Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp xã pắc ngà huyện bắc yên tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.64 KB, 60 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA
========o0o========

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Chuyên đề: “Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
xã Pắc Ngà - huyện Bắc Yên - tỉnh Sơn La”

Họ và tên: Hà Văn Toàn
Lớp: Cao Đẳng Quản Lý Đất Đai K47
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Khoa: Nông Lâm
Giáo viên hƣớng dẫn: KS. Phạm Thị Hƣờng

SƠN LA, Tháng 4-2013
0


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng biết ơn, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo
KS.Phạm Thị Hường, giảng viên Khoa nông Lâm - Trường Cao đẳng Sơn La
đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
chuyên đề.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình tới các thầy cô giáo trong khoa Nông
Lâm - Trường Cao đẳng Sơn La đã dạy bảo, chân thành đống góp ý kiến giúp
tôi hoàn thành chuyên đề này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ nhân viên của UBND xã Pắc
Ngà đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi thực tập tại địa
phương.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của các bạn trong lớp Quản Lý Đất Đai K47
Trường Cao Đẳng Sơn La đã giúp đỡ tôi trong lúc tôi đi thực tập.


Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn tới tất cả người thân, bạn bè những
người luôn bên cạnh động viên giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện
chuyên đề.

Sơn La, ngày tháng năm 2013
SINH VIÊN

Hà Văn Toàn


PHẦN I. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là một bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường sống, đất đai
không chỉ là tài nguyên thiên nhiên mà còn là nền tảng để định cư và tổ chức
hoạt động kinh tế, xã hội, không chỉ là đối tượng của lao động mà còn là tư liệu
sản xuất đặc biệt không thể thay thế trong sản xuất nông - lâm nghiệp. Chính vì
vậy, sử dụng đất nông nghiệp là hợp thành của chiến lược phát triển nông
nghiệp bền vững và cân bằng sinh thái.
Do sức ép của đô thị hoá và sự gia tăng dân số, đất nông nghiệp đang đứng
trước nguy cơ suy giảm về số lượng và chất lượng. Con người đã và đang khai
thác quá mức mà chưa có biện pháp hợp lý để bảo vệ đất đai. Hiện nay, việc sử
dụng đất đai hợp lý, xây dựng một nền nông nghiệp sạch, sản xuất ra nhiều sản
phẩm chất lượng đảm bảo môi trường sinh thái ổn định và phát triển bền vững
đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Thực chất của mục tiêu này chính là vừa đem
lại hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội và môi trường.
Đứng trước thực trạng trên, nghiên cứu tiềm năng đất đai, tìm hiểu một số
loại hình sử dụng đất nông nghiệp, đánh giá mức độ thích hợp của các loại hình
sử dụng đất đó làm cơ sở cho việc đề xuất sử dụng đất hợp lý, hiệu quả, đảm
bảo sự phát triển bền vững là vấn đề có tính chiến lược và cấp thiết của Quốc

gia và của từng địa phương.
Xã Pắc Ngà là xã vùng III của huyện Bắc Yên, nằm cách trung tâm
huyện Bắc Yên khoảng 70 km về phía Tây Bắc và dân số (năm 2012) là 5.620
người, địa hình chủ yếu là đồi, núi, đường xã đi lại khó khăn trong mùa mưa do
còn nhiều tuyến đường đất, kinh tế còn kém phát triển chủ yếu làm nông
nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp còn chưa được sử dụng hiệu quả,
việc sản xuất còn nhỏ lẻ và manh mún.
Nghiên cứu đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại, đánh giá đúng
mức độ của các loại hình sử dụng đất để tổ chức sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả
cao theo quan điểm bền vững làm cơ sở cho việc đề xuất quy hoạch sử dụng đất
và định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp của xã Pắc Ngà là vấn đề có tính
chiến lược và cấp thiết.


Trước tình hình đó xã Pắc Ngà cần đánh giá quỹ đất nông nghiệp hiện có
và định hướng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất nông nghiệp nhằm hướng
tới sự phát triển bền vững và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự phân công của Bộ môn Quản lý đất đai Khoa Nông Lâm - Trường Cao Đẳng Sư Phạm Sơn La cùng với sự hướng dẫn
của KS. Phạm Thị Hường, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiện trạng sử
dụng đất nông nghiệp xã Pắc Ngà - huyện Bắc Yên - tỉnh Sơn La’’
1.2. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hoàn thiện lý luận về đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn xã Pắc Ngà. Đồng thời là cơ sở định hướng phát triển sản
xuất nông nghiệp trong tương lai.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và thúc đẩy sự
phát triển sản xuất nông nghiệp nâng cao mức thu nhập của người dân.
- Góp phần nâng cao hoạt động của công tác quản lý đất đai của xã.
1.3. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp góp phần giúp người dân lựa
chọn loại hình sử dụng đất phù hợp với điều kiện cụ thể của xã.

- Định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn xã.
- Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp
nhằm khai thác tiềm năng đất đai, nâng cao thu nhập cho người dân của xã.


PHẦN II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất
2.1.1. Đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Theo Luật đất đai năm 2003, đất nông nghiệp được chia ra làm các nhóm
đất chính sau: đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản,
đất làm muối và đất nông nghiệp khác. Sự phân chia cụ thể này sẽ giúp cho việc
khai thác tiềm năng và nâng cao hiệu quả sử dụng của từng loại đất.
Cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội, công nghệ, khoa học và
kỹ thuật, công năng của đất được mở rộng và có vai trò quan trọng đối với cuộc
sống của con người. Nhân loại đã có những bước tiến kỳ diệu làm thay đổi bộ
mặt trái đất và mức sống hằng ngày. Nhưng do chạy theo lợi nhuận tối đa cục bộ
không có một chiến lược phát triển chung nên đã gây ra những hậu quả tiêu cực
như: ô nhiễm môi trường, thoái hoá đất… Hàng năm gần 12 triệu ha rừng nhiệt
đới bị tán phá ở Châu Mỹ La Tinh và Châu Á. Cân bằng sinh thái bị phá vỡ,
hàng triệu ha đất đai bị hoang mạc hoá. Sự thoái hoá đất đai tập trung chủ yếu ở
các nước đang phát triển. Theo kết quả điều tra của UNDP và trung tâm thông tin
nghiên cứu đất quốc tế (ISRIC), thế giới có khoảng 13,4 tỷ ha đất thì đã có
khoảng 2 tỷ ha đất bị hoang hoá ở các mức độ khác nhau trong đó Châu Á và
Châu Phi là 1,2 tỷ ha chiếm 62% tổng diện tích bị thoái hoá.
Lịch sử của thế giới đã chứng minh bất kỳ nước nào dù là nước phát
triển hay đang phát triển thì sản xuất nông nghiệp đều có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự ổn định xã hội và mức an toàn lương
thực quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, sản phẩm nông nghiệp và còn
là nguồn tạo ra thu nhập ngoại tệ. Tuỳ theo lợi thế của mình mà mỗi nước có

