Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Luận Văn thạc sỹ tài chính ngân hàng: thực trạng và giải pháp quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 112 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Tài chính và Ngân hàng
Mã số :

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Đức Sơn

HÀ NỘI – 2013


Chƣơng 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ

1.1. Nhƣng nội dung lý luận cơ bản về Thuế
1.1.1. Khái niệm về Thuế
Trên giác độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình
thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho
việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước.


Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước
sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu
vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm
của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của
thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh
tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế
phải nêu bật được các khía cạnh sau đây:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà
nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách
quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc
do quyền lực của Nhà nước chi phối;
- Các các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế
đã được pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chi tiêu công.
Dựa vào các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra khái niệm tổng quát về thuế phù
hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ bắt

5


buộc phải thực hiện theo luật định của Nhà nước; không mang tính chất đối khoản,
không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho các nhu cầu
chi tiêu công cộng.
1.1.2. Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu
trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng
để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy

nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, tiền phạt, giá cả.v.v. Điều
này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản của thuế trong kinh tế thị trường như sau:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1.2.1. Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc,
thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế bằng
hiện vật đã tồn tại từ thời xa xưa hoặc khác với chế độ giao nộp sản phẩm trong nền
kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là sự khác biệt cơ bản
và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế trong các nền kinh tế khác.
Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá bằng tiền đã làm cho thuế phát
triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản thuế bằng tiền đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng cách đòi hỏi người nộp thuế trong
trường hợp không có tiền phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để
thanh toán nợ thuế.
Tuy nhiên, hình thức trả thuế bằng hiện vật cũng không hoàn toàn mất đi
trong hệ thống chính sách thuế đương đại. Một số quốc gia vẫn duy trì hình thức
này dưới dạng thanh toán thuế bằng tặng vật với một số hiện vật qúy, như khi đào
được cổ vật phải nộp thuế cho nhà nước với một tỷ lệ hiện vật tùy theo quy định cụ
thể. Kỹ thuật này giúp Nhà nước sưu tập được những di sản quốc gia quý giá từ dân
chúng để bảo tồn tập trung những giá trị văn hoá của dân tộc, nhân loại.
1.1.2.2. Luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản
của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia. Việc

6


ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có một cơ

quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao.
Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể thực hiện
thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được
xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành. Ở
các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân sách nhà
nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy
định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm
được ghi nhận trong pháp luật của các nước.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối nộp thuế, cũng không
có quyền tự ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà chỉ có quyền chấp
hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế nào cố tình không chấp hành sẽ bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật để buộc họ phải
làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo luật định.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình
thức động viên tài chính khác cho ngân sách nhà nước.
1.1.2.3. Luôn gắn liền với thu nhập
Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện thu
thuế thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân,
mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao
bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những
quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Thuế, cho dù dưới bất kỳ hình thức nào đều
buộc người trả thuế phải lấy một khoản thu nhập của mình ra thanh toán cho Nhà
nước mà không cần biết mình đã chuẩn bị được khoản thu nhập đó hay chưa.
Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính tự
nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng đối
với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.2.4. Không hoàn trả trực tiếp và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng

Tính chất không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trên các khía cạnh:

7


Thứ nhất, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối
giá. Về mặt pháp lý, thuế không là giá cả của dịch vụ cung cấp. Vì vậy, người nộp
thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách viện cớ là Nhà
nước sử dụng tiền thuế không có hiệu quả. Họ cũng không thể đòi hỏi số tiền thuế
do họ nộp phải phân bổ cho dịch vụ công này hay hoạt động khác. Mặt khác, họ
cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do số thuế thu được tài trợ cho các khoản chi
tiêu trái với những nguyên tắc của nó.
Thứ hai, Các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được dùng phục vụ
trực tiếp cho người nộp thuế. nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa
hưởng những dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp
thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực
tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần
các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần
giá trị mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản
thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế
với các khoản phí, lệ phí và giá cả.
Khái niệm chi tiêu công cộng ngày nay không chỉ được hiểu theo nghĩa bó
hẹp trong các khoản chi tiêu cho việc duy trì bộ máy nhà nước. Trên thực tế, Nhà
nước hiện nay còn thực hiện nhiều chức năng kinh tế, xã hội, văn hoá... và tất yếu
các hoạt động này cũng chỉ được chi trả bằng thuế.
1.1.3. Vai trò của Thuế

Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với NSNN và đời
sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung
được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước
và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua
việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ
quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể,

8


các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các
chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố
quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự
thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế
được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1.3.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách hình
thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công cộng, đó là
ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được tập hợp từ nhiều nguồn thu khác
nhau, nhằm đảm bảo yêu cầu chi tiêu chung cho nhu cầu công cộng. Trong tất cả
các nguồn, thông thường số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số thu
ngân sách nhà nước. Đây là nguồn thu ổn định nhất được kế hoạch hoá tốt trên cơ

sở dự báo kế hoạch và tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước trong một năm.
Hầu như mọi khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước đều dựa vào sự đóng thuế của
người dân. Vì vậy, xã hội có trách nhiệm phải tôn trọng người nộp thuế, những
người thông qua hành vi của mình đóng góp tài chính cho Nhà nước một cách trực
tiếp và gián tiếp.
1.1.3.2. Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch
lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày
càng có xu hướng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của
sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp
nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ
thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân

9


cư và gây ra bất ổn xã hội. Chính vì vây, Nhà nước cần phải can thiệp vào quá trình
phân phối thu nhập, của cải của xã hội. Thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử
dụng để tác động trực tiếp vào quá trình này.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện thông qua
các loại thuế gián thu và thuế trực thu, mà đặc biệt là hình thức thuế tiêu thụ đặc
biệt. Loại thuế này có đối tượng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu
dùng cao cấp, đắt tiền. Các hàng hoá, dịch vụ này thông thường chỉ có những người
có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng nhiều, qua đó điều
tiết bớt một phần thu nhập của họ.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng thuế

suất luỹ tiến là loại thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo
công bằng xã hội.

Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục

10


1.1.3.3. Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất,
kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện trong quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế
trong thực tế. Để đảm bảo thu được thuế và thực hiện đúng các quy định của các
luật thuế đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện
pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và
lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh cũng như các định mức chi
tiêu đặc thù và các phương thức hạch toán riêng có. Từ công tác thu thuế mà cơ
quan thuế sẽ phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

biện pháp tháo gỡ. Đồng thời, cũng qua công tác thu thuế, cơ quan thuế cập nhật
được nhiều kiến thức quản lý kinh tế để phục vụ tốt hơn cho việc kiểm tra, kiểm
soát sau này. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra,
kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt
quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.3.4. Thuế góp phần thúc đẩy điều tiết sản xuất, kinh doanh phát triển
Thuế trong cơ chế thị trường không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước, mà còn là một công cụ làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh phát triển. Theo quan điểm công bằng, bất kỳ một tổ chức, cá nhân khi
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế của mình với đất nước, họ được quyền thụ

hưởng và cung ứng những lợi ích công cộng nhất định và được tạo thuận lợi nhất
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, phụ thuộc vào chủ
trương kinh tế đất nước, mà nhà nước có thể dùng thuế để tác động, tạo thuận lợi
hơn cho hoạt động kinh doanh ở một số ngành, vùng để khuyến khích sản xuất, kinh
doanh phát triển nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý hơn.
1.1.4. Các loại thuế hiện hành tại Việt Nam
Hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn 2011 - 2020 bao gồm các sắc thuế,
phí và lệ phí chủ yếu sau đây:
(1) Thuế giá trị gia tăng;
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt;

11


(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp;
(5) Thuế thu nhập cá nhân;
(6) Thuế tài nguyên;
(7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
(8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
(9) Thuế bảo vệmôi trường;
(10) Các khoản phí và lệ phí.
Chuyển thuế môn bài thành một khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

doanh hàng năm; hoàn thiện các chế độ, chính sách thu ngân sách nhà nước từ tài
nguyên, khoáng sản quốc gia như: thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu đấu
giá quyền khai thác khoáng sản và thu từ dầu khí
1.2. Tổng quan về quản lý nợ thuế

1.2.1. Khái niệm nợ thuế và nguyên nhân nợ thuế
1.2.1.1. Khái niệm nợ thuế và đặc điểm của nợ thuế
Tiền thuế nợ là các khoản tiền thuế, phí, lệ phí, phạt chậm nộp và các khoản
phải nộp khác theo quy định của pháp luật về thuế mà người nộp thuế đã kê khai, cơ
quan thuế đã tính; các cơ quan chức năng phát hiện và thông báo cho cơ quan thuế,
cơ quan thuế xác định đây là nghĩa vụ của người nộp thuế và đã thông báo cho
người nộp thuế nhưng đã hết thời hạn quy định mà chưa nộp vào NSNN. Ví dụ như,
theo Luật Quản lý thuế ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2007 thì thời hạn
nộp đối với thuế Giá trị gia tăng là ngày 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh
nghĩa vụ thuế; thuế Thu nhập doanh nghiệp tạm nộp quí là ngày 30 của tháng tiếp
theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế... sau thời hạn nộp này, nếu người nộp thuế chưa
nộp thuế vào ngân sách nhà nước thì được coi là nợ thuế.
Ngƣời nợ thuế là người nộp thuế có khoản tiền thuế nợ theo quy định.
Khoản nợ là số tiền thuế nợ được xác định theo từng lần phát sinh. Chẳng
hạn như tại một thời điểm, một người nộp thuế nợ 1 tỷ đồng tiền thuế thì cơ quan
thuế có trách nhiệm xem xét số thuế nợp đó là nợ của những lần phát sinh nào, loại

12


thuế nào? Chẳng hạn như nợ 2 khoản thuế GTGT, nợ 3 khoản thuế TNDN (tạm nộp
các quý). Trên cơ sở đó, cơ quan thuế áp dụng các biện pháp thu nợ hiệu quả đảm
bảo thu đúng, thu đủ tiền thuế nợ vào ngân sách nhà nước sau khi áp dụng các biện
pháp đó.
Thực tế trong công tác quản lý thuế của cơ quan thuế hiện nay, mỗi một
khoản nợ thường sẽ có các nguồn gốc phát sinh khác nhau, có những khoản nợ do
người nộp thuế tự kê khai, người nộp thuế chậm nộp, hoặc cũng có những khoản nợ
do cơ quan có thẩm quyền ấn định, bị phạt, truy thu hoặc các khoản nợ thuế có
nguồn gốc phát sinh từ các dự án vay vốn hợp tác với nước ngoài, viện trợ không
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ

NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

hoàn lại... Phục vụ công tác quản lý thuế, nhằm đảm bảo quản lý đúng các khoản
thuế phát sinh thì Bộ Tài chính cũng đã ban hành danh mục mục lục ngân sách nhà
nước để người nộp thuế tự kê khai nộp thuế. Trên cơ sở đó, cơ quan thuế có thể
quản lý đúng, đủ các khoản thuế phát sinh một cách thuận lợi.
Tiền phạt chậm nộp thuế là khoản tiền phạt được tính trên số tiền thuế nợ
và số ngày nợ thuế của một khoản nợ.
Số ngày nợ thuế của một khoản thuế nợ là khoảng thời gian liên tục tính
theo ngày, kể từ thời điểm bắt đầu tính nợ đến thời điểm số tiền nợ đó được nộp vào
ngân sách nhà nước, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ theo Bộ Luật Lao động.
Thời điểm bắt đầu tính nợ đối với một khoản thuế nợ là ngày tiếp theo
ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Thời điểm kết thúc tính nợ đối với một khoản thuế nợ là ngày khoản nợ
được nộp vào ngân sách nhà nước; hoặc ngày có hiệu lực thi hành của văn bản xoá
nợ, miễn nộp hoặc xử lý bằng các hình thức khác.
1.2.1.2. Đặc điểm của nợ thuế
Thứ nhất, nợ thuế là một hành vi tâm lý phổ biến
Thuế là một hành vi phân phối thu nhập có tính chất bắt buộc mà người có
nghĩa vụ phải nộp cho Nhà nước. Rõ ràng, việc nộp thuế luôn ảnh hưởng đến lợi ích
kinh tế của NNT. Vì thế tâm lý trốn thuế, tránh thuế là tâm lý phổ biến của NNT. Đặc
biệt ở nước ta khi mà nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa
hiểu rõ bản chất và lợi ích của thuế, chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi gian

