Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp góp phần phát triển kinh tế, xã hội các huyện miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.11 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

LUẬN VĂN TÓM TẮT
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT 
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ ­ XàHỘI 
CÁC HUYỆN MIỀN NÚI 

                                        

Học viên: 

Lai châu, 2014


PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã dành sự  quan tâm đặc biệt đối với sự  phát 
triển kinh tế  ­ xã hội của miền núi, ban hành nhiều chủ  trương, chính sách, 
chương trình, dự  án và tổ  chức triển khai thực hiện trên các lĩnh vực trong 
nhiều năm qua, đã góp phần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, làm thay đổi 
bộ mặt nông thôn miền núi, tạo cơ sở cho sự phát triển. Ngân sách nhà nước 
đầu tư khá lớn cho khu vực miền núi. Tuy nhiên, kinh tế ­ xã hội tại miền núi 
vẫn còn rất nhiều khó khăn, bất cập. 
Đối với tỉnh Lai Châu, nhiều năm qua Đảng bộ, chính quyền các cấp  
cũng rất quan tâm đến đầu tư  cho miền núi và chắc chắn trong nhiều năm 
đến sẽ có sự đầu tư lớn cho phát triển kinh tế ­ xã hội khu vực miền núi.
Một thực tiễn rất đáng quan tâm là: có nhiều chương trình, dự án triển 
khai thực hiện  ở  miền núi  với tổng số  vốn đầu tư  lớn, nhưng s au khi kết 
thúc, tính  ổn định, phát huy không được giữ  vững   hoặc hiệu quả  thấp. Do 


vậy, cần phải có sự  đánh giá khoa học, khách quan về  hiệu quả  các chương 
trình, dự  án đầu tư  cho miền núi, đánh giá việc tổ  chức thực hiện sao cho 
đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của chương trình, dự án được triển khai 
thực hiện trên địa bàn miền núi.
Tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế ­ xã hội 
ở  các huyện miền núi Lai Châu có nhiều kết quả, nhưng chuyển biến chưa  
mạnh, chưa đáp ứng mong đợi của nhân dân và yêu cầu của quản lý. Cơ chế 
chính sách cho phát triển kinh tế  ­ xã hội miền núi đã có, nhưng trong giai 
đoạn hiện nay cần tập trung nhiều hơn nữa cho miền núi, nhất là việc nghiên 
cứu, triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ­CP để  giảm nghèo nhanh 
và bền vững. Vấn đề  này cần phải có nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ 
khoa học để đề xuất một số giải pháp đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế ­ 
xã hội các huyện miền núi phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu phát  
triển miền núi trong sự phát triển chung của tỉnh.
Từ trước đến nay, hàng năm các cơ  quan nhà nước đều có các báo cáo 
đánh giá chung tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế ­  
xã hội  ở các huyện miền núi Lai Châu và đề ra nhiệm vụ thực hiện cho năm 
sau. Những báo cáo này phần nào đã phản  ảnh thực trạng và giải pháp phát 
triển kinh tế  ­ xã hội miền núi. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chưa có  
điều kiện để thực hiện dưới góc độ một đề tài khoa học.


Để đánh giá đúng thực trạng tình hình triển khai thực hiện các chương trình, 
dự án, chúng ta cần phải dựa trên các phương pháp khoa học, khách quan để xem 
xét về những vấn đề liên quan, đề xuất những giải pháp khả thi để tổ chức thực  
hiện hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế ­ xã hội khu vực miền  
núi trong thời gian đến một cách nhanh và bền vững.
Với những lý do chính yếu nêu trên nói lên sự  cần thiết để  tiến hành 
nghiên cứu đề tài này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài là:
Đánh giá thực trạng tình hình tổ chức thực hiện các chương trình, chính  
sách hỗ  trợ đầu tư  phát triển kinh tế  ­ xã hội  ở  các huyện miền núi tỉnh Lai 
Châu  trong giai đoạn 2006 ­ 2010. Qua đó đánh giá hiệu quả  sử  dụng các  
nguồn lực đầu tư ở miền núi.
Đề  xuất các giải pháp có tính khả  thi góp phần đẩy mạnh phát triển  
kinh tế ­ xã hội các huyện miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 ­ 2015.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển kinh tế ­ xã hội  
các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Đánh giá tình hình thực hiện một số 
chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế ­ xã hội tại các huyện miền  
núi tỉnh Lai Châu, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư  ở 
miền núi.
Xác định một số  nhiệm vụ  trọng tâm phát triển kinh tế  ­ xã hội các 
huyện miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 ­ 2015. Đề  xuất các giải pháp 
góp phần phát triển kinh tế ­ xã hội các huyện miền núi tỉnh Lai Châu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, đề tài dựa trên phương pháp luận chung của chủ 
nghĩa duy vật biện chứng  và  chủ  nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận 
chủ  yếu của đề  tài là lý luận Mác­xít được sử  dụng trong toàn bộ  nội dung 
của đề tài. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp nhìn nhận mọi sự vật và hiện 
tượng tồn tại trong mối liên hệ  phổ  biến và chúng luôn vận động, biến đổi, 
phát triển không ngừng. Trên cơ  sở  quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử 
cụ  thể và quan điểm phát triển để  xem xét và phân tích nội dung nghiên cứu  
của đề  tài. Vận dụng các quan điểm này để  làm cơ  sở  cho việc xem xét các 
sự kiện xã hội và quá trình phát triển của xã hội, mà cụ thể là kinh tế ­ xã hội  
tại các huyện miền núi tỉnh Lai Châu.
Trên   cơ   sở   phương   pháp   luận   chung   đó,   đề   tài   chủ   yếu   vận   dụng 
hướng tiếp cận của Lý thuyết cấu trúc ­ chức năng, Lý thuyết phát triển, quan 
điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình thực hiện đề tài. Một 

