Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận quản lý giáo dục Giải quyết một số vướng mắc về năng lực đội ngũ cán bộ giáo viên khi thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh ứng dụng CNTT tại trường THPT số 1 bố trạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.92 KB, 21 trang )

Tiểu luận cuối khóa

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
II. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1.
2.

Phân tích nguyên nhân
Hậu quả

III. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÍ TÌNH HUỐNG
IV. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN
PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1.
Xây dựng và phân tích phương án
2.
Lựa chọn phương án giải quyết
V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ LỰA
CHỌN
1.

Các bước tổ chức thực hiện

2.

Biểu đồ công việc theo thời gian

VI. KIẾN NGHỊ
1.


Kiến nghị, đề xuất thực hiện tốt phương án
2.
Kiến nghị chung
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

1


Tiểu luận cuối khóa
LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin (CNTT) diễn ra sôi động hiện nay đang
tác động sâu sắc và trực tiếp đến mọi mặt hoạt động kinh tế xã hội của hầu khắp
các quốc gia trên thế giới, mở ra một thời kỳ phát triển mới khi nhân loại bước vào
thế kỷ XXI. Nội dung chủ đạo của bước chuyển biến lần này là sự phát triển từ nền
văn minh công nghiệp tiến lên nền văn minh thông tin và trí tuệ, mà cơ sở của nó là
sự phát triển từ nền kinh tế công nghiệp truyền thống sang nền kinh tế thông tin. Về
cơ bản, bước chuyển biến này được nẩy sinh và thực hiện chủ yếu tại các nước đã
có nền kinh tế công nghiệp phát triển; tuy nhiên, với xu thế “toàn cầu hoá” nhanh
chóng hiện nay, tác động của bước chuyển biến vĩ đại này đã lan toả nhanh chóng
đến khắp các nước trên thế giới, tạo ra những cơ hội to lớn và đồng thời cũng là
những thách thức to lớn cho các nước đang phát triển đang tìm đường công nghiệp
hoá và hiện đại hoá nền kinh tế và xã hội của mình.
CNTT bao gồm tất cả các hoạt động và các công nghệ chứa đựng các nội dung
xử lý thông tin bằng các phương tiện điện tử, từ việc thu thập, lưu trữ, tìm kiếm,
chế biến, truyền đưa,... đến sử dụng thông tin trong mọi lĩnh vực của sản xuất, kinh
tế và đời sống con người. Trong giai đoạn mới của sự phát triển kinh tế và xã hội
dưới tác động của CNTT, tri thức và các ý tưởng sáng tạo đóng vai trò trung tâm có

ý nghĩa quyết định, do đó sự chuyển biến sang nền kinh tế thông tin đòi hỏi phải
tăng cường giáo dục, thực sự đổi mới và tìm nhiều cách thức mới cho giáo dục, cho
việc phát triển nhanh chóng nguồn nhân lực và lao động có chất lượng cao, phát
huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đất nước.
Ở nước ta, trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước trong bối cảnh phát triển mới của thế giới hiện đại, việc phát triển và ứng
dụng CNTT để đổi mới và phát triển mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội trở
thành rất cấp thiết. Chỉ thị 58-CT/UW ngày 07/10 /2001 của Bộ Chính Trị đã chỉ
rõ: “Công nghệ thông tin nhân lên sức mạnh tinh thần, vật chất, trí tuệ của toàn dân
tộc; là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới và phát triển, nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế…”. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng
tâm của ngành Giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng
dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo.

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

2


Tiểu luận cuối khóa
Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công
nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục
đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã
đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay,
việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng
ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản
lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng
ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của
mình,mục đích của mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay

đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội
học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ Giáo dục
và Đào tạo (GD&ĐT) cũng yêu cầu “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là
một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của Bộ GD&ĐT và của Sở GD&ĐT, nhận
thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc quản lí, chỉ đạo và đổi mới
phương pháp dạy học trong nhà trường là một trong những hướng tích cực nhất,
hiệu quả nhất trong việc cải cách đổi mới nội dung dạy học, trường THPT số 1 Bố
Trạch đã mạnh dạn tích cực đưa CNTT vào trong các hoạt động của nhà trường
trong thời gian gần đây. Tuy nhiên khi thực hiện vấn đề này trường chúng tôi đã
gặp không ít vướng mắc, khó khăn cần phải được giải quyết, tháo gỡ một cách hợp
lí, phù hợp với tình hình của đơn vị.
Với những lí do trên, xuất phát từ tình huống thực tiễn như vậy ở đơn vị công
tác nên tôi chọn đề tài: "Giải quyết một số vướng mắc về năng lực đội ngũ cán bộ
giáo viên khi thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh ứng dụng CNTT tại trường THPT
số 1 Bố Trạch".
Làm thế nào để thực hiện ứng dụng CNTT hiệu quả trong các trường THPT,
đó là vấn đề mà bất cứ một trường học nào cũng nghĩ đến khi đưa CNTT vào trong
quản lí và giảng dạy. Trong đề tài này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của
cá nhân mình, cũng như một số phương án giải quyết vướng mắc trong vấn đề
nâng cao năng lực CNTT cho đội ngũ cán bộ giáo viên mà chúng tôi đã thực hiện
trong thời gian vừa qua ở trường THPT số 1 Bố Trạch để cùng các bạn đồng nghiệp
thảo luận tìm ra phương án tối ưu nhất cho việc thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh ứng
dụng CNTT trong quản lí và dạy học ở trường của mình.