13


lận tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho CQT để thu thuế. Tình trạng trốn thuế, gian lận
về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm thất thu cho NSNN, vừa không bảo
đảm công bằng xã hội. Hay nói cách khác, họ tìm mọi cách để tối thiểu hóa số thuế

phải nộp. Một trong những cách đó là nợ thuế. Vì thế, để hạn chế nợ thuế, bên cạnh
những biện pháp có tính chất pháp luật để cưỡng chế NNT tuân thủ thì vấn đề tuyên
truyền, phổ biến để NNT tự giác thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ hai, nợ thuế là hành vi vi phạm pháp luật về thuế
Quy phạm pháp luật về thuế bao gồm các qui phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

vào NSNN. Qui phạm pháp luật thuế là các qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung do
Nhà nước đặt ra và đảm bảo thực hiện có điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN.
Trong các qui định của pháp luật về thuế luôn luôn đề cập đến các phạm vi
điều chỉnh như: mức nộp thuế, ĐTNT, NNT và thời gian phải nộp thuế.
Như vậy, nợ thuế là hành vi vi phạm luật thuế của ĐTNT bằng cách chậm nộp
hoặc không nộp số tiền thuế phải nộp vào NSNN theo qui định của pháp luật thuế.
Trong luật quản lý thuế qui định mức xử phạt vi phạm về hành vi chậm nộp
tiền thuế, tiền phạt là 0,05%/ ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đó.
Thứ ba, nợ thuế chƣa hẳn là hành vi trốn thuế
Hành vi trốn thuế bao gồm: chậm nộp tiền thuế và không nộp tiền thuế.
Trốn thuế: là hành vi cố ý vi phạm luật thuế của ĐTNT bằng mọi hình thức,
thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp cho NN.
Nợ thuế có thể do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan. Về chủ
quan, do NNT cố tình vi phạm nhằm chậm nộp tiền thuế vào NSNN để lợi dụng
hoặc trốn thuế. Như vậy, trong trường hợp này, nợ thuế là hành vi vi phạm pháp
luật, phát sinh do ĐTNT không tự giác kê khai, nộp thuế đúng hạn và cố tình vi
phạm pháp luật. Về khách quan, do có khó khăn về SXKD hoặc thu nhập chẳng hạn
như: khủng hoảng kinh tế, lạm phát… mà NNT tạm thời không có khả năng để
thanh toán nghĩa vụ cho NSNN.


14


Thứ tƣ, nợ thuế khác với hành vi tránh thuế
Tránh thuế là hành vi lợi dụng những sơ hở của pháp luật đề giảm được 1
phần nghĩa vụ thuế phải nộp. Ví dụ: doanh nghiệp kê khai chi phí thuê bản quyền
sáng chế, nhãn mác cao hơn giá trị thị trường của nó để tăng chi phí đầu vào, hạ
thấp TNCT.
Còn nợ thuế thì hoàn toàn khác về bản chất. Đó là một nghĩa vụ đã được luật
pháp xác định nhưng cố tình hoặc dây dưa nộp chậm.
1.2.2. Nguyên nhân nợ thuế và những tác động của nợ thuế
1.2.2.1. Nguyên nhân nợ thuế
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Nợ thuế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể khái quát
một số nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
Nhóm nguyên nhân khách quan:
Khủng hoảng tài chính, lạm phát, giá cả tăng cao, chính sách quản lý của
Nhà nước thay đổi...
Ví dụ như những năm gần đây do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên
nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn, không có tiền nộp thuế. Riêng doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, dù đã hoàn thành công trình nhưng
không được giải ngân kịp thời dẫn đến nợ thuế. Mặt khác, ngân hàng đang siết chặt
việc cho vay khiến không ít doanh nghiệp không tiếp cận được vốn để phục hồi sản
xuất kinh doanh. Hoặc về chính sách thuế hiện nay đang áp dụng tỷ lệ tính phạt
chậm nộp 0,05%/ngày và 0,07%/ngày, tỷ lệ này thấp hơn lãi suất ngân hàng nên
doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận nộp phạt để chiếm dụng tiền thuế…
Nhóm nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, đại bộ phận người dân chưa phê phán và lên án mạnh mẽ các hành
vi gian lận tiền thuế, chưa hỗ trợ, phối hợp với CQT để thu thuế vào NSNN. Do đó,
tình trạng trốn thuế, gian lận thuế, chiếm dụng tiền thuế của NSNN còn xảy ra phổ
biến, vừa làm thất thu NSNN, vừa không đảm bảo công bằng giữa các ĐTNT.
Thứ hai, do ý thức chấp hành luật thuế của một bộ phận NNT còn hạn chế,
chưa tự giác nộp thuế, cố tình dây dưa, trây ỳ, chiếm dụng tiền thuế của NSNN để
thực hiện những mục đích khác.

15


Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục

Thứ ba, Do một số doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, sản xuất kinh
doanh thua lỗ nhiều năm nên không có nguồn lực để nộp thuế, dẫn đến nợ thuế kéo
dài nhiều năm.
Thứ tư, NNT từ trước đã quen với việc đôn đốc, ra thông báo nộp thuế của
CQT. Vì vậy nhiều ĐTNT chưa hình thành thói quen tự giác nộp thuế vào NSNN
khi chuyển sang cơ chế tự khai, tự nộp.
1.2.2.2. Những tác động của nợ thuế
Nợ thuế không những có tác động nghiêm trọng với công tác quản lý thuế
mà còn có tác động nghiêm trọng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Những
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

tác động đó có thể khái quát trên một số mặt sau:
Thứ nhất, Nợ thuế gây thất thu cho NSNN. Thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN. Yêu cầu đối với quản lý thuế là phải thu đúng, thu đủ và thu kịp thời số thuế
phải nộp vào NSNN để Nhà nước có đủ nguồn lực tài chính thực hiện các nhiệm vụ
về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu nguồn tài chính không đủ hoặc không kịp thời thì

các nhiệm vụ chi tiêu của Chính phủ sẽ không thực hiện đúng tiến độ, các cân đối
kinh tế bị phá vỡ, các nhiệm vụ về an sinh, xã hội không được thực hiện làm cho
kinh tế suy thoái hoặc kém hiệu quả.
Thứ hai, nợ thuế gây mất công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các ĐTNT và tạo
môi trường kinh doanh không bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân đang kinh doanh
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
Thứ ba, nợ thuế tạo ra chi phí không cần thiết đối với xã hội liên quan đến công
tác quản lý thuế, gây mất thời gian, công sức, tiền của cho việc quản lý nợ thuế.
1.2.3. Phân loại nợ thuế
1.2.3.1. Khái niệm phân loại nợ thuế
Cùng với tốc độ phát triển không ngừng của nền kinh tế, các doanh nghiệp
cũng ngày càng gia tăng về số lượng và phát triển về mặt qui mô. Kéo theo đó là sự
gia tăng số thu Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, cùng với đó thì sự phức tạp trong
công tác quản lý thuế cũng ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, đồng thời với việc
kiện toàn bộ máy quản lý thuế để phù hợp với nền kinh tế thì cơ quan thuế cũng cần