thể lựa chọn những nông sản phù hợp để xuất khẩu thu ngoại tệ hay trao đổi lấy
sản phẩm công nghiệp để đầu tư lại cho nông nghiệp và các ngành khác trong
nền kinh tế quốc dân.
Theo bản báo cáo của tổ chức ngân hàng thế giới World Bank, hàng năm
mức sản xuất so với yêu cầu sử dụng lương thực vẫn thiếu hụt từ 150 - 200
triệu tấn, trong khi đó vẫn có 6 - 7 triệu ha đất canh tác bị mất khả năng sản
xuất, bị xói mòn. Trong 1.200 triệu ha đất bị thoái hoá có tới 544 triệu ha đất
canh tác bị mất khả năng sản xuất do sử dụng không hợp lý.


Theo số liệu thống kê năm 2008, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là
331.150,4 km2, dân số là 86.210,8 nghìn người, mật độ dân số 260 người/km2,
trong đó đất nông nghiệp là 24.997 nghìn ha, đất sản xuất nông nghiệp cả
nước 9.420 nghìn ha.
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trong tình hình
hiện nay nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội về nông sản đang trở thành một
trong các mối quan tâm lớn nhất của người quản lý và sử dụng đất.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), tổng sản lượng lương thực
sản xuất ra chỉ đáp ứng nhu cầu cho khoảng 6 tỉ người trên thế giới, tuy nhiên có
sự phân bổ không đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp sẽ phải gánh chịu sức
ép từ nhu cầu lương thực thực phẩm ngày càng tăng của con người.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 3,3 tỉ ha đất nông nghiệp, trong đó đã
khai thác được 1,5 tỉ ha; còn lại phần đa là đất xấu, sản xuất nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn. Qui mô đất nông nghiệp được phân bố như sau: châu Mỹ
chiếm 35%, châu á chiếm 26%, châu Âu chiếm 13%, châu Phi chiếm 20%,
châu Đại Dương chiếm 6%. Bình quân đất nông nghiệp trên đầu người trên
toàn thế giới là 12000 m2. Trong đó ở Mỹ 2000 m2, ở Bungari 7000 m2, ở Nhật
Bản 650 m2. Theo báo cáo của UNDP năm 1995 ở khu vực Đông Nam Á bình
quân đất canh tác trên đầu người của các nước như sau: Indonesia 0,12 ha;
Malaysia 0,27 ha; Philipin 0,13 ha; Thái Lan 0,42 ha; Việt Nam 0,1 ha.Ngày

26 tháng 8 năm 2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số
1682/QĐ-BTNMT công bố diện tích đất đai của cả nước tính tới ngày 01 tháng
01 năm 2008.
Theo đó tổng diện tích tự nhiên là 33,12 triệu ha, trong đó đất nông
nghiệp có 24,99 triệu ha. So với 10 nước trong khu vực Đông Nam Á, tổng diện
tích tự nhiên của Việt Nam đứng thứ 2 nhưng bình quân diện tích đất tự nhiên
trên đầu người của Việt Nam đứng vị trí thứ 9 trong khu vực. Diện tích đất
canh tác là 10.805,9 ha. Bình quân diện tích đất canh tác đạt 1.300,4 m2/ người
2.1.2.Nông nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới
Nông nghiệp nhiệt đới được tiến hành ở các vùng trong vành đai nhiệt
đới. Diện tích vùng nhiệt đới chiếm khoảng 1/3 diện tích lục địa với diện tích
đất nông nghiệp có ích khoảng 1,4 tỷ ha. Điều kiện khí hậu - đất đai đặc biệt


với hoàn cảnh kinh tế xã hội tạo cho nông nghiệp nhiệt đới có những nét riêng
biểu hiện trên các hệ thống cây trồng, vật nuôi. Khí hậu là yếu tố hạn chế
quyết định đến sự phát triển của hệ thống cây trồng. Vùng nhiệt đới ẩm, mưa
nhiều, tập trung gây dòng chảy và xói mòn nghiêm trọng. Đất đai phần lớn là
màu mỡ nhưng so với vùng ôn đới thì không tốt bằng vì ít chất mùn, các xác
vi sinh vật mau bị khoáng hoá. Khí hậu và đất nhiệt đới phần lớn thích hợp
cho việc trồng cây lâu năm, cà phê, chè và các lọai cây ăn quả nhiệt đới. Đối
với những vùng đất trũng, đất phù sa, đất giàu chất hữu cơ … rất thích hợp
cho việc gieo trồng các giống cây ngắn ngày, cây lương thực. Hiện nay, ở các
vùng nhịêt đới, việc canh tác sử dụng đất nông nghiệp theo hướng thâm canh
cao, tăng năng suất, tăng vụ, áp dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất. Đây là những nguyên nhân gây tình trạng thoái hoá đất, đất bị
mất khả năng sản xuất. Điều đó đặt ra vấn đề là phát triển sản xuất nông
nghiệp đi đôi với bảo vệ cải tạo đất, xây dựng nền nông nghiệp hiệu quả và
bền vững.
2.1.3. Vấn đề suy thoái đất nông nghiệp