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

3



Tiểu luận cuối khóa
I.

MÔ TẢ TÌNH HUỐNG

Thực hiện Chỉ thị số 47/2008/CT-BGDĐT ngày 13/8/2008 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008-2009; Chỉ thị số
55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng
dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
và Công văn số 9772/BGDĐT-CNTT ngày 20/10/2008 của Bộ GDĐT hướng dẫn
việc triển khai nhiệm vụ CNTT năm học 2008-2009, cụ thể đó là:
1. Tổ chức quán triệt và xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 55/2008/CTBGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT và thực hiện chủ đề “Năm học
đẩy mạnh ứng dụng CNTT”.
2. Xây dựng hệ thống đơn vị công tác chuyên trách về CNTT trong ngành.
3. Kết nối Internet băng thông rộng.
4. Thiết lập và sử dụng hệ thống e-mail .
5. Khai thác và cung cấp nội dung website mạng giáo dục.
6. Khai thác, sử dụng và dạy học bằng mã nguồn mở.
7. Đẩy mạnh một cách hợp lý việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
trong đổi mới phương pháp dạy và học ở từng cấp học.
8. Tiếp tục triển khai việc giảng dạy môn tin học trong các trường trung học
phổ thông..
9. Triển khai chương trình công nghệ giáo dục và e-Learning.
10. Ứng dụng CNTT trong hoạt động “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.
11. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý giáo dục.
12. Công tác bồi dưỡng về CNTT cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.

13. Tăng cường đầu tư hạ tầng cơ sở CNTT trong trường học và tại Sở
GDĐT.
14. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về ứng dụng CNTT trong giáo dục.
15. Triển khai công tác tổng điều tra, khảo sát hiện trạng về ứng dụng CNTT
trong các cơ quan quản lý các cấp, các cơ sở giáo dục và đào tạo trong toàn quốc.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, đòi hỏi các trường THPT phải có một cơ sở
vật chất về CNTT (Phòng học, máy vi tính, hệ thống mạng, các phương tiện, thiết
bị CNTT hỗ trợ, các phần mềm quản lí và học tập, phần mềm ứng dụng...) tương
đối đầy đủ và một đội ngũ cán bộ, giáo viên có năng lực CNTT đáp ứng được yêu
cầu ứng dụng được CNTT vào công tác giáo dục nói chung và công tác giảng dạy
nói riêng. Thế nhưng, hiện nay hầu hết các trường THPT nói chung và trường
THPT số 1 Bố Trạch nói riêng gặp nhiều vướng mắc, khó khăn bất cập về năng lực
CNTT của đội ngũ khi thực hiện nhiệm vụ đó là: Năng lực CNTT của đội ngũ
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

4


Tiểu luận cuối khóa
cán bộ giáo viên đa số còn yếu kém, chưa có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ
ứng dụng CNTT trong giảng dạy, chưa đáp ứng được các yêu cầu về lĩnh vực
ứng dụng công nghệ ở thời điểm hiện tại, đây chính là các vướng mắc, khó
khăn lớn nhất cần được tháo gỡ, giải quyết.
Chính từ sự bất cấp đó, những khó khăn đó buộc các nhà quản lý giáo dục phải
có biện pháp, hướng giải quyết khó khăn sao cho phù hợp với tình hình của đơn vị
nhằm thực hiện được nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, đạt được hiệu quả cao trong
công tác giáo dục.
II. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1.
Phân tích nguyên nhân

Hiện nay, việc áp dụng CNTT trong quản lý đã được Bộ GD&ĐT triển khai áp
dụng. Đó là lập hệ thống Email cho các Sở, phòng, trường cấp 3 để tiện việc trao
đổi thông tin. Đó là việc xây dựng các phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho công tác
quản lí trường học như: Quản học sinh và giáo viên, quản lí điểm, quản lí cơ sở vật
chất, quản lí thiết bị, quản lí thư viện...Ở Quảng Bình, Sở GD&ĐT cũng đã có
Webside riêng và đã lập địa chỉ Email cho các trường trực thuộc. Việc làm này rất
hay, giúp cho các trường nhận công văn một cách nhanh chóng, đỡ tốn kém cũng
như những báo cáo gởi về Sở GD&ĐT cũng nhanh hơn.
Song hiện nay, năng lực CNTT của đội ngũ cán bộ quản lí và đội ngũ giáo
viên vẫn còn thấp.Việc triển khai công việc còn lúng túng, tốn nhiều thời gian, thực
hiện chưa đồng bộ, thống nhất. Muốn đạt được hiệu quả tốt trong vấn đề này đòi
hỏi phải nâng cao nhận thức, nâng cao năng lực CNTT cho đội ngũ.
Bên cạnh đó các mô hình ứng dụng trong quản lí chưa rõ ràng, chưa thống
nhất và chặt chẽ, chưa có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản
mang tính pháp quy của các cơ quan chức năng cấp trên để các trường có cơ sở lập
đề án, huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội
dung, phương pháp, hình thức quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà
trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập.
Đội ngũ GV của chúng ta đa phần chưa được tiếp xúc với vi tính nhiều. Điều
này dẫn đến sự hạn chế trong việc ứng dụng CNTT. Một vài năm trở lại đây, chúng
ta thấy có sự nở rộ về bài giảng điện tử. Đây chính là sự vận dụng CNTT trong dạy
học.Tuy nhiên cũng gặp không ít khó khăn khi tiếp nhận cái mới.
Thứ nhất, những GV lớn tuổi hoặc GV không biết vi tính còn nhiều cho nên
thật sự là không hưởng ứng lắm. Và cho rằng dạy học bằng phương pháp truyền
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