16


thiết phải nhanh chóng áp dụng khoa học quản lý, công nghệ tin học hiện đại vào
quản lý thuế nói chung và quản lý nợ thuế nói riêng.
Hiệu quả của công tác quản lý thuế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác
nhau. Trong đó, một phần không nhỏ là từ hiệu quả của công tác phân loại nợ thuế.
Phân loại nợ thuế là việc sắp xếp nợ thuế thành những nhóm khác nhau theo những
tiêu thức nhất định. Việc phân loại nợ thuế giúp cơ quan thuế xác định được nguyên
nhân nợ, tình trạng, tuổi nợ của từng khoản nợ thuế, qua đó có thể áp dụng các biện
pháp quản lý thu nợ thuế có hiệu quả. Phân loại nợ thuế sẽ giúp cơ quan thuế đưa ra
các biện pháp quản lý, đôn đốc thu nợ; đồng thời, tạo thuận lợi cho công tác tổng
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


hợp số liệu báo cáo, khắc phục được sự không rõ ràng, không thống nhất trong công
tác quản lý nợ.
1.2.3.2. Tiêu chí phân loại nợ thuế
Theo Qui trình quản lý nợ thuế ban hành kèm theo Quyết định số: 1395/QĐTCT ngày 14 tháng 10 năm 2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, tiền thuế nợ
được chia thành 5 nhóm. Cụ thể:
Nhóm tiền thuế nợ khó thu: Nhóm nợ khó thu bao gồm các trường hợp sau:
* Tiền thuế nợ của người nộp thuế được pháp luật coi là đã chết, mất tích,
mất năng lực hành vi dân sự chưa có hồ sơ đề nghị xoá nợ.
* Tiền thuế nợ có liên quan đến trách nhiệm hình sự: là số tiền thuế nợ của
người nộp thuế đang trong giai đoạn bị điều tra, khởi tố hình sự, đang chờ bản án
hoặc kết luận của cơ quan pháp luật, chưa thực hiện được nghĩa vụ nộp thuế.
* Tiền thuế nợ của người nộp thuế không còn hoạt động sản xuất kinh doanh
tại địa điểm đăng ký kinh doanh hoặc có văn bản gửi đến cơ quan thuế đề nghị
chấm dứt hoạt động kinh doanh nhưng chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; cơ quan
thuế đã kiểm tra, xác định người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh. Bao
gồm cả trường hợp giải thể không theo trình tự của Luật Doanh nghiệp.
* Tiền thuế nợ của người nộp thuế đã giải thể: là số tiền thuế nợ người nộp
thuế đã thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp nhưng chưa thanh toán đầy đủ
các khoản nợ thuế theo quy định của pháp luật.

17


* Tiền thuế nợ của người nộp thuế lâm vào tình trạng phá sản: là số tiền thuế
nợ của người nợ thuế đã có quyết định phá sản doanh nghiệp hoặc đang trong thời
gian làm thủ tục phá sản doanh nghiệp nhưng chưa làm các thủ tục xử lý nợ theo
quy định của pháp luật.
* Nợ khó thu khác: là các khoản tiền thuế nợ trên 90 ngày, không thuộc các
nhóm nêu trên, cơ quan thuế đã áp dụng đến biện pháp cưỡng chế nợ thuế cuối cùng

là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt
động, giấy phép hành nghề (theo quy định tại Luật Quản lý thuế) nhưng vẫn không
thu hồi được tiền thuế nợ.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Nhóm tiền thuế nợ đến 90 ngày
Tiền thuế nợ đến 90 ngày là số tiền thuế đã quá thời hạn nộp từ 01 đến 90
ngày nhưng người nộp thuế chưa nộp vào NSNN và không thuộc nhóm tiền thuế nợ
khó thu, tiền thuế nợ chờ xử lý, tiền thuế đã nộp NSNN đang chờ điều chỉnh, tiền
thuế nợ trên 90 ngày; bao gồm cả tiền thuế nợ đang có khiếu nại, khiếu kiện.
Nhóm tiền thuế nợ trên 90 ngày
Tiền thuế nợ trên 90 ngày là số tiền thuế đã quá thời hạn nộp trên 90 ngày
nhưng người nộp thuế chưa nộp vào NSNN và không thuộc nhóm tiền thuế nợ khó
thu, tiền thuế nợ chờ xử lý, tiền thuế đã nộp NSNN đang chờ điều chỉnh, tiền thuế
nợ đến 90 ngày; bao gồm cả tiền thuế nợ đang có khiếu nại, khiếu kiện. Cơ quan
thuế thực hiện cưỡng chế nợ thuế đối với nhóm tiền thuế nợ này.
Nhóm tiền thuế nợ chờ xử lý: Nhóm tiền thuế nợ chờ xử lý bao gồm các
trường hợp sau:
* Xử lý miễn, giảm: là số tiền thuế nợ của người nộp thuế đang trong thời
gian thực hiện các thủ tục tại cơ quan thuế để được xử lý miễn, giảm theo quy định
của pháp luật về thuế.
* Xử lý gia hạn nộp thuế: là số tiền thuế nợ của người nộp thuế đang được cơ
quan thuế xử lý để gia hạn nộp thuế. Các trường hợp được gia hạn nộp thuế thực
hiện theo quy định của pháp luật về thuế.
* Xử lý xoá nợ: là số tiền thuế nợ của người nộp thuế đang trong thời gian
thực hiện các thủ tục tại cơ quan thuế để được xử lý xoá nợ theo quy định của pháp
luật về thuế.


18


* Xử lý bù trừ các khoản nợ NSNN với số tiền thuế được hoàn trả: là số tiền
thuế nợ của người nộp thuế đã gửi hồ sơ và cơ quan thuế đang làm thủ tục hoàn
thuế tại cơ quan thuế hoặc đang được cơ quan thuế thực hiện thủ tục lập Quyết định
hoàn thuế kiêm bù trừ thu NSNN.
Nhóm tiền thuế đã nộp NSNN đang chờ điều chỉnh: Nhóm tiền thuế đã
nộp NSNN đang chờ điều chỉnh là số tiền thuế đã nộp vào NSNN nhưng cơ quan
thuế đang làm thủ tục điều chỉnh, bao gồm các trường hợp sau:
* Tiền thuế chờ điều chỉnh do sai sót:
- Người nộp thuế ghi sai, ghi thiếu các chỉ tiêu trên chứng từ thu NSNN.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