số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài được trình bày ở mục 1.1 
Chương 1 báo cáo này.
Các phương pháp cụ thể tiến hành nghiên cứu cụ thể là:
Thu thập, phân tích tài liệu: Thu thập số liệu thống kê, các tài liệu liên 


quan đã có từ các cơ quan Trung ương, ở tỉnh, 06 huyện miền núi trong tỉnh. 
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Sử dụng bảng hỏi được 
thiết kế phù hợp cho nội dung cần nghiên cứu (xem Phiếu khảo sát ­ Phụ lục 
01). Số lượng mẫu là 1.000 phiếu, được điều tra tại tất cả 06 huyện miền núi 
trong tỉnh. Việc xử lý và phân tích số  liệu phiếu điều tra được thực hiện bởi  
sự trợ giúp của máy vi tính, bằng phần mềm SPSS­11.5.
Phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung:  Thực hiện với 
các đối tượng chủ yếu là cán bộ  các tổ chức Đảng, cơ  quan Nhà nước, đoàn  
thể cấp xã, cấp huyện, tỉnh và một số công dân tại các huyện miền núi.
Phương   pháp   quan   sát,  được   vận   dụng   xuyên   suốt   trong   quá   trình 
nghiên cứu đề tài.
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu đề tài
Như tên gọi của đề tài được giao nhiệm vụ là:“Nghiên cứu thực trạng  
và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế ­ xã hội các huyện miền  
núi tỉnh Lai Châu”, và được giới hạn trong mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên. Thời 
gian và kinh phí đầu tư  cho nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy, trong quá trình 
nghiên cứu “đánh giá thực trạng”  ở  đây cũng chỉ  đi sâu vào một số  lĩnh vực 
mà đề  tài đặt ra. Các giải pháp đề  xuất cũng trong khuôn khổ  nhiệm vụ 
nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả  nghiên cứu của đề  tài đã bám sát mục tiêu, nhận diện được  
những thành công, bất cập trong một số chính sách, chương trình, dự án đầu 
tư  phát triển kinh tế ­ xã hội tại các huyện miền núi trong thời gian qua; đề 
xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế ­ xã 

hội các huyện miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 ­ 2015. Vì vậy, đây là 
luận cứ  khoa học phục vụ cho sự  lãnh đạo, chỉ  đạo, điều hành quản lý của 
tỉnh và trong việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế  ­ xã hội miền núi  
nhanh và bền vững của Đảng và Nhà nước.
Đề  tài góp phần quan trọng trong việc làm rõ thực trạng, đề  xuất các 
giải pháp có cơ sở khoa học, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế ­ xã  
hội  ở  miền núi nhanh và bền vững. Vì vậy, đề  tài có giá trị  thực tiễn, giải 
quyết vấn đề  vừa mang tính cấp bách, vừa lâu dài, đồng thời góp phần làm 
sáng tỏ về mặt lý luận, nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề liên quan đến phát 
triển kinh tế ­ xã hội miền núi.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở  đầu, kết luận và phụ  lục, báo cáo tổng hợp kết quả 
nghiên cứu đề tài được thể hiện trong ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2.  Đánh giá tình hình thực hiện một số  chính sách, chương  
trình, dự án phát triển kinh tế­xã hội tại các huyện miền núi tỉnh Lai Châu.
Chương 3. Các giải pháp góp phần phát triển kinh tế­xã hội các huyện 
miền núi tỉnh Lai Châu


PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ
1.1. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của đề tài, các tác giả tập trung tìm hiểu, vận dụng một  
số  lý thuyết: “Cấu trúc ­ chức năng”, “Lý thuyết phát triển”, quan điểm của 
Đảng và Nhà nước ta có liên quan để nghiên cứu đề tài. 
1.1.1. Vận dụng Lý thuyết cấu trúc ­ chức năng 
Lý thuyết cấu trúc ­ chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà Xã hội  

học nổi tiếng như: H. Spencer, E. Durkheim, T. Parsons, là một trong những lý 
thuyết quan trọng được sử  dụng rộng rãi trong các phân tích xã hội học. Lý  
thuyết này nhấn mạnh đến những đóng góp chức năng của mỗi bộ phận trong  
xã hội để duy trì cấu trúc cũ, giúp ta vận dụng xem xét cấu trúc kinh tế  ­ xã 
hội một vùng, một khu vực nhất định (mà  ở  đây là khu vực miền núi tỉnh  
Quảng Ngãi).
Vận dụng lý thuyết cấu trúc ­ chức năng giúp ta nhìn nhận: Xã hội là 
một hệ  thống các thiết chế  phụ  thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự   ổn 
định bền vững của tổng thể. Để  giải thích tồn tại của một thiết chế xã hội,  
chúng ta phải tìm hiểu hệ thống xã hội, như một tổng thể, đòi hỏi những nhu  
cầu của nó phải được thoả mãn như thế nào. Bởi vì chỉ trong một trạng thái  
như vậy thì mới bảo đảm cho các chức năng hoạt động mà xã hội luôn trong  
trạng thái cân bằng.
Do vậy, khi xem xét về  thực trạng và giải pháp triển kinh tế  ­ xã hội  