5


Tiểu luận cuối khóa

thống vẫn hiệu quả và thực tế. Tôi cũng đã tự học và tham gia các lớp bồi dưỡng ở
trường về bài giảng điện tử, khi đó tôi mới thấy rằng sự khó khăn thật sự đối với họ
và thông cảm về điều đó.
Thứ hai, GV cần phải có một sự đam mê về lĩnh vực CNTT. Khi đó họ mới
thật sự tìm tòi và ứng dụng mạnh mẽ CNTT để phục vụ giảng dạy. Nhiều GV
không biết đến Internet thì làm sao có thể tìm tòi tư liệu mà giảng dạy.
Thứ ba, lãnh đạo nhà trường phải có một định hướng cụ thể việc áp dụng
CNTT vào việc giảng dạy của GV, vào quản lý trong nhà trường. Ví dụ: tổ chức
hội giảng có sử dụng phương tiện hiện đại và mọi GV phải tham gia (có thể nhiều
GV không thành công nhưng điều đó không quan trọng mà cho GV biết được
những lợi ích của CNTT mang lại và gieo cho họ niềm đam mê), sử dụng CNTT
trong quản lý hồ sơ sổ sách, quản lý điểm HS,…
Do đó, hiện nay để áp dụng được CNTT trong dạy học, chúng ta cần có lộ
trình đào tạo kỹ năng CNTT cho đội ngũ giáo viên. Sở GD&ĐT và các trường cần
tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho GV thường xuyên hơn hoặc tạo điều kiện để GV
đi học, tự nghiên cứu và bồi dưỡng cho bản thân.
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công nghệ thông tin và
truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu đã đạt được
những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn hết sức khiêm
tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở phía trước bởi những
vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng
trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên
hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài
giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là,
với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo
phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả
nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học
từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy tính
điện tử. Những mạch kiến thức “ vận dụng” đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với phấn

trắng bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ
năng cho học sinh.
- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên
vẫn còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né
tránh. Mặc khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi,
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

6


Tiểu luận cuối khóa
sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được trong một thời gian tới. Việc dạy học
tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho
học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự
khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết
hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng thời phát huy ưu điểm của phương
pháp dạy học này làm hạn chế những nhược điểm của phương pháp dạy học truyền
thống. Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy
học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó.
- Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa
được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc,
nhiều khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn lúng túng,
chưa xác định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Chính sách, cơ
chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng bộ trong thực hiện. Các
phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học bằng phương
tiện chiếu projector, … còn thiếu và chưa đồng bộ và chưa hướng dẫn sử dụng nên
chưa triển khai rộng khắp và hiệu quả.
- Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều
sâu; sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công

tác đào tạo, Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chỉ mới dừng lại
ở việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và
công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp học một cách có hiệu quả
2.

Hậu quả:

Với sự phân tích trên, chúng ta thấy rõ rằng nếu không giải quyết vấn đề này
một cách hợp lí thì sẽ dẫn đến hậu quả phản giáo dục rất lớn. Cụ thế đó là:
Không thực hiện tốt Chỉ thị số 47/2008/CT-BGDĐT ngày 13/8/2008 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008-2009; Chỉ thị
số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng
dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
và Công văn số 9772/BGDĐT-CNTT ngày 20/10/2008 của Bộ GD&ĐT hướng dẫn
việc triển khai nhiệm vụ CNTT năm học 2008-2009;
Ảnh hưởng trực tiếp đến việc đổi mới nội dung dạy học, phương pháp dạy
học, dẫn đến việc cải cách giáo dục không thành công. trong ngành giáo dục;
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

7


Tiểu luận cuối khóa
Không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục dào tạo và
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
III. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÍ TÌNH HUỐNG
Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường nói chung và trường trung
học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các
nhà trường nâng cao chất lượng quản lí nhà trường; giúp các thầy giáo, cô giáo