- Các sai sót của KBNN, NHTM.
- Các sai sót của cơ quan thuế:
+ Nhập sai dữ liệu về số thuế phải nộp hoặc đã nộp ngân sách nhà nước.
+ Người nộp thuế kê khai thuế với cơ quan thuế nơi đóng trụ sở chính, đã
tạm nộp tại các cơ quan thuế quản lý các chi nhánh nhưng cơ quan thuế nơi đóng trụ
sở chính chưa nhận được chứng từ nộp thuế.
* Tiền thuế chờ điều chỉnh do chứng từ luân chuyển chậm hoặc thất lạc:
chứng từ luân chuyển từ kho bạc nhà nước, ngân hàng thương mại sang cơ quan
thuế không thực hiện đúng quy định; chứng từ thất lạc, cơ quan thuế đã nhận được
sau thời gian thất lạc do người nộp thuế hoặc Kho bạc nhà nước, ngân hàng cung
cấp; chứng từ do công chức thuế hoặc ủy nhiệm thu đã thu nhưng chưa kịp thời
thực hiện các thủ tục thanh toán tiền thuế, nộp tiền vào NSNN.
* Tiền thuế chờ ghi thu - ghi chi: là số tiền thuế người nộp thuế đã kê khai và
thực hiện các thủ tục nộp NSNN nhưng đang chờ cơ quan có thẩm quyền làm thủ
tục ghi thu, ghi chi vào NSNN hoặc số tiền được cơ quan có thẩm quyền thực hiện

thủ tục ghi thu - ghi chi, theo định kỳ (tháng, quý, năm).
1.2.4. Tổng quan về quản lý nợ thuế
1.2.4.1. Khái niệm quản lý nợ thuế
Khái niệm quản lý nợ thuế là việc áp dụng các biện pháp và mô hình tổ chức
quản lý của cơ quan thuế nhằm phân loại nợ thuế, đánh giá thực trạng nợ, tổ chức

19


công tác thu nợ tại cơ quan thuế các cấp, để từ đó đưa ra các hình thức thu nợ thuế
phù hợp nhằm thu đúng, thu đủ, tiết kiệm chi phí quản lý, phù hợp với từng đối
tượng, theo từng thời kỳ và theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước
thời kỳ đó.
Thông thường, khi chuẩn bị áp dụng một biện pháp thu nợ cụ thể thì ngoài
việc phân loại các khoản nợ để thu nợ hiệu quả cơ quan thuế thường đưa ra một
mức tiền nợ khởi điểm để quản lý khoản nợ đó. Do vậy, số tiền thuế nợ của người
nộp thuế tại một thời điểm ở một ngưỡng nhất định được gọi là mức nợ. Việc chia
ra thành các mức nợ thuế khác nhau giúp cho cơ quan thuế có thể quản lý từng loại
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

nợ với từng đối tượng từ đó áp dụng các biện pháp thu nợ phù hợp đối với từng mức
nợ nhất định. Tương tự như cách phân loại mức nợ như trên, cũng với một khoản nợ
thì tuổi nợ được coi là khoảng thời gian liên tục tính từ thời điểm bắt đầu nợ phát
sinh đến thời điểm khoản nợ đó được cơ quan thuế thống kê nó. Tuổi nợ thường
được tính theo ngày, tuy nhiên việc xác định tuổi nợ sẽ không giống như qui định
của Bộ Luật lao động khi xác định số ngày chậm nộp tờ khai, chậm nộp thuế mà
tuổi nợ được tính liên tục từ khi nó phát sinh. Việc thống kê theo tuổi nợ cũng có ý
nghĩa giúp cơ quan chức năng quản lý nợ một cách khoa học và có các biện pháp
thu nợ phù hợp. Việc phân ra mức nợ, tuổi nợ như trên có ý nghĩa quan trọng đối

với biện pháp quản lý nợ của cơ quan thuế, bởi trong cùng một thời điểm, có thể
mức nợ 2 tỷ đồng chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với khả năng trả nợ của một người nộp
thuế này nhưng đối với người nộp thuế khác thì mức nợ trên là rủi ro trong thu nợ
của cơ quan thuế.
Do vậy, trong công tác quản lý nợthuế, để đảm bảo thu đúng nợ, chính xác,
kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước, đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của pháp
luật thuế thì việc phân loại nợ, kết hợp với mức nợ và tuổi nợ có ý nghĩa quan trọng
trong biện pháp quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế, nó là một
trong những yếu tố đảm bảo các biện pháp thu nợ, các biện pháp cưỡng chế của cơ
quan thuế là chính xác, kịp thời.

20


1.2.4.2. Vai trò của quản lý nợ thuế
Công tác quản lý thu nợ là một trong những chức năng có vị trí, vai trò quan
trọng trong hệ thống quản lý thuế. Quản lý nợ thuế là khâu cuối cùng trong hệ thống
quản lý thuế, nó là một chức năng chính và cơ bản của mô hình quản lý thuế được
sử dụng để quản lý hệ thống thuế. Do đó, quản lý nợ thuế đóng vai trò rất quan
trọng, được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, quản lý nợ thuế để quản lý, theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ
của đối tượng nộp thuế, đảm bảo người nộp thuế nộp các khoản thuế đầy đủ, kịp
thời vào Ngân sách Nhà nước; đảm bảo công bằng xã hội khi các cơ sở kinh doanh
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

cùng phát sinh nghĩa vụ thuế thì phải nộp vào Ngân sách Nhà nước đúng hạn.
Thứ hai, quản lý nợ thuế để đảm bảo quản lý tất cả các khoản thu của Nhà
nước, chống thất thoát Ngân sách Nhà nước, quản lý nợ sẽ đảm bảo các chính sách
thuế được thực hiện đúng và triệt để thông qua việc cơ quan thuế có các tác động,

can thiệp kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp có hành vi vi phạm về kê khai,
nộp thuế nhằm nâng cao ý thức tuân thủ của người nộp thuế.
Thứ ba, việc quản lý nợ để đảm bảo cơ quan thuế có biện pháp thu nợ phù
hợp, hiệu quả, mặt khác quản lý nợ là một thước đo để đánh giá hiệu quả của công
tác quản lý thu thuế, góp phần nâng cao hiệu quả của các chức năng khác như:
thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế.
1.2.4.3. Yêu cầu đối với công tác quản lý nợ thuế
Như đã nói ở trên, công tác phân loại nợ thuế có ý nghĩa quan trọng trong công
tác quản lý nợ thuế. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác quản lý nợ thuế không chỉ phụ
thuộc vào việc phân loại nợ mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc xác
định cụ thể mục tiêu, yêu cầu của công tác quản lý nợ là một định hướng tất yếu trong
quản lý nợ, nó chính là yếu tố tiên quyết để công tác quản lý nợ đạt hiệu quả.
Thứ nhất, trong quản lý thuế nói chung và quản lý nợ thuế nói riêng, việc quản
lý đầy đủ, không bỏ sót các khoản thu của ngân sách nhà nước là yêu cầu tất yếu của
công tác quản lý nợ. Đặt giả thiết việc quản lý nợ của cơ quan thuế không đầy đủ,
không bao quát hết các khoản phải thu của ngân sách thì sẽ dẫn tới thất thoát ngân sách
nhà nước. Mặt khác, công tác cưỡng chế sẽ không thực hiện được, hoặc thực hiện sẽ