Hiện tượng suy thoái đất có liên quan chặt chẽ đến chất lượng đất và môi
trường. Để đáp ứng được lương thực, thực phẩm cho con người trong hiện tại
và tương lai, con đường duy nhất là thâm canh tăng năng suất cây trồng trong
điều kiện hầu hết đất canh tác trong khu vực đều bị nghèo về độ phì, đòi hỏi
phải bổ sung cho đất một lượng dinh dưỡng cần thiết qua con đường sử dụng
phân bón.
Báo cáo của Viện Tài nguyên thế giới, cho thấy gần 20% diện tích đất
đai châu á bị suy thoái do những hoạt động của con người. Trong đó hoạt động
sản xuất nông nghiệp là một nguyên nhân không nhỏ làm suy thoái đất. Quá
trình thâm canh tăng vụ trong nông nghiệp đã làm phá huỷ cấu trúc đất, xói
mòn và suy kiệt dinh dưỡng.
Dự án điều tra, đánh giá tốc độ thoái hoá đất ở một số nước vùng nhiệt
đới châu á cho phát triển nông nghiệp bền vững trong chương trình môi trường
của Trung tâm Đông Tây và khối các trường đại học Đông Nam Châu Á đã tập
trung nghiên cứu những thay đổi dinh dưỡng trong hệ sinh thái nông nghiệp.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố dinh dưỡng N, P, K của hầu hết
các hệ sinh thái đều bị suy giảm. Nghiên cứu cũng chỉ ra nguyên nhân của sự


thất thoát dinh dưỡng trong đất do thâm canh thiếu phân bón và đưa các sản
phẩm của cây trồng, vật nuôi ra khỏi hệ thống.
Ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy đất ở vùng trung du
miền núi đều nghèo các chất dinh dưỡng P, K, Ca và Mg. Để đảm bảo đủ dinh
dưỡng, đất không bị thoái hoá thì N, P là hai yếu tố cần phải được bổ sung
thường xuyên. Trong quá trình sử dụng đất, do chưa tìm được các loại hình sử
dụng đất hợp lý hoặc chưa có công thức luân canh hợp lý cũng gây ra hiện
tượng thoái hoá đất như vùng đất dốc mà trồng cây lương thực, đất có dinh
dưỡng kém lại không luân canh với cây họ đậu. Trong điều kiện nền kinh tế
kém phát triển, người dân đã tập trung chủ yếu vào trồng cây lương thực đã gây
ra hiện tượng xói mòn, suy thoái đất. Điều kiện kinh tế và sự hiểu biết của con

người còn thấp dẫn tới việc sử dụng phân bón còn nhiều hạn chế và sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều, ảnh hưởng tới môi trường. Tadon H.L.S chỉ ra
rằng “sự suy kiệt đất và các chất dự trữ trong đất cũng là biểu hiện thoái hoá về
môi trƣờng, do vậy việc cải tạo độ phì của đất là đóng góp cho cải thiện cơ sở tài
nguyên thiên nhiên và còn hơn nữa cho chính môi trƣờng”.
Theo tài liệu của FAO/UNESCO (1992) trên thế giới hàng năm có
khoảng 15% diện tích đất bị suy thoái vì lý do nhân tạo, trong đó suy thoái vì
xói mòn do nước chiếm khoảng 55,7% diện tích, do gió 28% diện tích, mất chất
dinh dưỡng do rửa trôi 12,2% diện tích. ở Trung Quốc, diện tích đất bị suy
thoái là 280 triệu ha, chiếm 30% lãnh thổ, trong đó có 36,67 triệu ha đất đồi bị
xói mòn nặng; 6,67 triệu ha đất bị chua mặn; 4 triệu ha đất bị úng, lầy. Ở Ấn
Độ, hàng năm mất khoảng 3,7 triệu ha đất trồng trọt. Tại khu vực Châu Á Thái
Bình Dương có khoảng 860 ha đất đã bị hoang mạc hoá làm ảnh hưởng đến đời
sống của 150 triệu người. Theo kết quả điều tra của FAO (1993), do chế độ
canh tác không tốt đã gây xói mòn đất nghiêm trọng dẫn đến suy thoái đất, đặc
biệt ở vùng nhiệt đới và vùng đất dốc. Mỗi năm lượng đất bị xói mòn tại các
châu lục là: Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi: 5 -10 tấn/ha, Châu Mỹ: 10 - 20
tấn/ha; Châu Á: 30 tấn/ha.
Hiện nay những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầu và
được phân thành 2 loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hoá và các kỹ
thuật hiện đại, loại khác gây ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt đới
vốn cân bằng một cách mỏng manh rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức canh


tác phản tự nhiên, buộc con người phải chuyển hướng sản xuất nông nghiệp
theo hướng sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, thoả mãn các yêu cầu của
thế hệ hiện tại nhưng không làm phương hại đến nhu cầu của các thế hệ tương
lai, đó là mục tiêu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp bền vững và đó
cũng là lối đi trong tương lai (Trần Đức Viên, Phạm Văn Phê, 1998).
2.1.4.Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững

* Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Ngày nay nhu cầu sử dụng đất của con người ngày càng tăng trong khi
quỹ đất chỉ có hạn. Đất đai đang là nguồn tài nguyên được con người khai
thác với nhiều mục đích khác nhau. Chính vì vậy một phần lớn diện tích đất
nông nghiệp đang được chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác. Do đó,
cũng như các nước trên thế giới thì mục tiêu sử dụng đất nông nghiệp ở nước
ta cũng là nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở đảm bảo an ninh lương
thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất
khẩu. Sử dụng đất nông nghiệp trong sản xuất trên cơ sở cân nhắc các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh
thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ
bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác sử dụng bền vững tài nguyên đất
đai. Chính vì vậy, đất nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “ đầy
đủ, hợp lý và hiệu quả”, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng
vùng.
* Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
Nông nghiệp bền vững được phát triển vào những năm 70 của thế kỷ
này nhằm khắc phục nạn ô nhiễm đất, nước không khí bởi hệ thống nông
nghiệp và công nghiệp cùng với sự mất mát của các loài động thực vật, suy
giảm các tài nguyên thiên nhiên không tái sinh. Vấn đề nông nghiệp bền
vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực quan
tâm. Đi cùng với vấn đề phát triển nông nghiệp là sử dụng đất bền vững.
Thuật ngữ sử dụng đất bền vững được dựa trên 4 quan điểm sau:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất;
- Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất;
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn sự thoái hoá đất và nước;