nâng cao chất lượng dạy học; trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử
dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp
phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong
thời kì hiện đại hoá. Vì vậy mục tiêu xử lí tình huống đó là:
Nhanh chóng đưa CNTT vào nhà trường, triển khai ứng dụng CNTT trong
quản lí giáo dục, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy, đổi mới phương
pháp dạy học của giáo viên và việc học tập của học sinh;
Nâng cao nhận thức, năng lực CNTT, ý thức tiếp cận cái mới và ứng dụng cái
mới của đội ngũ giáo viên.
Nâng cao nhận thức về tin học và ứng dụng CNTT trong nhà trường nhằm
giúp các cấp lãnh đạo, các lực lượng xã hội nhận thức một cách đầy đủ ý nghĩa và
tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT và nhà trường;
Đội ngũ giáo viên cũng có vai trò quyết định nhất trong việc ứng dụng các
thành tựu của CNTT vào công tác giáo dục. Vì thế cần nghiên cứu bồi dưỡng năng
lực CNTT cho giáo viên nói chung và kỹ năng sử dụng phần mềm ứng dụng dạy
học nói riêng để dạy học bộ môn. Nên có các khoá tập huấn ngắn hạn cho các giáo
viên của trường. Cần có các tài liệu hướng dẫn ứng dụng CNTT cho giáo được biên
soạn với văn phong nhẹ nhàng, dễ hiểu và phù hợp từng đối tượng người đọc.
Trong điều kiện hiện nay, vấn đề bồi dưỡng các kiến thức và kĩ năng về CNTT cho
giáo viên là hết sức cấp thiết. Việc tổ chức bồi dưỡng cụ thể theo các bước: Xoá mù
tin học cho GV, tập huấn ứng dụng CNTT vào dạy học cho các môn học cụ thể ở
từng lĩnh vực cụ thể.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ phần mềm nói chung và phần mềm giáo
dục nói riêng đã giúp chúng ta có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy
học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy
học này mà học sinh trung bình thậm chí học sinh yếu cũng có thể hoạt động tốt
trong môi trường học tập. Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và
giảng dạy trên máy vi tính trở nên sinh động hơn, thu hút được sự chú ý và tạo
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II


8


Tiểu luận cuối khóa
đước hứng thú nơi học sinh. Thông qua bài giảng điện tử, giáo viên cũng có nhiều
thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn
trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của CNTT đã nhanh chóng
làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập và tư duy của con người.
CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình
thức dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề càng có điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình
thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những
đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông. Nếu trước kia người ta nhấn
mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu thì nay phải đặt trọng
tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu
trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực
hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo
của học sinh.
Do đó mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học là nâng cao
một bước cơ bản chất lượng học tập của học sinh, tạo ra môi trường giáo dục mang
tính tương tác cao, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm
kiếm tri thức, sắp xếp hợp lí quá trình tự học, tự rèn luyện của bản thân mình.
IV. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN
PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1.
Xây dựng và phân tích phương án:
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT trong giáo dục ở trường học một cách
đúng mức phù hợp với trình độ nhận thức và nhu cầu sử dụng của từng đơn vị,
trong từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đổi mới giáo dục là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, yếu tố then chốt vẫn là việc nâng cao năng lực CNTTcho tất cả GV, ứng

dụng CNTT trong công tác, trong giảng dạy. Đội ngũ GV cũng có vai trò quyết
định nhất trong việc ứng dụng các thành tựu của CNTT vào công tác chuyên môn.
Vì thế cần nghiên cứu là phải nâng cao năng lực CNTT cho đội ngũ cán bộ, giáo
viên.
Trên cơ sở đó, tôi đưa ra một số phương án giải quyết tình huống này như sau:
Phương án 1:
Yêu cầu tất cả cán bộ, giáo viên tự học tập, nghiên cứu, tìm hiểu về CNTT,
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và học Tin học ở các Trung tâm. Sau thời gian

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

9


Tiểu luận cuối khóa
kết thúc một học kì trong năm học 2008-2009 yêu cầu nộp chứng chỉ Tin học và
nhà trường sẽ tổ chức kiểm tra, sát hạch.
Ưu điểm:
Đối với phương án này, mặt lợi thế của nó là kích thích, nâng cao đựoc tính tự
học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao kiến thức, kỹ năng sử dụng
thiết bị dạy học của giáo viên. Nhà trường có thời gian triển khai các hoạt động
khác và thực hiện được nhiệm vụ về ứng dụng CNTT đã đề ra.
Hạn chế:
Tuy nhiên hiệu quả, chất lượng mang lại của phương án này không cao. Thời
gian để đội ngũ cán bộ giáo viên tự học tập, tự bồi dưỡng ở các Trung tâm Tin học
sẽ ảnh hưởng đến một số công việc khác của nhà trường. Đội ngũ GV sẽ gặp nhiều
khó khăn về thời gian và tiền của. Ảnh hưởng đến kinh tế của đội ngũ giáo viên
trong khi đời sống nghề giáo đang gặp nhiều khó khăn. Mặt khác kết quả thu được
không đồng bộ, không có tính thống nhất.
Phương án 2:

Giao cho các Tổ chuyên môn trong nhà trường tự tổ chức học tập, nghiên cứu
theo tổ, theo đặc trưng bộ môn của mình. Mỗi tổ có cam kết chất lượng năng lực
CNTT của giáo viên sau một học kì trên cơ sở khả năng hiện có của giáo viên trong
tổ. Báo cáo kết quả cho Ban Giám hiệu nhà trường. Lãnh đạo nhà trường sẽ có kế
hoạch kiểm tra.
Ưu điểm:
Cũng như phương án thứ nhất, phương án này kích thích, nâng cao tính tự học,
tự nghiên cứu và ứng dụng của các nhóm tổ chuyên môn, của đội ngũ giáo viên.
Tập trung được các giáo viên trong cùng nhóm tổ chuyên môn để có điều kiện trao
đổi, thảo luận đưa ra được cách ứng dụng hiệu quả cho bộ môn mình. Kết quả đạt
được là các Tổ chuyên môn ứng dụng được CNTT trong giảng dạy, trong công tác.
Nhà trường thực hiện được nhiệm vụ đẩy mạnh ứng dung CNTT.
Hạn chế:
Phương án này có mặt hạn chế đó là các Tổ chuyên môn tốn kém mất nhiều
thời gian, công sức, tiền của và có thể ảnh hưởng đến một số hoạt động khác của tổ.
Các giáo viên tốn kém công sức, thời gian, tiền của.
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

10


Tiểu luận cuối khóa
Phương án 3:
Nhà trường tổ chức cho cán bộ giáo viên tùy theo khả năng hiện có của cá
nhân để đăng kí học tập, bồi dưỡng theo từng chuyên đề tại trường. Dưới sự chỉ
đạo của BGH nhà trường, Ban Công nghệ thông tin nhà trường mà nồng cốt là Tổ
Tin học chủ trì tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức, tập huấn kĩ năng sử
dụng CNTT cho các cán bộ giáo viên của trường. Nhà trường có thể mời thêm một
số giảng viên ở bên ngoài giảng dạy.
Ưu điểm:

Đối với phương án này, nó đã khắc phục được các nhược điểm của hai phương
án trên. Điều đặc biệt quan trọng đó là hiệu quả đạt được khá cao. Mục tiêu nâng
cao năng lực CNTT của đội ngũ cán bộ giáo viên trong trường đạt được trong thời
gian không dài. Có thể tiết kiệm được thời gian, công sức tiền của của đội ngũ.
Hiệu quả thu khá cao, có tính động bộ, thống nhất trong toàn nhà trường. Thực hiện
được nhiệm vụ mà cấp trên đã giao.
Hạn chế:
Tuy nhiên phương án này cũng tốn kém thời gian, công sức của giáo viên. Tốn
kém kinh phí của nhà trường và có thể ảnh hưởng một số hoạt đông khác của nhà
trường. Tuy nhiên nếu biết cách tổ chức, sắp xếp thời gian hợp lý sẽ tạo được nhiều
thuận lợi cho đội ngũ giáo viên, cho nhà trường.
2.

Lựa chọn phương án giải quyết:

Qua phân tích các phương án ở trên, theo tôi phương án 3 là phương án tối ưu
nhất. Phương án này đáp ứng được mục tiêu đã đặt ra, có tính khả thi khi thực
hiện. Vi vậy tôi quyết định lựa chọn phương án 3 để xử lí tình huống này.
V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ LỰA
CHỌN
1.
Các bước tổ chức thực hiện:
Bước 1: Họp Lãnh đạo nhà trường, họp Ban CNTT, lên kế hoạch thực
hiện
Ban Giám hiệu nhà trường họp bàn, thành lập Ban CNTT trong nhà trường.
Giáo trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong Ban.
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

11



Tiểu luận cuối khóa
Quán triệt các văn bản chỉ đạo của cấp trên về việc thực hiện nhiếm vụ CNTT.
Giao cho Ban CNTT lên kế hoạch triển khai thực hiện. Các thanh viên trong Ban
Giám hiệu chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chung.
Bước 2: Thông báo kế hoạch, cho cán bộ giáo viên đăng kí học tập theo
các chuyên đề đã đưa ra.
Các chuyên đề cần có đó là:
+ Chuyên đề 1: Lớp Tin học văn phòng
+ Chuyên đề 2: Sử dụng mạng LAN, Internet, Email.
+ Chuyên đề 3: Ứng dụng CNTT vào soạn giảng và giảng dạy
Tùy theo trình độ, năng lực từng cán bộ giáo viên mà mỗi cá nhân giáo viên
đăng kí học tập. Lãnh đạo nhà trường sẽ có kế hoạch theo dõi, kiểm tra. Sau từng
lớp chuyên đề nhà trường sơ kết, đánh giá, nhận xét và rút kinh nghiệm. Sau cuối
đợt nhà trường khảo sát, sát hạch, đánh giá và tổng kết chung. Từ đó giao cho các
Tổ chuyên môn, các cán bộ giáo viên tự học tập, nghiên cứu thêm.
Bước 3: Tổ chức thực hiện kế hoạch đã thống nhất:
+ Tập huấn, bồi dưỡng CNTT cho các cán bộ giáo viên theo kế hoạch
Song song với hoạt động bồi dưỡng năng lực CNTT cho giáo viên, Ban Giám
hiệu giao cho các Tổ chuyên môn trong nhà trường tự tổ chức theo triển khai thực
hiện việc ứng tại tổ theo tổ, theo đặc trưng bộ môn của mình. Tăng cường dự giờ
rút kinh nghiệm, tổ chức hội thảo theo nhóm chuyên môn, đặc biệt chú trọng trong
công tác soạn giảng hàng ngày của giáo viên.
Mỗi Tổ chuyên môn, tổ chức đoàn thể trong nhà trường buộc phải có một cá
nhân kiêm nhiệm về CNTT. Cá nhân này sẽ được tập huấn, bồi dưỡng thêm và có
nhiệm vụ hỗ trợ kĩ năng sử dụng CNTT hàng ngày cho các cán bộ giáo viên của tổ
như sửa chữa nhỏ, hướng dẫn cài đặt, hướng dẫn sử dụng phần mềm, chống virus,
hướng dẫn lấy thông tin, chia sẽ thông tin...
+ Khuyến khích giáo viên sử dụng bài giảng điện tử và trao đổi kinh
nghiệm trong giảng dạy:


Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

12


Tiểu luận cuối khóa
Khuyến khích giáo viên soạn giáo án trên máy tính và chia sẻ trên mạng để
trao đổi kinh nghiệm và dùng chung. Tổ chức diễn đàn để giao lưu và trao đổi kinh
nghiệm, hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn của giáo viên, cung cấp chia sẻ nguồn tư
liệu giáo dục. Đồng thời phát động các phong trào thi soạn bài giảng điện tử, có
giải thưởng để động viên giáo viên tham gia, làm phong phú kho dữ liệu bài giảng
và minh hoạ điện tử.
Tổ chức các tiết thao giảng, các Hội thảo về việc sử dụng bài giảng điện tử
trong giảng dạy, xem đây là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại hàng
năm của tổ chuyên môn, của cán bộ, giáo viên. Đây là “lộ trình”, bước chuẩn bị sẵn
về cơ sở vật chất, kiến thức và lực lượng cho việc áp dụng dạy học bằng giáo án
điện tử rộng khắp trong một vài năm tới.
Bên cạnh đó, nhà trường tổ chức các Hội thi ứng dụng CNTT trong soạn giảng
và giảng dạy vào các ngày Lễ. Tích cực động viên, khuyến khích giáo viên tham
gia các Hôi thi cấp tỉnh, cấp Quốc gia. Không ngừng tăng cường xây dựng cơ sở
vật chất đáp ứng yêu cầu dạy học trong điều kiện có thể.
+ Hướng dẫn các Tổ chuyên môn sử dụng biểu mẫu chuyên môn, biểu
mẫu thống kê, báo cáo và một số biểu mẫu công tác khác qua hệ thống mạng
LAN nội bộ của nhà trường:
Tạo lập sẳn các biểu mẫu sinh hoạt chuyên môn, các biểu mẫu thống kê, báo
cáo và gửi cho các Tổ chuyên môn thông qua hệ thống mạng LAN, yêu cầu các tổ
nhập thông tin, dữ liệu báo cáo lại. Cán bộ quản lí, TKHĐ, văn phòng không cần
phải in ấn biểu mẫu, hiệu quả công việc cao, nhanh chóng đỡ tốn thời gian và tiền
của.

+ Tạo kho dữ liệu, thư mục dùng chung, thư mục chia sẻ trong hệ thống
mạng LAN, trên Website:
Mỗi Tổ chuyên môn, mỗi tổ chức đoàn thể trong nhà trường có một kho tư
liệu bộ môn riêng, tất cả tập hợp thành kho tư liệu của nhà trường. Cán bộ giáo viên
có thể sử dụng tư liệu phục vụ cho công tác giảng dạy của mình.
Thực hiện việc chuyển phát công văn, tài liệu (không bảo mật), kế hoạch công
tác qua mạng điện tử, qua hệ thống Email của Hội đồng theo từng thể loại, nội
dung văn bản. Các Tổ chuyên môn, các cán bộ giáo viên phải có trách nhiệm kiểm
tra hộp thư định kì để nắm bắt thông tin, kế hoạch công tác và thực hiện. Các công
việc đột xuất BGH nhà trường cũng thông báo các tổ chuyên môn, các cán bộ giáo

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

13


Tiểu luận cuối khóa
viên qua hệ thống Email công tác, giáo viên ở nhà cũng có thể nắm bắt thông tin
kịp thời.
+ Bước đầu thành lập hệ thổng Sổ điểm điện tử, Học bạ điện tử của học
sinh để giáo viên cập nhật:
Nhà trường tạo ra các Sổ điểm điện tử các lớp, Học bạ điện tử cho cáchọc
sinh trong nhà trường. Yêu câu giáo viên phải cập nhật thông tin đầy đủ, đúng thời
gian quy định.
+ Khai thác, chia sẽ nguồn thông tin trên mạng Internet, hướng đẫn sử
dụng thư điện tử Email:
Hướng dẫn cán bộ giáo viên khai thác nguồn tài nguyên, tìm kiếm thông tin,
chia sẽ thông tin (phải đảm bảo tính bảo mật thông tin nội bộ của đơn vị) trên mạng
Internet để phục vụ bài soạn, bài giảng, phục vụ công tác giảng dạy.
Hướng dẫn cán bộ sử dụng thư điện tử trên Webside nhà trường, thiết lập cho