21


không chính xác, đôi khi việc cưỡng chế của cơ quan thuế đối với các khoản nợ ảo do
quản lý không tốt còn mang lại tác dụng ngược khi gặp phản ứng từ phía người nộp
thuế. Chính vì vậy, việc đảm bảo quản lý đầy đủ, chính xác các khoản nợ thuế của ngân
sách nhà nước là yêu cầu quan trọng trong công tác quản lý nợ thuế.
Thứ hai, phải đảm bảo quản lý chính xác các khoản nợ để cơ quan thuế có
các biện pháp quản lý phù hợp. Bên cạnh việc phân loại nợ theo các tiêu thức tại
phần trên, việc phân loại phải được nghiên cứu một cách khoa học, các tiêu thức
phân loại phải được kết hợp với nhau một cách hợp lý, để cơ quan quản lý đánh giá,
xem xét đưa ra các biện pháp thu nợ phù hợp với từng ngành nghề, lĩnh vực, trong

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

từng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ ba, phải đảm bảo thu nợ kịp thời, tránh thất thu ngân sách nhà nước. Yêu
cầu này cũng chính là định hướng nghiên cứu xuyên suốt đề tài, đó cũng chính là yêu
cầu cần được các nhà quản lý thuế nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể trong quá
trình quản lý thuế nhằm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà
nước, góp phần phát triển đất nước tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
1.2.5. Nội dung quy trình quản lý nợ
Tổng cục thuế đã ban hành qui trình quản lý nợ kèm theo quyết định 1395
ngày 14 tháng 10 năm 2011 qui định những nội dung cụ thể trong công tác quản lý
nợ. Cụ thể:
1.2.5.1. Lập chương trình, chỉ tiêu, biện pháp thực hiện quản lý thu nợ năm
 Xây dựng chương trình, chỉ tiêu, biện pháp thực hiện quản lý thu nợ năm
Vụ quản lý nợ của Tổng cục thuế căn cứ vào tình hình, kết quả quản lý nợ
của năm thực hiện, xây dựng chương trình, chỉ tiêu, biện pháp quản lý thu nợ thuế
năm sau của toàn ngành. Cục thuế căn cứ vào chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục thuế
và tình hình thực tế quản lý nợ thuế ở địa phương để xây dựng chương trình, chỉ
tiêu, biện pháp quản lý thu nợ. Chi cục thuế căn cứ vào chỉ đạo, hướng dẫn của Cục
thuế để xây dựng chương trình, chỉ tiêu, biện pháp quản lý nợ thuế năm sau của
CCT.

22


 Điều chỉnh chương trình, chỉ tiêu, biện pháp thu nợ năm thực hiện
Trong quá trình thực hiện chương trình, chỉ tiêu, biện pháp thu nợ năm, Cục
thuế có thể điều chỉnh nếu phát sinh những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến việc
thực hiện chương trình, chỉ tiêu, biện pháp thu nợ năm. Cục thuế phải gửi văn bản

điều chỉnh, trong đó nêu rõ nội dung cần điều chỉnh, lý do điều chỉnh gửi Tổng cục
thuế. Thời gian điều chỉnh là trước ngày 30/09 năm thực hiện.
1.2.5.2. Đôn đốc thu và xử lý tiền thuế nợ
 Phân công quản lý nợ thuế
Hàng tháng, trước ngày khoá sổ thuế một (01) ngày làm việc, trưởng phòng,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

đội trưởng đội quản lý nợ có trách nhiệm: Phân công quản lý nợ thuế cho công chức
quản lý nợ hoặc công chức tham gia quản lý nợ.
 Phân loại tiền thuế nợ
Căn cứ vào tiêu thức phân loại nợ thuế, công chức quản lý nợ thực hiện rà
soát từng trường hợp nợ của người nợ thuế còn nợ tháng trước chuyển sang và nợ
mới phát sinh theo nguyên nhân, tình trạng, tuổi nợ để phân loại các khoản nợ.
Hồ sơ để phân loại nợ đối với từng khoản nợ, nhóm nợ căn cứ vào quy định
của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn (chi tiết tại mục II, Phụ lục số 02
ban hành kèm theo quy trình).
 Lập nhật ký và sổ tổng hợp theo dõi tiền thuế nợ
Ngay sau ngày làm việc kế tiếp ngày hoàn thành việc phân loại nợ thuế, công
chức quản lý nợ và công chức quản lý nợ thực hiện: lập nhật ký theo dõi tiền thuế nợ
đối với từng người nộp thuế theo mẫu số 08/QLN (ban hành kèm theo quy trình).
Nhật ký theo dõi tiền thuế nợ được lập riêng cho từng người nộp thuế để theo
dõi từng khoản tiền thuế nợ.
 Thực hiện đôn đốc thu nộp
Căn cứ vào nhật ký theo dõi tiền thuế nợ, việc đối chiếu số liệu thực hiện
như sau:
* Đối với khoản nợ từ 01 đến 30 ngày, kể từ ngày hết hạn nộp thuế, công
chức quản lý nợ và công chức tham gia thực hiện quy trình thực hiện đôn đốc thu