- Có hiệu quả lâu bền và được xã hội chấp nhận.
Bốn nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất đai bền vững. Nếu sử

dụng đất đai đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất được bảo vệ cho phát triển
nông nghiệp bền vững.
Nông nghiệp bền vững là tiền đề và điều kiện cho định cư lâu dài. Một
trong những cơ sở quan trọng nhất của nông nghiệp bền vững là thiết lập được
các hệ thống sử dụng đất hợp lý. Altieri và Susanna B.H.1990 cho rằng nền
tảng của nông nghiệp bền vững là chế độ đa canh cây trồng với các lợi thế cơ
bản là: tăng sản lượng, tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm tác hại của sâu
bệnh và cỏ dại, giảm nguy cơ rủi ro… Quan điểm đa canh và đa dạng hoá
nhằm nâng cao sản lượng và tính ổn định này được Ngân hàng thế giới đặc
biệt khuyến khích đối với các nước nghèo.
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại,
vừa đảm bảo được nhu cầu của các thế hệ tương lai. Phát triển nông nghiệp bền
vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo
thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả hiện tại và mai sau. Để phát
triển nông nghiệp bền vững ở nước ta, cần nắm vững mục tiêu và tác dụng
lâu dài của từng mô hình, để duy trì và phát triển đa dạng sinh học. Căn cứ
vào nhu cầu thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật nuôi trên cơ sở
lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương. Từ đó, nghiên cứu áp
dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao - đó là
điều kiện tiên quyết phát triển được nền nông nghiệp bền vững .
2.2. Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp
2.2.1.Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây, người ta thường
quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, người ta nhận thấy rõ sự khác
nhau giữa hiệu quả và kết quả. Nói một cách tổng quát và chung nhất thì hiệu
quả chính là kết quả như yêu cầu của công việc mang lại.
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi
hướng tới; nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là
hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong



lao động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng
thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản
phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Kết quả, mà là kết quả hữu ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục
đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính
chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con
người mà ta phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra bao
nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh giá kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà
phải đánh giá chất lượng hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất lượng hoạt
động sản xuất kinh doanh là nội dung của đánh giá hiệu quả.
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử dụng
đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong hoạt động
kinh tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng tiền. Đồng thời
về mặt hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong quá trình hoạt động
kinh tế để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành nông nghiệp, cùng với hiệu
quả kinh tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng lao động trong nhiều trường hợp
phải coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được,
nhất là các loại nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất
khẩu…) để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội đất nước.
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện
pháp tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi
thế, khắc phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những
hoàn cảnh cụ thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền
kinh tế quốc dân, gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các
nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các

nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là mong
muốn của nông dân - những người trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng, vấn đề đánh giá hiệu quả sử
dụng đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà


phải xem xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội
và hiệu quả môi trường.
2.2.1.1. Hiệu quả kinh tế
Theo Các - Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động theo
các ngành sản xuất khác nhau. Theo nhà kinh tế Samuel – Nordhuas thì “Hiệu
quả là không lãng phí”. Theo các nhà khoa học Đức (Stienier, Hanau,
Rusteruyer, Simmerman) hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm
chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt
động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích cho xã
hội.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền
sản xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau. Vì
thế, hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
- Một là mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo
quy luật “tiết kiệm thời gian”.
- Hai là hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết
hệ thống.
- Ba là hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ các
lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả
đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là

phần giá trị của nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về phần
so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh tế
sử dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lƣợng
của cải vật chất nhiều nhất với một lƣợng chi phí về vật chất và lao động thấp
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội".


2.2.1.2. Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ
mật thiết với nhau và là một phạm trù thống nhất. Theo Nguyễn Duy Tính,
hiệu quả về mặt xã hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định
bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu nhập
của nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, phát
huy được nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của nhân dân. Sử dụng
đất phải phù hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc sử dụng đất
bền vững hơn.
2.2.1.3. Hiệu quả môi trƣờng
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải
bảo vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ
môi trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái
(>35%) đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài.
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và
theo chiều hướng khác nhau. Cây trồng phát triển tốt khi phù hợp với đặc tính,
tính chất của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới tác động của các
hoạt động sản xuất, phương thức quản lý của con người, hệ thống cây trồng sẽ
tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi trường.

Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm: hiệu
quả hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc sử
dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo cho
cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô nhiễm
môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm thiểu
việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra.


Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử dụng
đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
2.2.2.Đặc điểm, phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.2.1. Đặc điểm đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là rất cần thiết, có thể xem
xét ở các mặt:
- Quá trình sản xuất trên đất nông nghiệp phải sử dụng nhiều yếu tố đầu
vào kinh tế. Vì thế, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước tiên
phải được xác định bằng kết quả thu được trên một đơn vị diện tích cụ thể
(thường là 1 ha), tính trên 1 đồng chi phí, trên 1 công lao động.
- Trên đất nông nghiệp có thể bố trí các cây trồng, các hệ thống luân
canh, do đó cần phải đánh giá hiệu quả từng loại cây trồng, từng công thức luân
canh.
- Thâm canh là biện pháp sử dụng đất nông nghiệp theo chiều sâu, tác
động đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước mắt và lâu dài. Vì thế, cần
phải nghiên cứu hậu quả của việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nghiên
cứu ảnh hưởng của việc tăng đầu tư thâm canh đến quá trình sử dụng đất.