miền núi, chúng ta cần thấy được các chức năng mới xuất hiện và có những 
chức năng cũ sẽ bị triệt tiêu vì không có cơ sở để tồn tại dẫn đến sự biến đổi  
về  kinh tế  ­ xã hội của cộng đồng dân cư  khu vực miền núi. Vận dụng lý 
thuyết cấu trúc ­ chức năng phân tích nội dung đề tài “ Nghiên cứu thực trạng  
và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế ­ xã hội các huyện miền  
núi tỉnh Lai Châu ”; nhằm thấy được cơ cấu mới của cơ cấu xã hội cũng như 
chức năng bộ phận của cơ cấu  ấy trong phát triển kinh tế ­ xã hội miền núi.  
Sự tác động của các bộ phận mới với các chức năng mới sẽ tạo cơ sở cho sự 
tồn tại, phát triển của xã hội và dẫn đến sự  biến đổi xã hội của cộng đồng  
dân cư, trong đó cộng đồng dân cư  khu vực nghiên cứu cũng nằm trong mối 
quan hệ chung đó.
1.1.2. Vận dụng Lý thuyết phát triển 
Lý thuyết phát triển được nhiều nhà khoa học quan tâm và vận dụng 
nghiên cứu các vấn đề  kinh tế ­ xã hội. Nhưng có rất nhiều quan điểm khác  

nhau khi nói đến thuật ngữ  “phát triển”. Có quan điểm coi phát triển và tăng 
trưởng có cùng nội dung. Chúng ta không thể hiểu phát triển như là một hiện 
tượng kinh tế  mà phải  được xem như  là toàn bộ  quá trình bao gồm các đặc 
điểm kinh tế  ­ chính trị  ­ xã hội và văn hoá. Trên quan điểm về  kinh tế  ­ xã  
hội, phát triển giúp cho con người hướng tới một cuộc sống đầy đủ hơn, giàu 
có hơn.
Lý thuyết về sự phát triển hiện nay đang có xu hướng giảm bớt những 
vấn đề  thuần tuý có tính kinh tế. Lý thuyết phát triển ngày nay chú ý nhiều  
hơn các vấn đề phi kinh tế trong quá trình phát triển, về lĩnh vực văn hoá, xã  
hội... Do đó, phát triển xã hội không còn đồng nhất với tăng trưởng kinh tế 
mà là sự phát triển một cách tổng thể. Với yêu cầu như vậy, khi vận dụng Lý  
thuyết phát triển vào nghiên cứu đề tài đòi hỏi chúng ta phải xây dựng khung  
lý thuyết nghiên cứu trên cơ sở của lý thuyết phát triển hiện đại.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đất nước, Đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ  IX của Đảng đã xác định Chiến lược phát triển kinh  
tế ­ xã hội giai đoạn 2001 ­ 2010; Cùng với những chủ trương, đường lối phát  
triển chung của đất nước, công tác Dân tộc và miền núi luôn được Đảng và 
Nhà nước xác định có vị  trí chiến lược quan trọng. Kế  thừa và phát huy kết  
quả  sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ  khi có  
Nghị  quyết 22­NQ/TW ngày 27/11/1989 của Bộ  Chính trị  Về  một số  chủ  
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế ­ xã hội miền núi, tình hình miền núi 
và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan trọng. Đảng 
và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế ­ xã  
hội của miền núi và đã có rất nhiều chủ  trương lớn lãnh đạo, chỉ  đạo, tổ 
chức thực hiện phát triển kinh tế­xã hội trong nhiều năm qua.
Những năm gần đây, trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đều 
rất quan tâm và có chủ  trương đầu tư  ngày càng nhiều cho miền núi. Nghị 
quyết số 30a/2008/NQ­CP của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh  
và bền vững đối với 61 huyện nghèo, với quan điểm xoá đói giảm nghèo là 



chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân.  
Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để  
khai thác có hiệu quả  tiềm năng, lợi thế  của từng dịa phương, nhất là sản  
xuất  lâm nghiệp, nông nghiệp để xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế ­ xã  
hội bền vững. 
Chiến lược phát triển kinh tế  ­ xã hội 2011­2020, được Đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ  XI của Đảng (tháng 01/2011) xác định:... Đẩy mạnh  
giảm nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, không ngừng cải  thiện đời sống và  
chất lượng dân số  của đồng bào các dân tộc thiểu số.Chú trọng phát triển  
hạ tầng kinh tế, xã hội.
Trong Báo cáo chính trị  của Ban chấp hành trung  ương Đảng khoá X, 
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định nhiệm  
vụ trong  5 năm tới đối với vùng trung du, miền núi. Phát triển kinh tế ­ xã hội  
hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn.  Phát huy tiềm năng, thế mạnh của  
từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường liên kết giữa các địa phương  
trong vùng theo quy hoạch, khắc phục tình trạng đầu tư  trùng lặp, thiếu liên  
kết giữa các địa phương trong vùng; ...Tăng cường chính sách hỗ  trợ  phát  
triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào  
dân tộc thiểu số.
Tỉnh Quảng Ngãi cũng đã có nhiều chủ  trương để  phát triển kinh tế  ­ 
xã hội miền núi. Tỉnh  ủy khóa XVII đã ban hành Nghị  quyết 05­NQ/TU Về 
phát triển kinh tế  ­ xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi 2006­2010 ; 
Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị  quyết số 17/2007/NQ­HĐND ngày 
16/7/2007 nhằm cụ  thể  hoá Nghị  quyết trên và  Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây  
dựng , ban hành Quyết định số 295/QĐ­UBND ngày 28/02/2008 Về phê duyệt  
Quy hoạch tổng thể  phát triển kinh tế  ­ xã hội miền núi của tỉnh đến năm  
2010để triển khai thực hiện. 
1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư

1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.2. Dân cư ­ Dân tộc
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ ­ XàHỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI 
1.1. Khái quát chung về thực trạng kinh tế ­ xã hội 
Nhìn chung, kinh tế  các huyện miền núi đang trong quá trình thoát ra 
tình trạng tự cấp tự túc, từng bước tiếp cận thị trường. 
Tốc   độ   tăng   trưởng   bình   quân   giai   đoạn   2006   ­   2010   chậm,   tăng  
13,66%, trong đó N­L­TS tăng 10,25%; CN­XDCB tăng 22,39%; Dịch vụ tăng 
18,97%. Tổng giá trị sản xuất toàn vùng (theo giá 1994) năm 2006 đạt 688.904  
triệu đồng, năm 2010 ước đạt 1.068.552 triệu đồng. 
Về  cơ  cấu kinh tế đã có sự  chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ  trọng 
ngành N­L­TS giảm dần. Tỷ  trọng CN­TTCN tăng chậm. Dịch vụ  chiếm tỷ 
trọng thấp nhưng cáo xu hướng tăng dần. 
Tổng thu ngân sách của vùng ngày một gia tăng, năm 2010 đạt 27,831 


tỷ  đồng, tuy nhiên còn rất nhỏ. Mức thu này chưa thể  có tích lũy từ  nội bộ 
nền kinh tế  của các huyện trong vùng mà chủ  yếu dựa vào sự  hỗ  trợ  ngân 
sách của cấp trên.
Thu nhập bình quân đầu người được cải thiện, năm 2006 là 3.052 ngàn 
đồng, đến năm 2009 là 4.384 ngàn đồng; Lương thực bình quân đầu người 
năm 2006 là 296 kg/người/năm, đến năm 2010 là 327 kg/người/năm.
Đầu tư    xây dựng cơ  bản của khu vực miền núi được chú trọng,   kết 
cấu hạ tầng kinh tế ­ xã hội phát triển khá, nhất là hệ thống thủy lợi, đường  
giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, kè chống xói lở bờ sông... Đến nay, 
100% các huyện trong vùng có điện lưới quốc gia và mạng lưới bưu chính  
viễn thông. 
Lĩnh vực văn hoá ­ xã hội, nhất là giáo dục, y tế, văn hoá thông tin có 
những bước tiến triển mới, gắn kết hơn với quá trình phát triển kinh tế  ­ xã  
hội chung của toàn tỉnh và trong nội bộ vùng. 

Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh, tỷ lệ nghèo năm 2010 là 
35,23%, chất lượng cuộc sống có mặt được nâng lên. Đời sống vật chất, tinh  
thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Thế trận quốc phòng 
­ an ninh được giữ vững. Khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố 
và tăng cường.
Tuy nhiên, kinh tế ­ xã hội các huyện miền núi vẫn còn chậm phát triển  
và nhiều khó khăn.Tính tự phát, manh mún trong sản xuất còn phổ biến. Sản 
xuất nông nghiệp chưa đáp  ứng đủ  nhu cầu lương thực, thế  mạnh kinh tế 
rừng chưa được phát huy đúng mức; công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng  
còn nhiều yếu kém, một số nơi rừng bị tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu  
đến môi trường sinh thái. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hệ thống dịch 
vụ  còn sơ  khai. Tiềm năng du lịch chưa được khai thác. Hệ  thống hạ  tầng  
kinh tế ­ xã hội còn yếu kém. Các vấn đề thiết yếu như: nhà ở, đất ở, đất sản  
xuất nông nghiệp, đất rừng, nước sinh hoạt chưa được giải quyết căn bản. 
Đời sống của nhân dân trong vùng còn thấp xa so với các vùng khác trong tỉnh. 
Trình độ  dân trí thấp, điều kiện phát triển giáo dục, y tế  khó khăn, học sinh 
bỏ  học còn nhiều; tỷ  lệ  trẻ  em suy dinh dưỡng còn cao. Đồng bào dân tộc 
vẫn còn tồn tại một số tập tục lạc hậu.
1.2. Thực trạng về các ngành kinh tế
1.2.1. Nông nghiệp ­ Lâm nghiệp ­ Thủy sản
+ Sản xuất Nông nghiệp
­ Về trồng trọt:
Cây lúa:  Từ  năm 2001 đến nay, tuy diện tích có tăng có giảm, nhưng  
năng suất bình quân trong vùng tăng đều: từ  26,6 tạ/ha (2001), 31,2 tạ/ha 
(2005) lên 40,2 (2010) làm cho sản lượng tăng lên.
Cây ngô: Sản xuất ngô có nhiều tiến bộ cả về mở rộng diện tích thâm 
canh tăng năng suất. Diện tích ngô lai đang thay thế  dần các giống ngô cũ 
năng suất thấp. Phương thức trồng ngô thâm canh cũng đang thay thế  dần  
trồng ngô quảng canh. Năng suất bình quân trong vùng tăng từ: 18,8 tạ/ha  



(2001), 21,8 tạ/ha (2005) lên 28,7 tạ/ha (2010).
Cây sắn: Cùng với sự phát triển của hai nhà máy chế biến tinh bột sắn  
của tỉnh kéo theo vùng nguyên liệu phát triển không ngừng. Năng suất bình 
quân trong vùng tăng từ: 85,8 tạ/ha (2001), 107,9 tạ/ha (2005) lên 134,1 tạ/ha  
(2010). Việc phát triển cây sắn hiện nay cần có giải pháp quy hoạch hợp lý 
và canh tác khoa học để không dẫn đến phá rừng và huỷ hoại môi trường.
Ngoài ra, trong vùng còn có khoai lang, rau đậu các loại: Diện tích có 
lúc giảm lúc tăng, nhưng sản lượng và năng suất các năm đều tăng do áp dụng 
các tiến bộ khoa học ­ kỹ thuật vào sản xuất.    
Cây công nghiệp ngắn ngày:  Trong vùng có trồng các loại cây công 
nghiệp ngắn ngày như: mía, lạc, vừng…  Diện tích mía có tăng có giảm qua 
các   năm,   năng   suất   bình   quân   trong   vùng   không   ổn   định   từ:   372,2   tấn/ha 
(2001), 449,9 tấn/ha (2005) giảm còn 336,6 tấn/ha (2010).  Diện tích và sản 
lượng cây lạc tuy có tăng có giảm, nhưng năng suất lại ngày càng tăng. Năm 
2001 diện tích 1.340 ha, sản lượng 1.643 tấn, năng suất chỉ đạt 12,3 tạ/ha. Đế 
năm 2008 diện tích giảm xuống còn 872 ha, nhưng nhờ  năng suất tăng lên  
15,7 tạ/ha nên sản lượng đạt 1.358 tấn. Diện tích trồng cây vừng tuy có tăng 
có giảm, nhưng năng suất và sản lượng hàng năm đều tăng. Năm 2001 diện 
tích 29,0 ha đến 2002 diện tích tăng lên 74,0 ha, nhưng năm 2008 diện tích lại  
giảm xuống còn 63,0 ha. Năng suất tăng từ  1,7 tạ/ha năm 2001 lên 3,9 tạ/ha  
năm 2008. Sản lượng tăng từ 5,0 tấn năm 2001 lên 24,3 tấn năm 2008.     
Cây công nghiệp dài ngày: Cây quế  (Diện tích 2.521 ha, sản lượng 
2.255 tấn); Cây cau (Diện tích 620 ha, sản lượng 6.875 tấn); Cây chè (Diện  
tích 140 ha, sản lượng 252 tấn); 
Cây ăn quả: Diện tích 663 ha, sản lượng 3.434 tấn. Trồng phân tán 
trong vườn các hộ gia đình.
­ Về chăn nuôi:
+ Đàn trâu, bò: Hình thức chăn nuôi hiện nay vẫn là chăn nuôi quảng 
canh, chưa phát triển thành các trang trại chăn nuôi tập trung trong khi vùng có  