23



nộp bằng hình thức gọi điện thoại, nhắn tin, gửi thư điện tử cho người nộp thuế
hoặc người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế;
* Đối với khoản nợ từ ngày thứ 31 trở lên, kể từ ngày hết hạn nộp thuế, công
chức quản lý nợ và công chức tham gia thực hiện quy trình thực hiện:
- Lập thông báo tiền thuế nợ và tiền phạt chậm nộp theo mẫu số 07/QLN
(ban hành kèm theo quy trình); các khoản nợ thuế của người nộp thuế tại thông báo
07/QLN bao gồm cả khoản nợ mới phát sinh từ 01 ngày trở lên.
- Trình lãnh đạo cơ quan thuế phê duyệt. Tại Cục Thuế, Thông báo 07/QLN
có thể ủy quyền cho trưởng phòng quản lý nợ hoặc trưởng phòng tham gia thực hiện
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

quy trình ký.
- Sau khi lãnh đạo cơ quan thuế phê duyệt, thông báo được lập thành các
bản: 01 bản gửi cho người nộp thuế, 01 bản lưu tại hồ sơ quản lý người nộp thuế, 01
bản gửi phòng, đội kê khai và kế toán thuế, 01 bản lưu văn thư và các phòng, đội có
liên quan theo hướng dẫn tại mục III, Phụ lục số 02 ban hành kèm theo quy trình.
- Sau khi phát hành Thông báo số 07/QLN, nếu phát hiện có sai sót, phòng, đội
quản lý nợ hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình phải ban hành lại Thông báo
07/QLN, trong đó nêu rõ thông báo này thay thế cho thông báo đã ban hành.
- Sau khi phát hành Thông báo 07/QLN mười (10) ngày làm việc, nếu người
nộp thuế chưa nộp tiền thuế nợ vào ngân sách nhà nước thì phòng, đội quản lý nợ;
phòng, đội tham gia thực hiện quy trình thực hiện các công việc sau:
+ Mời người nộp thuế hoặc người đại diện pháp luật của người nộp thuế đến
làm việc tại trụ sở cơ quan thuế hoặc làm việc trực tiếp tại trụ sở của người nộp thuế.
Giấy mời do lãnh đạo cơ quan thuế ký hoặc có thể ủy quyền cho trưởng phòng quản lý
nợ hoặc trưởng phòng tham gia thực hiện quy trình ký theo mẫu số 03/QLN;
+ Trường hợp sau thời hạn mời làm việc một (01) ngày mà người nộp thuế

không đến cơ quan thuế hoặc đã đến nhưng không giải trình đầy đủ hoặc không bổ
sung thông tin, tài liệu thì tổ chức làm việc trực tiếp tại trụ sở của người nộp thuế;
khi đến làm việc phải có giấy giới thiệu của Cục Thuế hoặc Chi cục Thuế;
+ Đối với người nộp thuế nộp thuế qua ủy nhiệm thu thì đội thuế xã, phường

24


trình lãnh đạo Chi cục Thuế mời đại diện đơn vị được ủy nhiệm thu và người nộp
thuế đến làm việc tại trụ sở cơ quan thuế để nắm thông tin về tình hình sản xuất
kinh doanh, tình hình tài chính và các nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm nộp
tiền thuế.
Sau khi làm việc, lập biên bản ghi nhận kết quả, đồng thời, tại biên bản phải
yêu cầu người nộp thuế cam kết thực hiện nộp thuế trong thời hạn 90 ngày kể từ
ngày hết hạn nộp thuế.
* Đối với khoản tiền thuế nợ trên 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế;
khoản tiền thuế nợ đã quá thời hạn gia hạn nộp thuế; người nộp thuế có hành vi phát
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

tán tài sản, bỏ trốn: phòng, đội quản lý nợ lập thông báo về việc sẽ áp dụng biện
pháp cưỡng chế nợ thuế theo mẫu 09/TB-CCNT (ban hành kèm theo quy trình
cưỡng chế nợ thuế).
* Đối với nhóm tiền thuế đã nộp NSNN đang điều chỉnh không ban hành
thông báo tiền thuế nợ và tiền phạt chậm nộp.
* Hàng ngày, công chức quản lý nợ và công chức tham gia thực hiện quy
trình phải ghi chi tiết về thời gian và các bước công việc đã thực hiện vào Nhật ký
theo dõi tiền thuế nợ của từng người nộp thuế (mẫu số 08/QLN), đồng thời theo dõi
quá trình tự động lập và ghi nhật ký tại ứng dụng quản lý nợ.
 Xử lý các văn bản, hồ sơ đề nghị xóa nợ tiền thuế, gia hạn nộp thuế, hoàn

kiêm bù trừ
Xem xét gia hạn nộp thuế: Đối với trường hợp NNT thuộc diện được gia
hạn nộp thuế theo qui định của pháp luật nhưng hết thòi hạn nộp tờ khai thuế chưa
lập hồ sơ gia hạn, cơ quan thuế đã chuyển sang theo dõi nợ thuế, sau đó NNT có hồ
sơ, văn bản đề nghị gia hạn, bộ phận quản lý nợ thuế có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ
và ra văn bản chấp thuận hay không chấp thuận hồ sơ gia hạn nộp thuế của đơn vị.
Xoá nợ tiền thuế: Trong trường hợp NNT có hồ sơ xin xoá nợ tiền thuế, bộ
phận quản lý nợ thuế có trách nhiệm lập và thẩm định hồ sơ xoá nợ và trình cấp
trên xem xét hồ sơ xoá nợ tiền thuế của NNT. Thông báo cho NNT về việc chấp
nhận hay không chấp nhận hồ sơ xóa nợ tiền thuế.

25


Thu tiền thuế nợ thông qua hoàn thuế kiêm bù trừ thu NSNN: Trong
trường hợp có đề nghị của phòng, đội kê khai và kế toán thuế về việc xác nhận tiền
thuế nợ của người nộp thuế, phòng QLN & CCT thực hiện lập phiếu xác nhận tình
trạng nợ thuế; Chuyển lại phòng, đội kê khai - kế toán thuế để có cơ sở lập Quyết
định hoàn trả kiêm bù trừ thu NSNN.
 Xử lý tiền thuế đã nộp NSNN đang chờ điều chỉnh và một số nguyên nhân
gây chênh lệch tiền thuế nợ
- Tiền thuế đã nộp NSNN đang chờ điều chỉnh
+ Đối với tiền thuế đã nộp NSNN chờ điều chỉnh do sai sót:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Trường hợp người nộp thuế ghi sai các chỉ tiêu trên chứng từ nộp tiền:
Căn cứ đăng ký thuế, khai thuế và mục lục NSNN, nếu phát hiện sai sót, phòng, đội
quản lý nợ hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình lập danh sách các sai sót
gửi sang phòng, đội kê khai và kế toán thuế để thông báo cho người nộp thuế thực

hiện điều chỉnh kê khai, nộp tiền thuế vào NSNN theo đúng quy định.
Trường hợp có sai sót do KBNN, NHTM:
Phòng, đội quản lý nợ hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình đề xuất với lãnh
đạo cơ quan thuế chỉ đạo phòng, đội kê khai và kế toán thuế thực hiện:
Đề nghị KBNN, NHTM thực hiện đúng quy định khi lập chứng từ thu
NSNN hoặc chứng từ chuyển tiền thuế đã thu từ NHTM vào tài khoản thu NSNN
của KBNN phải ghi đầy đủ các thông tin về mã số thuế, mục lục ngân sách, kỳ thuế,
chi tiết theo từng khoản nộp, số và ngày Quyết định xử lý về thuế, xử phạt vi phạm
hành chính qua thanh tra (kiểm tra) việc chấp hành pháp luật thuế và ngày nộp thuế.
Yêu cầu KBNN ghi đầy đủ thông tin trên Bảng kê chứng từ nộp NSNN gửi
cơ quan thuế như tên người nộp thuế, mã số thuế, số và ngày chứng từ, mục lục
ngân sách, kỳ thuế số và ngày Quyết định xử lý về thuế ...
Đề nghị KBNN và NHTM thực hiện điều chỉnh kịp thời các khoản tiền thuế đã nộp
NSNN bị sai lệch.
Trường hợp có sai sót do cơ quan thuế:
Đối với sai sót do nhập sai dữ liệu: Nếu phát hiện sai sót, phòng, đội quản lý nợ
hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình thông báo cho phòng, đội kê khai và
kế toán thuế thực hiện điều chỉnh.