- Phát triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp được khi con người biết làm
cho môi trường cùng phát triển. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp cần quan tâm đến những ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp đến môi
trường xung quanh.
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính xã hội rất sâu sắc. Vì vậy,
khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần quan tâm đến những tác
động của sản xuất nông nghiệp đến các vấn đề xã hội khác như: giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ dân trí nông thôn…
2.2.2.2. Nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần
phải dựa trên những nguyên tắc cụ thể:


+ Hệ thống các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính so
sánh có thang bậc.
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ bản
biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan điểm
và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản làm
cho nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn, tính khoa học và
phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
2.2.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
* Hiệu quả kinh tế
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
- Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).

- Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất
thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào
và dịch vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT): là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung
gian, là giá trị sản phẩm xã hội tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó.
GTGT = GTSX - CPTG
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): Đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử
dụng các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ,
GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu
sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của người
lao động.


* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau:
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng;
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân;
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
* Các chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong quản lý sử dụng đất bền
vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và
bảo vệ cây trồng;

+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.3.1.Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Cây trồng là tài nguyên sinh vật, là tài nguyên sống nên sự sống của nó
gắn liền với điều kiện môi trường, bởi vì môi trường cung cấp cho cây trồng
các yếu tố sinh trưởng cấn thiết cho quá trình sinh trưởng phát triển, mỗi loại
cây trồng chỉ có thể sống và cho năng suất trong điều kiện khí hậu và đất trồng
nhất định, các vùng có điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau sẽ cho năng suất và
sản lượng cây trồng khác nhau.
- Khí hậu (ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa,...): Việc đầu tư lựa chọn cơ cấu
cây trồng đòi hỏi người nông dân phải am hiểu sâu sắc về tình hình đất đai, khí
hậu, thời tiết của vùng mình, địa phương mình để bố trí cây trồng hợp lý nhằm
tận dụng những điều kiện thuận lợi của tự nhiên đồng thời tránh được những


thiệt hại mà thiên tai gây ra.
Cây trồng khác nhau yêu cầu về cường độ ánh sáng cũng khác nhau,
trong quá trình sống của cây trồng hàng năm cường độ ánh sáng tới ảnh hưởng
có quan hệ thuận với năng suất cây trồng ở giai đoạn cuối khoảng 45 - 60 ngày
trước khi thu hoạch cây trồng.
Cây trồng sống trong điều kiện nhiệt độ khác nhau đã thích nghi với
nhiệt độ khác nhau.
Nước là yếu tố sinh trưởng quan trọng của cây trồng, nước vừa tham gia
cấu trúc nên cơ thể thực vật vừa quyết định các biến đổi sinh hoá và các hoạt động
sinh lý trong cây cũng như quá trình sinh trưởng, phát triển của cây cho nên nước
được xem là yếu tố sinh thái quan trọng nhất quyết định năng suất cây trồng.
- Đất (loại đất, địa hình, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì, chua mặn,...): Có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, các yếu tố của đất
đai là tài nguyên để sinh vật tạo nên sinh khối, do vậy cần đánh giá đúng điều
kiện đất đai để trên cơ sở xác định cây trồng vật nuôi phù hợp, tuỳ theo vị trí địa

hình, chất đất mà lựa chọn, bố trí cây trồng của từng vụ thích hợp trên từng loại
đất mới cho năng suất, chất lượng sản phẩm cao, bố trí sản xuất hợp lý, thực hiện
đa dạng hoá sản xuất và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
2.3.2.Nhóm các yếu tố kinh tế - tổ chức
- Cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố có vị trí quan trọng ảnh hưởng lớn
đến cây trồng, bởi muốn phát triển hệ thống cây trồng phải có những điều kiện
chủ yếu như các công trình thuỷ lợi, các công trình phúc lợi,...
- Vốn cũng là một nhân tố quyết định đến cây trồng, hộ nông dân muốn
có các loại giống mới có giá trị kinh tế cao đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn.
Trong sản xuất nông nghiệp, nông hộ phải quyết định tất cả các khâu sản xuất
và làm nảy sinh hàng loạt khó khăn, đa số nông hộ đều thiếu vốn cho sản xuất
nông nghiệp, vì vậy chi phí về vật tư cho sản xuất thường là không đủ và không
kịp thời gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất.
- Với cơ chế kinh tế được đổi mới thì ngày càng có những tiến bộ kỹ
thuật và phương thức sản xuất được ứng dụng vào sản xuất như tiến bộ giống,
tiến bộ về kỹ thuật, chăm sóc khoa học, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch,
công nghiệp chế biến hiện đại,... thì sản xuất nông nghiệp hàng hoá đã thu được


kết quả đáng kể.
Tổ chức sản xuất kinh doanh tác động đến hộ nông dân qua các khâu tổ
chức dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ kỹ thuật, phổ biến các tiến bộ mới vào
sản xuất, những tác động này sẽ thúc đẩy việc đổi mới cây trồng, cơ cấu canh
tác của từng vùng cũng như trong từng hộ, thậm trí những tiến bộ khoa học kỹ
thuật thay đổi toàn bộ cơ cấu cây trồng.
2.3.3.Nhóm yếu tố xã hội
- Lao động và thị trường đều có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu cây trồng, việc
phát triển sản xuất nông nghiệp vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động vừa phải đảm bảo được nhu cầu thị trường.
- Sự ổn định về chính trị - xã hội, sự phù hợp của chủ trương chính sách sẽ

khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp tạo điều kiện cho các chủ thể sử
dụng ruộng đất phát huy năng lực, lựa chọn các hướng đầu tư có hiệu quả, đồng
thời hạn chế được rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Ngoài ra, những kinh nghiệm tập quán sản xuất nông nghiệp và trình độ dân
trí của nhân dân cũng có tác động đến hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp.
- Nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nông nghiệp phát
triển như: Luật đất đai, chính sách trợ giá nông nghiệp để giúp nông dân khi
nông phẩm biến động, chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn theo
hướng đa dạng hoá sản phẩm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá đa
canh kết hợp với việc phát triển dịch vụ và công nghiệp nông thôn nhằm tạo
việc làm cho người dân.
2.4. Những xu hƣớng sử dụng đất nông nghiệp
2.4.1. Những xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới
Theo Đường Hồng Dật, trên con đường phát triển nông nghiệp mỗi nước
đều chịu ảnh hưởng của các điều kiện khác nhau, nhưng phải giải quyết vấn đề
chung sau:
+ Không ngừng nâng cao chất lượng nông sản, năng suất lao động trong
nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư;
+ Mức độ và phương thức đầu tư vốn, lao động, khoa học và quá trình
phát triển nông nghiệp. Chiều hướng chung nhất là phấn đấu giảm lao động