các điều kiện để phát triển. Số lượng đàn trâu, bò có xu hướng ngày càng gia  
tăng.
­ Đàn lợn: Số  lượng đàn lợn tương đối  ổn định, tuy có năm tăng, năm 
giảm.
+ Đàn gia cầm: Sản lượng thịt gia cầm trong 5 năm trở  lại đây có xu 
hướng gia tăng, năm 2004 sản lượng thịt gia cầm 290 tấn đến năm 2008 tăng 
lên 560 tấn.      
Nhìn   chung,   chăn   nuôi   chậm   phát   triển   so   với   trồng   trọt,   chủ   yếu 
hướng tự cung, tự cấp, chưa định hướng sản xuất hàng hóa.
­ Ngành lâm nghiệp
Diện tích đất lâm nghiệp hiện nay là 175.307,1 ha chiếm 54,18% diện 
tích tự  nhiên toàn tỉnh. Năm 2006 tổng doanh thu của ngành lâm nghiệp là  
56.460 triệu đồng, chiếm 17,02% giá trị  ngành Nông ­ Lâm ­ Ngư  nghiệp. 
Ngoài diện tích rừng tự nhiên đã được khoán bảo vệ, chăm sóc hàng năm. Các 


huyện miền núi còn tiến hành trồng, khoanh nuôi, tái sinh bảo vệ  được diện  
tích rừng khá lớn. Công tác trồng rừng và bảo vệ  rừng được quan tâm trong 
những năm gần đây. Diện tích rừng trồng chủ yếu các cây Sao đen, Lim, Dầu, 
keo, bạch đàn, quế… Keo hiện nay chiếm diện tích khá lớn, năng suất bình  
quân khu vực trong khoảng từ 70 ­ 88 tấn/ha và ngày càng đem lại nguồn lợi  
kinh tế khá cao.
­ Thủy sản
Ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản của vùng miền núi quá nhỏ  bé,  
sản lượng và giá trị sản phẩm không đáng kể, chủ yếu chỉ đáp ứng một phần  
nhu cầu nội vùng. Năm 2008, tổng sản lượng thủy sản toàn vùng đạt 210 tấn. 
Tiềm năng khai thác không lớn.
1.2.2. Công nghiệp ­ Tiểu thủ công nghiệp, Xây dựng
Trong những năm qua, ngành Công nghiệp ­ Tiểu thủ  công nghiệp và 
Xây dựng đã có sự  phát triển đáng kể. Hầu hết các cơ  sở  công nghiệp, tiểu 

thủ công nghiệp và xây dựng đều nhỏ bé và tập trung ở các thị trấn, trung tâm  
huyện lỵ và các trung tâm cụm xã. Tuy nhiên, ngành công nghiệp và tiểu thủ 
công nghiệp vẫn chiếm tỷ  trọng rất nhỏ  trong cơ  cấu giá trị  sản xuất của  
vùng. Năm 2008, trên toàn địa bàn 06 huyện miền núi có tổng số 1.605 cơ sở 
thì hầu hết đều thuộc loại hình hộ kinh doanh cá thể và tư nhân (1.600 cơ sở),  
chỉ có 02 cơ sở sản xuất thuộc loại hình nhà nước, 03 cơ sở tập thể. 
1.2.3. Thương mại ­ Dịch vụ và Du lịch
Những sản phẩm hàng hóa của vùng trao đổi với bên ngoài chủ  yếu là 
gỗ  và sản phẩm chế  biến từ  gỗ, cây mía, cây quế  và một số  lâm sản khác.  
Còn các sản phẩm nhập vào trong vùng là nguyên vật liệu xây dựng, nhiên 
liệu, phân bón, lương thực và đồ dùng phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Về  dịch vụ có tốc độ  tăng trưởng khá, ngày càng chiếm tỷ  trọng đáng  
kể trong cơ cấu kinh tế. Các hoạt động dịch vụ vận tải, ngân hàng phát triển,  
có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế ­ xã hội của vùng. Tuy nhiên, vận tải 
trong vùng chủ  yếu là đường bộ, phương tiện chính là xe ô tô và chưa đáp  
ứng được nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa trong vùng.
Du lịch trên địa bàn chưa được đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng còn quá  
khó khăn, khâu dịch vụ chưa phát triển. 
1.3. Thực trạng về xã hội và an ninh quốc phòng
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng cho đồng bào dân tộc  
trong vùng từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp về cơ sở vật chất, đội  
ngũ cán bộ y tế được tăng cường. Các chương trình y tế đều đạt kế hoạch đề 
ra, góp phần hạ  thấp tỷ  lệ  các bệnh như  sốt rét, bướu cổ...Tuy nhiên, tỷ  lệ 
mắc bệnh và tử vong trong vùng còn cao. Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y  
tế hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu. 
Việc xây dựng đời sống văn hóa, nhất là Phong trào “Toàn dân đoàn kết 
xây dựng đời sống văn hóa” và các chính sách phát triển văn hóa của nhà nước  
trong vùng tiếp tục được chú trọng thực hiện. 