26


+ Đối với các khoản tiền thuế đã nộp nhưng chứng từ luân chuyển chậm
hoặc thất lạc, phòng, đội quản lý nợ hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình
thông báo cho phòng, đội kê khai và kế toán thuế, phòng, đội kiểm tra thuế để xác
định chứng từ nộp thuế của người nộp thuế tại KBNN, NHTM để điều chỉnh giảm
số tiền thuế nợ của người nộp thuế trên hệ thống ứng dụng quản lý thuế.
+ Đối với các khoản nộp được thực hiện bằng hình thức ghi thu - ghi chi qua
ngân sách, phòng, đội quản lý nợ hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình đề
nghị phòng, đội kê khai và kế toán thuế, kiểm tra thuế xác định thời hạn nộp ngân

sách, theo đó điều chỉnh lại thời hạn nộp thuế trên các ứng dụng quản lý thuế.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

+ Đối với các nguyên nhân từ quá trình nâng cấp ứng dụng quản lý thuế
Phòng, đội quản lý nợ hoặc phòng, đội tham gia thực hiện quy trình phối hợp với
phòng, đội kê khai và kế toán thuế phát hiện các khoản nợ chênh lệch do nguyên
nhân này, chuyển bộ phận tin học để tiến hành sửa lỗi ứng dụng kịp thời.
 Lưu trữ tài liệu về quản lý nợ
Bộ phận quản lý nợ: Lưu trữ các báo cáo của toàn cơ quan thuế như sau: Báo
cáo tổng hợp phân loại nợ thuế, Báo cáo kết quả thu nợ thuế, Báo cáo tổng hợp xoá
nợ thuế, Báo cáo công tác quản lý nợ thuế hàng tháng, Danh sách người nộp thuế sẽ
phải cưỡng chế nợ thuế trong kỳ, Báo cáo tổng hợp quyết định cưỡng chế nợ thuế,
Báo cáo tổng hợp các thông báo sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế nợ thuế.
Bộ phận tham gia thực hiện quy trình: Lưu trữ các báo cáo của bộ phận mình
như sau: Báo cáo tổng hợp phân loại nợ thuế, Báo cáo kết quả thu nợ thuế.
1.3 Mối quan hệ giữa cƣỡng chế nợ thuế và quản lý nợ thuế
1.3.1. Khái niệm cƣỡng chế nợ thuế
Cƣỡng chế nợ thuế là việc đến thời hạn qui định được ghi trong thông báo
nợ thuế hoặc trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế nhưng cá nhân
hoặc tổ chức vi phạm về thuế không tự nguyện chấp hành quyết định của cơ quan
thuế thì bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ thuế bằng các biện pháp cưỡng chế theo
pháp luật qui định, như khấu trừ vào tiền lương, thu nhập hoặc khấu trừ tiền từ tài
khoản của cá nhân, tổ chức tại ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc tổ chức tài chính
khác; hoặc cưỡng chế, tịch biên tài sản...

Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục
27



1.3.2. Đặc điểm của cƣỡng chế nợ thuế
1.3.2.1. Cưỡng chế nợ thuế là một hành vi thi hành pháp luật về thuế
Cưỡng chế nợ thuế thể hiện sức mạnh quyền lực của Nhà nước, Nhà nước
dùng biện pháp cần thiết để cưỡng chế người nợ thuế bắt buộc nộp tiền thuế nợ vào
NSNN. Bởi vì với tư cách là một thiết chế quyền lực của giai cấp thống trị xã hội,
Nhà nước có đầy đủ những ưu thế cần thiết cho việc nắm bắt, chuyển tải cũng như
sự tôn trọng, ý chí của mình trong việc tổ chức, điều hành một nền kinh tế phát triển
theo những mục tiêu, định hướng nhất định. Bằng các hình thức hoạt động của bộ
máy Nhà nước, Nhà nước tác động lên các quan hệ xã hội để đảm bảo cho các quan
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

hệ xã hội phát triển theo đúng những mục tiêu đã định, ngăn ngừa các khuynh
hướng phát triển sai lệch, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện sai trái.
1.3.2.2. Cưỡng chế nợ thuế là hành vi xuất hiện sau hành vi nợ thuế
Chỉ khi các biện pháp thu nợ đã được thực hiện nhưng người nợ thuế vẫn
chưa chịu nộp số thuế nợ vào NSNN thì khi đó CQT buộc phải dùng đến những
biện pháp cưỡng chế thuế. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế đảm bảo 100%
các khoản nợ thuế được nộp vào NSNN, góp phần chống thất thu thuế.
1.3.2.3. Thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế không chỉ liên quan đến
CQT mà còn có sự tham gia của các cơ quan thi hành pháp luật khác
Khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế đòi hỏi phải có sự phối hợp với
các cơ quan, ban, ngành chức năng có liên quan: kho bạc, Ngân hàng, công an, viện
kiểm soát… Đồng thời khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ gây tốn kém về thời
gian, chi phí và nhân lực. Chẳng hạn như cần có thời gian chuyển hồ sơ cho bên
công an hay thông báo trích, chuyển tài khoản của khách hàng…
1.3.3. Vai trò và yêu cầu của công tác cƣỡng chế nợ thuế
1.3.3.1. Vai trò của công tác cưỡng chế nợ thuế
Quản lý nợ thuế là hai mặt tác động và bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Quản lý
nợ thuế có vai trò quản lý, theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ của người nộp thuế,

theo dõi quản lý nợ để đảm bảo số nợ thuế của đối tượng nộp thuế chính xác.
Cưỡng chế nợ thuế căn cứ vào số liệu nợ từ công tác quản lý nợ để tác động vào

28


×