chân tay, đầu tư nhiều lao động trí óc, tăng cường hiệu quả của lao động quản
lý và tổ chức;
+ Mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và môi trường.
Từ những vấn đề chung trên, mỗi nước lại có chiến lược phát triển nông
nghiệp khác nhau và có thể chia làm hai xu hướng:
* Nông nghiệp công nghiệp hoá:
Sử dụng nhiều thành tựu và kết quả của công nghiệp, sử dụng nhiều vật
tư kỹ thuật, dùng trang thiết bị máy móc sản xuất theo quy trình kỹ thuật chặt

chẽ gần như công nghiệp, đạt năng suất cây trồng vật nuôi và năng suất lao
động cao. Khoảng 10% lao động xã hội trực tiếp làm nông nghiệp nhưng vẫn
đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Tuy nhiên, nông nghiệp công
nghiệp hoá gây nên nhiều hậu quả sinh thái nghiêm trọng, gây ô nhiễm môi
trường làm giảm tính đa dạng sinh học, làm hao hụt nguồn gen thiên nhiên.
Theo cách hiểu gần đây nhất được đưa ra: Nông nghiệp công nghiệp hoá
là một nền nông nghiệp được công nghiệp hoá khi áp dụng đầy đủ các thành
tựu của một xã hội công nghiệp vào nông nghiệp. Các thành tựu đó thể hiện
trên nhiều mặt: thông tin, điện tử, sinh học, hoá học, cơ khí… Thực tế cho thấy
ở nhiều nước công nghiệp phát triển, nền nông nghiệp công nghiệp hoá thể hiện
theo cách này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, nhược điểm của
nền nông nghiệp này là không chú ý đầy đủ đến các tác động của hoạt động sản
xuất nông nghiệp lên môi trường tự nhiên.
* Nông nghiệp sinh thái: Khái niệm nông nghiệp sinh thái được đưa ra
nhằm khắc phục những nhược điểm của nông nghiệp công nghiệp hoá. Nông
nghiệp sinh thái nhấn mạnh việc đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc về sinh
học trong nông nghiệp. Mục tiêu của nông nghiệp sinh thái là:
- Tránh những tác hại do sử dụng hoá chất và phương pháp công nghiệp
gây ra;
- Cải thiện chất lượng dinh dưỡng thức ăn;
- Nâng cao độ phì nhiêu của đất bằng phân bón hữu cơ, tăng hàm lượng
mùn trong đất…
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí.


Gần đây nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu nền nông nghiệp bền vững,
đó là một dạng của nông nghiệp sinh thái với mục tiêu sản xuất nông nghiệp đi
đôi với giữ gìn bảo vệ môi trường sinh thái đảm bảo cho nông nghiệp phát triển
bền vững, lâu dài.
Trong thực tế phát triển theo những dạng tổng hợp, đan xen các xu

hướng vào nhau ở nhiều mức độ khác nhau. Cụ thể như :
- “Cách mạng xanh’’ đã được thực hiện ở các nước đang phát triển của
Châu á, Mỹ La Tinh và đem lại những bước phát triển lớn vào thập niên 60.
Thực chất cuộc cách mạng này dựa chủ yếu vào việc áp dụng các giống cây
lương thực có năng suất lúa cao (lúa nước, lúa mì, ngô...), xây dựng hệ thống
thuỷ lợi, sử dụng nhiều loại phân hoá học. “Cách mạng xanh” dựa vào một số
yếu tố sinh học, một số yếu tố hoá học và thành tựu của công nghiệp.
- “Cách mạng trắng’’ được thực hiện dựa vào việc tạo ra các giống gia
súc có tiềm năng cho sữa cao, vào những tiến bộ khoa học đạt được trong việc
tăng năng suất và chất lượng các loại gia súc, trong các phương thức chăn nuôi
mang ít nhiều tính chất công nghiệp. Cuộc cách mạng này đã tạo được những
bước phát triển lớn trong chăn nuôi ở một số nước và được thực hiện trong mối
quan hệ chặt chẽ với “cách mạng xanh”.
- “Cách mạng nâu’’ diễn ra trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa nông
dân với ruộng đất. Trên cơ sở khơi dậy lòng yêu quý của nông dân đối với đất đai,
khuyến khích tính cần cù của họ để tăng năng suất và sản lượng trong nông
nghiệp.
Cả ba cuộc cách mạng này mới chỉ dừng lại ở việc tháo gỡ những khó
khăn trước mắt mà chưa thể là cơ sở cho một chiến lược phát triển nông nghiệp
lâu dài và bền vững.
Từ những bài học của lịch sử phát triển nông nghiệp, những thành tựu
đạt được của khoa học công nghệ, ở giai đoạn hiện nay muốn đưa nông nghiệp
đi lên phải xây dựng và thực hiện một nền nông nghiệp trí tuệ. Bởi vì, tính
phong phú đa dạng và đầy biến động của nông nghiệp đòi hỏi những hiểu biết
và những xử lý đầy trí tuệ và rất biện chứng. Nông nghiệp trí tuệ thể hiện ở việc
phát hiện, nắm bắt và vận dụng các quy luật tự nhiên và xã hội trong mọi mặt
hoạt động của hệ thống nông nghiệp phong phú, biểu hiện ở việc áp dụng các


giải pháp phù hợp, khoa học. Nông nghiệp trí tuệ là bước phát triển ở mức cao, là