Sự  nghiệp giáo dục ­ đào tạo được các cấp, các ngành quan tâm, hiện 
nay tỷ lệ học sinh tới trường đạt 80% so với độ  tuổi đi học. Tuy nhiên, chất  
lượng giáo dục trên địa bàn vẫn còn thấp, nhất là trong vùng các xã đặc biệt 
khó khăn. Hệ  thống trường lớp và trang thiết bị  còn thiếu, phòng học tranh  
tre, phòng tạm vẫn còn. Hiện tại chưa đáp  ứng được yêu cầu phát triển của 
sự nghiệp giáo dục. 
Công tác ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật  được triển khai thực 
hiện bằng nhiêu mô hình. Năng lực cán bộ chuyển giao tuy đã có kiến thức và 
kinh nghiệm nhưng còn rất thiếu trang thiết bị, phương tiện. Cơ sở vật chất  
kỹ thuật tại các huyện còn thiếu nhiều và quá sơ sài.
Về  an ninh quốc phòng, trật tự  an toàn xã hội  ở  các huyện miền núi 
luôn được ổn định và giữ vững. Thực hiện có kết quả các chủ trương về xây  
dựng khu vực phòng thủ, phong trào toàn dân tham gia bảo vệ  Tổ  quốc, giữ 
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 
1.4. Thực trạng kết cấu hạ tầng
Hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng lớn đến việc lưu  
thông kinh tế  giữa các địa phương trong vùng, đặc biệt vào mùa mưa. Các 
tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ  nhìn chung đã được xây dựng tương đối khá, 
một số  tuyến khác đang có dự  án đầu tư. Nhiều tuyến đường liên xã, thôn 
xóm còn quá kém, hệ thống cầu cống và hệ thống thoát nước đã có nhưng còn  
nhiều hạn chế.
Về thủy lợi: Trong vùng hiện có 279 công trình thủy lợi, tổng diện tích 
tưới 4.128 ha.  Tuy nhiên, chưa đáp  ứng được yêu cầu sản xuất của người  
dân.
Về điện năng: Hệ thống điện chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và 
sinh hoạt. Hiện nay số  hộ  có điện trong vùng chỉ  là 34.140 hộ, chiếm 81% 
toàn vùng. 
Hệ  thống cấp nước sinh hoạt :  Chương trình NS&VSMTNT cùng với 
các nguồn từ  các chương trình khác đã đầu tư  162 công trình với tổng vốn  
khoảng 53.978 triệu đồng, cấp nước cho khoảng 9.997 hộ, nâng tổng số  hộ 

được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ  sinh  đến năm 2010 chiếm khoảng 
76,83% dân số toàn vùng.
Về bưu chính viễn thông: Nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản 
của dịch vụ bưu chính viễn thông trong vùng. Toàn vùng có 15.167 máy điện 
thoại cố  định, bình quân 7,63 máy/100 dân, tổng số  thuê bao Internet là 786  
thuê bao.
Về  văn hóa thông tin:  Đến nay, trong vùng đã có 6 đài truyền thanh ­  
phát lại truyền hình, tập trung vào tuyên truyền đường lối chủ  trương chính 
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ  chính trị  địa phương. Hệ 
thống văn hóa thông tin mới chỉ đáp ứng được ở khu vực trung tâm huyện và 
các trung tâm cụm xã, còn đối với các khu vực vùng sâu, vùng xa chưa được 
đầu tư nhiều để đảm bảo yêu cầu thiết yếu.
Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thể dục thể thao chưa phát triển. 


Toàn vùng hiện có 17 sân vận động, vận động viên chủ  yếu chỉ  tập trung từ 
các xã, thị trấn khi có phong trào thi đấu.
Hệ thống thoát nước và vệ  sinh môi trường chưa được chú trọng đầu  
tư. Phương thức sản xuất  lạc hậu, cơ  sở  hạ tầng còn nhiều khó khăn, ảnh 
hưởng không ít đến đời sống của nhân dân, là mầm mống gây ra các dịch  
bệnh.
Tóm lại, cả sáu huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi đều là những huyện  
nghèo và có sự phát triển không đồng đều theo vùng lãnh thổ và theo lĩnh vực  
sản xuất. 
Theo vùng lãnh thổ, có huyện có điều kiện phát triển mạnh như Ba Tơ,  
Sơn Hà, Trà Bồng; có huyện kinh tế  khó phát triển hơn như: Tây Trà, Sơn 
Tây, Minh Long. Có huyện cơ sở hạ tầng khá như: Ba Tơ, Sơn Hà; có huyện  
cơ sở hạ tầng yếu kém như Tây Trà, Sơn Tây.
Theo lĩnh vực sản xuất, có huyện có hướng phát triển công nghiệp vì  
nguyên liệu dồi dào như: Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, nhưng cũng có huyện ít  

có lợi thế phát triển công nghiệp mà chỉ phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng 
nghề, như Tây Trà, Sơn Tây.
Thực trạng nêu trên là những chỉ báo rất đáng quan tâm trong quá trình  
đầu tư phát triển kinh tế ­ xã hội miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong những năm  
đến.

