cho các vùng sinh thái
của huyện. Trên cơ sở bản đồ hiện trạng sử dụng đất, để đảm bảo tính khách
quan của đề tài tôi tiến hành chọn 02 bản đại diện cho 02 tiểu vùng:
Tiểu vùng 1: Là vùng tiếp giáp với xã Mường Lầm, thuận lợi cho việc
pháp triển kinh tế tập trung nhất chủ yếu là thu hút một số loại nông sản để
trao đổi hàng hóa, là vùng giữa trung tâm xã đất đai màu mỡ thuận lợi cho

việc pháp triển ngành chăn nuôi, trồng cây lâu năm, các loại cây khác. Có độ
25


×