sự kết hợp ở đỉnh cao của các thành tựu sinh học, công nghiệp, kinh tế, quản lý
được vận dụng phù hợp với điều kiện của mỗi nước, mỗi vùng.
2.4.2.Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong tương lai
Những năm gần đây, nền nông nghiệp nước ta bước đầu đã gắn phương
thức truyền thống với phương thức công nghiệp hoá và đang từng bước giảm bớt
tính tự cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hoá và hướng tới xuất khẩu.
Trên cơ sở thành tựu kỹ thuật nông nghiệp của hơn 20 năm đổi mới, dựa
trên những dự báo về khoa học kỹ thuật, căn cứ vào điều kiện cụ thể, phương
hướng chủ yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm tới sẽ là:
+ Tập trung sản xuất nông sản hàng hoá theo nhóm ngành, nhóm sản
phẩm [8], dựa trên cơ sở dự báo cung cầu của thị trường nông sản trong nước,
thế giới và khai thác tốt lợi thế so sánh của các vùng.
+ Xác định cơ cấu sản phẩm trên cơ sở các tiềm năng tự nhiên, kinh tế, xã
hội của từng vùng, lấy hiệu quả kinh tế tổng hợp làm thước đo để xác định cơ cấu,
tỷ lệ sản phẩm hợp lý về các chỉ tiêu, kế hoạch đối với từng nông sản hàng hoá.
+ Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn
nuôi, nhóm cây công nghiệp, rau quả so với cây lương thực. Giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp xuống còn 50%, tăng quỹ đất nông nghiệp bình quân trên một
lao động nông nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hoá, phát triển ngành
nghề công nghiệp, dịch vụ ngoài nông nghiệp. Mặt khác, cần phải phát triển mạnh
các ngành nghề, dịch vụ trong nông nghiệp để giải quyết lao động nông nhàn.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu cao hơn của
công nghiệp hoá. Để khuyến khích sản xuất nông sản hàng hoá, tăng sản phẩm
xuất khẩu, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường và từng
bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt là thị trường ruộng đất, tạo ra sự lưu chuyển đất nông nghiệp nhằm tạo ra
các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hàng hoá với quy mô thích hợp.
+ Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Cần ứng
dụng đồng bộ các yếu tố khoa học công nghệ vào sản xuất nông sản hàng hoá,
nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, lưu thông tiếp

thị nông sản hàng hoá.


Sản phẩm làm ra chứa đựng một lượng tri thức khoa học - kỹ thuật và tổ
chức quản lý cao để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm và tiếp cận tích cực nhất với kinh tế tri thức đang diễn ra
trên toàn cầu.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát
mỗi năm nước ta mất ít nhất 70 – 80 ngàn hecta đất nông nghiệp cho các khu
công nghiệp, sân golf, các nhà máy…. Trước tình hình đó Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định 391/QĐ-TTG ngày 18/4/2008 về việc rà soát, kiểm tra
thực trạng việc quản lý quy hoạch, kế hoạch và sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010
trên địa bàn cả nước, trong đó rà soát, kiểm tra thực trạng công tác quản lý quy
hoạch, kế hoạch, sử dụng đất nông nghiệp 5 năm 2006 - 2010 nói chung và đất
trồng lúa nước nói riêng. Và mới đây nhất trong trong Hội nghị TW7 (khai mạc
tại Hà Nội ngày 9/7/2008) đã đề cập nhiều vấn đề, trong đó có một nội dung rất
quan trọng là “vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn” (thƣờng đƣợc gọi
là "tam nông"). Đây được coi là “đại vấn đề” mà việc xử lý đúng sai sẽ trực
tiếp quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng XHCN.
2.4.3. Xây dựng nền nông nghiệp bền vững
2.4.3.1. Sự cần thiết phải xây dựng nền nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn cho sự
tồn tại và tương lai phát triển của loài người. Chính vì vậy việc nghiên cứu và
đưa ra các giải pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều nhà khoa
học đất và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ “sử dụng đất bền vững”
(Sustainable Land Use) đã trở thành thông dụng trên thế giới hiện nay.
Vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững hiện nay có nhiều cách hiểu
khác nhau, nhưng nhìn chung các nhà khoa học đều nhất trí với nhận định của
FAO, 1992: “Phát triển bền vững là sự quản lý, bảo vệ cơ sở của nguồn lợi tự

nhiên và phƣơng hƣớng của sự thay đổi kỹ thuật, thể chế bằng cách nào để đảm
bảo thoả mãn nhu cầu của con ngƣời, cho thế hệ hôm nay và mai sau” . Trong
nông nghiệp được dùng theo nghĩa rộng bao gồm nghề trồng trọt, nghề cá, nghề
rừng, chăn nuôi và chế biến nông sản. Bảo vệ được tài nguyên đất, nước, nguồn
lợi di truyền thực vật và động vật đi đôi với việc tăng hiệu quả kinh tế, xã hội
và không làm thoái hoá môi trường, thích ứng về kỹ thuật, có sức sống kinh tế


và được chấp nhận về xã hội.
Nông nghiệp bền vững là một hệ thống thiết kế để tạo môi trường bền
vững cho cuộc sống của con người. Mục đích của nông nghiệp bền vững là xây
dựng một hệ thống ổn định về mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả năng
thoả mãn những nhu cầu của con người mà không bóc lột đất đai, không làm ô
nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững phải coi thiên nhiên là môi trường lý
tưởng để phát triển một cách hoà hợp với thiên nhiên.
Mục tiêu của nông nghiệp bền vững là xây dựng một hệ thống sản xuất
ổn định về mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu
cầu của con người mà không bóc lột đất, không gây ô nhiễm môi trường. Nông
nghiệp bền vững sử dụng những đặc tính vốn có của cây trồng, vật nuôi kết hợp
với đăc trưng của cảnh quan và cấu trúc trên diện tích đất sử dụng một cách hài
hòa và thống nhất. Nông nghiệp bền vững là một hệ thống mà nhờ đó con
người có thể tồn tại được, sử dụng nguồn lương thực và tài nguyên phong phú
của thiên nhiên mà không dần huỷ diệt sự sống trên trái đất. Nông nghiệp bền
vững bao gồm 3 phạm trù: chăm sóc trái đất, chăm sóc con người và chi phối
thời gian, tài lực, vật lực vào các mục tiêu đó. Gần đây xuất hiện khuynh hướng
“Nông nghiệp hữu cơ”, chủ trương dùng máy cơ khí nhỏ và sức kéo gia súc, sử
dụng rộng rãi phân hữu cơ, phân xanh, phát triển cây họ đậu trong hệ thống
luân canh cây trồng, hạn chế sử dụng các loại hoá chất để phòng trừ sâu bệnh.
Ở Việt Nam nền văn minh lúa nước đã hình thành từ hàng ngàn năm nay,
có thể coi là một mô hình nông nghiệp bền vững ở vùng đồng bằng, thích hợp