Chương 2.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH, 
CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ ­ XàHỘI         
TẠI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI 
I. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ  ­ XàHỘI CÁC Xà
ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN MIỀN NÚI VÀ VÙNG SÂU VÙNG XA (CHƯƠNG 
TRÌNH 135)

1.1. Chương trình 135 giai đoạn I 
a. Nội dung của Chương trình   là:  Quy hoạch bố  trí lại dân cư   ở 
những nơi cần thiết; Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, gắn 
với chế biến, tiêu thụ sản phẩm; Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp  
với quy hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư; Quy hoạch và xây dựng các trung 
tâm cụm xã; Đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, sóc.


­ Thời gian thực hiện: Từ năm 1999­2005.
­ Phạm vi thực hiện trên địa bàn các xã ĐBKK, cụ  thể: Năm 1999:22 
xã; năm 2000: 44 xã; từ năm 2001­2005: 57 xã.
b. Đánh giá kết quả 
Những kết quả đạt được:
Chương trình đã góp phần xây dựng được hệ  thống CSHT quan trọng, 
là lực lượng vật chất to lớn làm thay đổi bộ  mặt nông thôn, tạo tiền đề  cho 
phát triển vùng dân tộc và miền núi. Đưa kỹ  thuật canh tác mới với những  

giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, chất lượng tốt đã dần thay thế những  
tập quán sản xuất lạc hậu; diện tích khai hoang ruộng lúa nước và năng lực 
tưới tiêu tăng lên giúp ổn định một phần lương thực. Góp phần cải thiện đời  
sống của đồng bào trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế  và sức  
khỏe cộng đồng: Về  cơ  bản trên địa bàn không còn hộ  đói kinh niên, tốc độ 
giảm nghèo hàng năm khá, từ  65% (trước khi có Chương trình) xuống còn 
23,84% (cuối năm 2005), bình quân giảm 4­5%/năm. Hầu hết các xã đều có 
trường tiểu học và THCS kiên cố, thu hút trên 95% số trẻ em tiểu học, trên 75  
% trẻ  em THCS trong độ  tuổi đến trường; nhiều địa phương đã hoàn thành  
phổ cập giáo dục THCS; có trạm y tế đã ngăn chặn cơ bản các dịch bệnh; đời  
sống văn hoá được nâng cao một bước, văn hoá truyền thống của các dân tộc 
được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các dự án quy hoạch sắp xếp lại dân cư 
đã góp phần  ổn định đời sống, giúp đồng bào được tiếp cận các hạ  tầng kỹ 
thuật, dịch vụ xã hội.
Những tồn tại, hạn chế:
­ Về  tổ  chức thực hiện:   Chưa sát thực tế  nên dẫn đến nhiều biến  
động về  số  xã thuộc Chương trình: Số  xã thuộc diện đầu tư  đã tăng dần từ 
21 đến 57 xã.  Chưa có chính sách khuyến khích các địa phương thoát khỏi 
Chương trình.Chỉ có 14/57 xã hoàn thành mục tiêu, đạt tỷ lệ rất thấp 24,56%. 
Mặt khác, do không có sự  đánh giá khách quan và tâm lý không muốn thoát  
khỏi Chương trình. Công tác quản lý, chỉ đạo các dự án chưa được tập trung. 
Sự  phối hợp giữa Ban chỉ  đạo và các Sở, ngành chưa được chặt chẽ, đồng  
bộ. Công tác tuyên truyền phổ  biến chưa được quan tâm đúng mức. Nhiệm  
vụ  giám sát thiếu chặt chẽ, kém hiệu lực.  Thực hiện đầu tư  còn dàn trãi,  
chưa đồng bộ. Nội dung thiếu mục tiêu cụ thể cho từng vùng đầu tư. Dự án 
quy hoạch bố trí lại dân cư chỉ mới thực hiện được việc hỗ trợ dãn dân, công 
tác quy hoạch dân cư chỉ dừng ở bước lập dự án quy hoạch... Trong xây dựng  
CSHT, cơ cấu đầu tư còn nặng về các công trình giao thông (chiếm 42,90%); 
trong khi vốn đầu tư  cho thủy lợi (33,75%), nước sinh hoạt (7,39%),  điện 
(3,6%), trường học (11,35%) và khai hoang (0,68%) là chưa hợp lý. 



­ Về  quản lý các nguồn vốn  đầu tư:  Chương  trình do UBND các 
huyện trực tiếp quản lý, trong khi trình độ  cán bộ  còn nhiều hạn chế. Tuy 
chưa có vi phạm lớn nhưng còn biểu hiện những sai sót và lãng phí. Quy trình 
chọn và đánh giá nhà thầu thi công chưa tốt. Ở  nhiều địa phương chọn nhà 
thầu không đủ năng lực. Công tác nghiệm thu thiếu cán bộ có chuyên môn phù 
hợp; một số công trình chưa đảm bảo chất lượng. Một số địa phương có thực 
hiện huy động dân khai thác vật liệu xây dựng tại chỗ, tham gia xây dựng 
công trình nhưng tỷ  lệ  rất thấp. Hầu hết, các công trình CSHT do nhà thầu 
làm, sự tham gia của người dân bản xứ là rất thấp. Một số nơi, việc lựa chọn  
công trình ít được thảo luận rộng rãi với dân, hoặc chỉ  là hình thức, nên đầu  
tư không hợp lý, kém hiệu quả.
­ Về công tác quản lý vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình: UBND 
tỉnh đã ban hành Quy chế quản lý, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp và 
khai thác các công trình cơ sở  hạ tầng tại xã miền núi. Tuy nhiên, nguồn lực 
chủ yếu để thực hiện là công lao động của nhân dân địa phương và vốn duy  
tu, bảo dưỡng của địa phương rất hạn hẹp, việc thực hiện còn nhiều bất 
cập.
­ Về  lồng ghép các chương trình, dự  án:    Có gặp nhiều khó khăn do mỗi 
chương trình, dự  án đầu tư  đều có mục tiêu, cơ  quan chủ  trì riêng, cơ  chế 
quản lý và thời điểm thực hiện khác nhau, cùng với những hạn chế  trong  
công tác quy hoạch và cơ chế lồng ghép không rõ ràng nên hiệu quả chưa cao, 
chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực đầu tư.
1.2. Chương trình 135 giai đoạn II (2006 ­ 2010)
a.   Nội   dung   của   chương   trình   là:  Hỗ   trợ   phát   triển   sản   xuất   và 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất của đồng bào các dân  
tộc; Phát triển cơ  sở  hạ  tầng thiết yếu  ở  các xã, thôn, bản đặc biệt khó 
khăn; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính 
và kinh tế; đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng; Trợ  giúp pháp lý để  nâng 