mỗi tổ chuyên môn, các tổ chức đoàn thể, các cán bộ giáo viên một hộp thư công
tác riêng tạo nên hệ thống thư công tác của Hội đồng sư phạm. Yêu cầu các cán bộ
giáo viêc phải có trách nhiệm cập nhật, trao đổi thường xuyên.
+ Trao đổi thông tin với các trường học khác thông qua Website nhà
trường; báo cáo, thống kê và trao đổi thông tin Sở GD&ĐT, với Bộ GD&ĐT
thông qua hệ thống Email.
+ Yêu cấu tất cả các đối tượng sử dụng phải có ý thức đảm bảo tính bảo
mật, an toàn thông tin của đơn vị; có ý thức phòng chóng virus khi sử dụng:
Trong quá trình sử dụng, tính an toàn bảo mật thông tin đơn vị được đặt lên
hàng đầu. Nhà trường thường xuyên quán triệt tinh thần trên đến các các bộ giáo
viên và thành lập Ban quản trị hỗ trợ, hướng dẫn giáo viên khi sử dụng.
Bước 4: Tổ chức Hội nghị tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm:
Sau một kì thực hiện, các Tổ chuyên môn tự tổ chức Hội thảo, đánh giá, rút
kinh nghiệm theo từng bộ môn. Báo cáo kết quả cho Ban Giám hiệu nhà trường.
Ban CNTT nhà trường cũng tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm khi triển khai
thực hiện kế hoạch đã đề ra, đồng thời đánh giá khái quát về năng lực CNTT của
đội ngũ giáo viên cuối kì. Báo cáo kết qua cho Ban Giám hiệu nhà trường, sau đó
tham mưu, đề xuất phương hướng cho thời gian tới.
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

14


Tiểu luận cuối khóa
Ban Giám hiệu nhà trường tổng hợp kết quả, tổng kết đánh giá chung và đề ra
kế hoạch cho thười gian tới.
2.

Biểu đồ công việc theo thời gian:
THỜI GIAN THỰC

HIỆN
THỜI
GIAN
BẮT
ĐẦU

THỜI
GIAN
KẾT
THÚC

TT

NỘI DUNG CÔNG VIỆC

1

- Họp lãnh đạo nhà trường, thành
lập Ban công nghệ thông tin.
- Họp Ban CNTT, phân công
nhiệm vụ các thành viên trong
Ban, lên kế hoạch thực hiện.

30/01/09

03/01/09

2

- Thông báo cho kế hoạch, cho

cán bộ giáo viên đăng kí học tập
theao các chuyên đề đã đưa ra.
- Ban công nghệ thông tin lên kế
hoạch, triển khai thực hiện kế
hoạch

04/02/09

06/02/09

- Tổ chức thực hiện:
07/02/09
+ Chuẩn bị về cơ sở vật chất;
+ Tập huấn, bồi dưỡng CNTT
cho các cán bộ giáo viên theo
kế hoạch;
+ Khuyến khích giáo viên sử
dụng bài giảng điện tử và trao
đổi kinh nghiệm trong giảng
dạy;
+ Hướng dẫn các Tổ chuyên

30/06/09

3

CÁ NHÂN
HAY TỔ
CHỨC
ĐẢM

NHẬN

GHI
CHÚ

Lãnh đạo
nhà
trường,
Ban
CNTT
Ban
CNTT,
các Tổ
chuyên
môn, đội
ngũ giáo
viên
Ban
CNTT,
các Tổ
chuyên
môn, đội
ngũ giáo
viên

môn sử dụng biểu mẫu chuyên
môn, biểu mẫu thống kê, báo
cáo và một số biểu mẫu công
tác khác qua hệ thống mạng
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II


15


Tiểu luận cuối khóa
LAN nội bộ của nhà trường;
+ Tạo kho dữ liệu, thư mục
dùng chung, thư mục chia sẻ;
+ Yêu cấu tất cả các đối tượng
sử dụng phải có ý thức đảm
bảo tính bảo mật, an toàn thông
tin của đơn vị; có ý thức phòng
chóng virus khi sử dụng;
+ Báo cáo, trao đổi thông tin
với Sở GD&ĐT thông qua hệ
thống Email;
+ Bước đầu thành lập hệ thổng
Sổ điểm điện tử, Học bạ điện
tử của học sinh để giáo viên
cập nhật;
+ Khai thác, chia sẽ nguồn
thông tin trên mạng Internet,
hướng đẫn sử dụng thư điện tử
Email.

4

Tổ chức tổng kết, đánh giá, rút
kinh nghiệm.


01/07/09

01/07/09

Ban Giám
hiệu, Ban
CNTT,
các Tổ
chuyên
môn, đội
ngũ giáo
viên

VI. KIẾN NGHỊ
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

16


Tiểu luận cuối khóa
1.