trong điều kiện thiên nhiên ở nước ta. Gần đây, những mô hình sử dụng đất như
VAC (vườn, ao, chuồng), mô hình nông - lâm kết hợp trên đất đồi thực chất là
những kinh nghiệm truyền thống được đúc rút ra từ quá trình lao động sản xuất
lâu dài, bền vững với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại và phát triển.
Thực chất của nông nghiệp bền vững là phải thực hiện được khâu cơ bản
là duy trì độ phì nhiêu của đất được lâu bền. Độ phì nhiêu đất là tổng hoà của
nhiều yếu tố vật lý, hoá học và sinh vật học để tạo ra môi trường sống thuận lợi
nhất cho cây trồng tồn tại và phát triển.
2.4.3.2. Định hƣớng phát triển nền nông nghiệp bền vững
Với phương châm tạo sự phát triển hài hoà cả trên ba khía cạnh kinh tế,


xã hội và môi trường, các chuyên gia đã đề xuất những biện pháp đồng bộ trong
Bản dự thảo Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam trong
những năm tới như sau:
Để nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, cần có 4 ưu tiên: Tăng
trưởng kinh tế nhanh; thay đổi mô hình tiêu dùng; "công nghiệp hoá sạch" và
phát triển nông nghiệp bền vững. Đối với tăng trưởng kinh tế nhanh, theo phân
tích của các chuyên gia, hiện có không ít thách thức là suất đầu tư cao đòi hỏi
nguồn vốn đầu tư lớn; mức độ chế biến thấp dẫn đến tiêu tốn tài nguyên; sự
biến động giá cả trên thị trường thế giới; nguồn nợ nước ngoài ngày càng lớn...
Đối với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, cần đặc biệt trú
trọng những giải pháp liên quan đến hoàn thiện luật pháp và chính sách phát
triển bền vững, quy hoạch phát triển nông thôn, cơ cấu lại kinh tế nông thôn
theo hướng đẩy mạnh các ngành phi nông nghiệp, hỗ trợ ứng dụng công nghệ
mới, công nghệ sinh học, thúc đẩy công nghệ chế biến nông sản...
Theo phân tích của các chuyên gia, để có được sự phát triển xã hội bền
vững, vẫn tiếp tục phải ưu tiên giải quyết 5 vấn đề là xoá đói giảm nghèo; hạn
chế tăng dân số; định hướng đô thị hoá và di dân; nâng cao chất lượng giáo dục;
cải thiện y tế và vệ sinh môi trường. Đối với mỗi vấn đề này, phải có những

giải pháp cụ thể được kiến nghị. Chẳng hạn để nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo, không thể không xem xét việc đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục và đào tạo; tăng cường phổ cập trung học cơ sở; chú trọng giáo
dục các nhóm xã hội đặc biệt như nông thôn, vùng dân tộc thiểu số, đồng thời
phải đẩy mạnh việc huy động toàn dân tham gia công tác giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh những giải pháp trên ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường, các
chuyên gia còn khẳng định rằng để có sự phát triển bền vững, không thể chỉ cần
sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các đơn vị, doanh nghiệp thuộc ba lĩnh vực
này, mà còn cần có sự tham gia của toàn dân và đặc biệt là việc nâng cao vai trò
lãnh đạo của Nhà nước trong thực hiện phát triển bền vững thông qua hoạt động
xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá và giám sát, các công cụ tài chính...
2.4.3.3. Định hƣớng sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất gắn với các mục đích kinh tế, xã hội và môi trường là vấn đề
hiện đang được nhiều nước và người sử dụng đất quan tâm. Trong thời kỳ cuộc


sống xã hội phát triển ở mức cao, việc sử dụng đất luân hướng tới mục tiêu kinh
tế, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trên mọi đơn vị diện tích đất nhất định (xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, chuồng trại chăn nuôi quy mô lớn...) .
Bên cạnh đó, một phần diện tích đất không nhỏ được sử dụng để phục vụ nhu
cầu sinh hoạt, ăn ở cũng như thỏa mãn đời sống tinh thần của con người (xây
dựng nhà cửa, hệ thống giao thông, các công trình dịch vụ thể thao, văn hóa xã
hội, mở mang phát triển đô thị và khu dân cƣ nông thôn...).
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, các mục đích sử dụng đất nêu trên
luôn nảy sinh mâu thuẫn làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng
thẳng. Những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (sai lầm
có ý thức hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường nói chung và môi trường
đất nói riêng (các thảm hoạ sinh thái nhƣ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, trƣợt lở
đất... liên tục xẩy ra với quy mô ngày càng lớn và mức độ ngày càng nghiêm
trọng), làm cho một số chức năng của đất bị yếu đi. Để thoả mãn nhu cầu của

con người cả về 3 lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường nhất thiết phải giải quyết
những xung đột này để sử dụng đất có hiệu quả. Việc sử dụng đất như một thể
thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo ra hiệu quả sử
dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và nâng cao
chất lượng môi trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà được các mục
tiêu kinh tế - xã hội và môi trường.
Những xung đột giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường rất đa dạng:
- Đất sản xuất nông nghiệp đối lập với quá trình đô thị hoá.
- Phát triển thủy lợi đối lập với việc phân chia các nguồn tài nguyên nước
cho đô thị và phát triển công nghiệp.
- Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đối lập với việc bảo vệ hệ sinh
thái ven biển.
- Sản xuất thuốc phiện đối lập với sản xuất lương thực thực phẩm ở một
số địa phương.
- Quyền lợi của người bản địa và những người di cư.
- Bảo vệ các giá trị sinh thái đối lập với nhu cầu về thực phẩm hoặc nông
sản khác.


×