Kiến nghị, đề xuất thực hiện tốt phương án:

- Giáo viên cần mạnh dạn, không ngại khó, tự thiết kế và sử dụng bài giảng
điện tử của mình sẽ giúp cho giáo viên rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp
tốt các phương pháp dạy học tích cực khác;
- Khi thiết kế Bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Video,
hình ảnh, bản đồ, …), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay
vào soạn giảng. Nếu sử dụng MS PowerPiont làm công cụ chính cần lưu ý về Font

chữ, màu chữ (Xanh(đen)- trắng, vàng/đỏ) và hiệu ứng thích hợp (hiệu ứng đơn
giản, nhẹ nhàng tránh gây mất tập trung vào nội dung bài giảng);
- Nội dung bài giảng điện tử cần cô động, xúc tích, hình ảnh, các mô phỏng
cần xác chủ đề (trong 1 slide không nên có nhiều hình hay nhiều chữ), những nội
dung học sinh ghi bài cần có qui ước (có thể dùng khung hay màu nền) sẽ khắc
phục được việc ghi bài khó khăn của học sinh; Nội dung bài giảng chứa nhiều liên
kết nhất là liên kết đến hệ thống câu hỏi để khắc phục những tình huống sư phạm
phát sinh (như nhắc lại kiến thức, dàn bài, hết giờ, … các liên kết nầy có thể đặt
trong slide chủ), cần khai thác thế mạnh của CNTT trong kiểm tra đánh giá và kiểm
chứng kết quả. (Cũng cố bài cần hướng đến các câu hỏi mang tính vận dụng hay
các hình thức trắc nghiệm);
- Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá
trình dạy học và sự phát triển của học sinh, công nghệ mô phỏng nếu không phản
ánh đúng nội dung, giá trị nghệ thuật và thực tế thì không nên sử dụng, Chuẩn kiến
thức ở mức độ vận dụng cần kết hợp bảng và sử dụng các phương pháp dạy học
khác mới có hiệu quả;
- Giáo viên cần học, tập huấn các lớp soạn, giảng bài giảng điện tử, thường
xuyên truy vào các trang web và thành viên của diễn đàn: bachkim.vn,
dayhocintel.org, giaovien.net, moet.edu.vn, … mỗi trường cần có câu lạc bộ “Giáo
án điện tử” để trao đổi và rút kinh nghiệm, tiếp thu những công nghệ mới trao đổi
những các làm hay.
2.

Kiến nghị chung:

- Sở GD&ĐT cần có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các trường triển khai ứng
dụng CNTT trong quản lí, trong dạy học (Triển khai từ đâu và triển khai như thế
nào?) chi tiết hơn. Mỗi năm cần tổ chức hội thi “Giáo viên sử dụng công nghệ
Giỏi” hay giải “ Bàn phím vàng”, …để kích thích lòng đam mê sáng tạo phục vụ
cho sự nghiệp giáo dục.

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

17


Tiểu luận cuối khóa
- Trang bị thêm Phòng đa năng và đầu tư đồng bộ như: máy chiếu, máy quay,
máy chụp, nối mạng, …và hướng dẫn sử dụng, (vị trí đặt máy chiếu, đèn chiếu, độ
sáng cũng cần xem xét) , dự phòng kinh phí cho sửa chữa nâng cấp phần cứng,
phần mềm giáo dục, có phụ cấp cho cán bộ phụ trách phòng này để khắc phục sự
cố và bảo quản sử dụng lâu dài;
- Các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục sớm đưa ra tiêu chí đánh giá tiết
dạy có sử dụng công nghệ thông tin, chuẩn bài giảng điện tử để có cơ sở thẩm định,
tạo ra ngân hàng bài giảng điện tử có chất lượng.
- Sở Giáo dục cần có Máy chủ Web (WebServer) để triển khai các văn bản, tạo
kho tư liệu giáo dục, hơn thế nữa là cấp tên miền cho các đơn vị trực thuộc (host
Domian name) để giảm chi phí và quản lý dữ liệu tập trung.
- Đối với SV sư phạm, cần đào tạo ngay những kỹ năng CNTT trong nhà
trường song song với đào tạo kỹ năng sư phạm và chuyên môn nghiệp vụ

KẾT LUẬN

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

18


Tiểu luận cuối khóa
Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt tử để nâng cao chất
lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách

giáo dục ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều
điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để
đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong dạy học trong thời
gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn, là nhà nước tăng dần mức đầu tư để
không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học;
đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông để mọi trường
học đều có thể kết nối vào mạng Internet.
Bên cạnh đó, có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản
mang tính pháp quy để các trường có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu tư
cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy
học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội
thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương
pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến
tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng
có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng
loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công
nghệ thông tin và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với máy tính,
với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán qua mang, dạy học qua cầu
truyền hình. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học
sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học
sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm
nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú
trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển
từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ
dàng hơn.
Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của giáo viên
tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính điện tử mà

việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm
được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần
“bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với
những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi
học sinh. Thông qua bài giảng điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các
Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

19


Tiểu luận cuối khóa
câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học.
Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của công nghệ thông tin và truyền thông
đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy
và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi
trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc,
trò chép” như kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để
chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của
bản thân mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

20


Tiểu luận cuối khóa

- Chỉ thị 58-CT/UW ngày 07/10/2001 của Bộ Chính Trị về việc đẩy mạnh ứng
dụng CNTT phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đất nước;
- Chỉ thị số 47/2008/CT-BGDĐT ngày 13/8/2008 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008-2009;
- Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 về tăng cường giảng dạy,
đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT;
- Công văn số 9772/BGDĐT-CNTT ngày 20/10/2008 của Bộ GD&ĐT hướng
dẫn việc triển khai nhiệm vụ CNTT năm học 2008-2009.

Học viên: Phạm Hồng Việt - Lớp TC LLCT TC Ngành Giáo dục Khóa II

21



×