cao nhận thức pháp luật.
­ Thời gian thực hiện: Từ năm  2006 ­ 2010. 
­ Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Gồm 43 xã ĐBKK miền núi và 31 
thôn ĐBKK thuộc các xã khu vực II. 
b. Đánh giá kết quả thực hiện
Những kết quả đạt được:
Chương trình đã đạt được phần lớn các nội dung; về cơ bản, không còn 
tình trạng hộ  đói thường xuyên; tỷ  lệ  hộ  nghèo của các xã, thôn ĐBKK đã  
giảm từ  71,56% đầu năm 2006 xuống còn 44,24% vào giữa năm 2010 (giảm 
27,32%, bình quân mỗi năm giảm khoảng 5,5%). 
­ Một số chỉ tiêu đạt kế hoạch: Tỷ lệ xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm 
bảo phục vụ  cho sản xuất đạt 93,33% (MT 80%); Tỷ lệ  thôn bản có điện ở 
các cụm dân cư đạt 88,81% (MT 80%); Tỷ lệ học sinh tiểu học trong độ tuổi  
được đến trường là 99,53% (MT 95%); Tỷ  lệ  học sinh THCS trong độ  tuổi  
được đến trường là 91,17%  (MT 75%); Tỷ  lệ  hộ  có hố  xí hợp vệ  sinh đạt  


52,33% (MT 50%); Tỷ lệ người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ 
pháp luật miễn phí là 100 % (MT 95%).
­ Về  phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ  cấu kinh tế:   Sản xuất nông 
nghiệp đã có bước phát triển đáng kể nhờ áp dụng giống cây trồng, vật nuôi 
mới và  ứng dụng khoa học, kỹ  thuật vào sản xuất, năng suất cây trồng, vật 
nuôi tăng lên. Đồng bào các dân tộc thiểu số  đã từng bước thay thế  dần tập  
quán sản xuất lạc hậu. Tỷ  lệ  hộ  có mức thu nhập bình quân đầu người trên 
3,5 triệu đồng/năm của vùng tăng từ  26,71% năm 2006 lên 44,59% vào năm 
2010.
­ Về  hoàn thiện cơ  sở  hạ  tầng:  Hệ  thống cơ  sở  hạ  tầng thiết yếu tại  
các địa bàn ĐBKK đã được quy hoạch và triển khai thực hiện  đầu tư  từ 
nguồn vốn của CT 135­II, cùng với nguồn lực từ các chương trình, dự án khác  
đã cơ  bản phục vụ  được phần lớn những yêu cầu cấp thiết nhất trong sản  

xuất và sinh hoạt của người dân tại các địa bàn này. 
­ Đời sống văn hoá, xã hội đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học 
sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở trong độ  tuổi đến trường đều cao;  
số  hộ  được sử  dụng nước sinh hoạt hợp vệ  sinh, số hộ được sử  dụng điện  
đều tăng và đạt mục tiêu của Chương trình.
­ Về nâng cao năng lực: Trình độ, năng lực quản lý CT 135­II cũng như 
các chương trình, chính sách khác của cán bộ  cấp xã và thôn được nâng lên  
một bước; đội ngũ cán bộ  cấp xã, thôn đã được trang bị  các kiến thức, kỹ 
năng về  quản lý điều hành, quản lý đầu tư  cũng như  trình độ  chuyên môn 
nghiệp vụ  về  xóa đói giảm nghèo. Vì vậy, trong giai đoạn 2006­2010, số 
lượng xã được giao làm chủ  đầu tư  các dự  án, chính sách thuộc CT 135­II 
tăng lên: năm 2006 có 13,95%, đến năm 2010 có 81,3% xã; h ợp phần Hỗ  trợ 
sản xuất đến năm 2008 có 100% xã làm chủ đầu tư. Năng lực của cộng đồng 
được nâng lên, ngày càng có nhiều hộ  biết áp dụng khoa học kỹ  thuật và sử 
dụng loại giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao vào sản  
xuất để tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân.
Những tồn tại, hạn chế:
­ Các mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt được: Mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo: 
Tỷ  lệ  hộ nghèo  ở  các xã, thôn ĐBKK của tỉnh năm 2010 đã giảm 27,32% so  
với năm 2006. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức khá cao là 44,24% (MT dưới 30%).
­ Về phát triển cơ sở hạ tầng: Tỷ lệ xã có đường giao thông cho xe cơ 
giới từ  trung tâm xã đến thôn bản chỉ  đạt 76,8% (MT 80%); Tỷ  lệ  xã có đủ 
trường học, lớp học kiên cố chỉ đạt 95,34% (MT 100%); Tỷ lệ xã có Trạm y  
tế kiên cố, đúng tiêu chuẩn chỉ đạt 51,16% (MT 100%).
­Về  phân cấp cho cấp xã làm chủ  đầu tư: Chỉ  có  81,3% số  xã ĐBKK 
được giao làm chủ đầu tư các công trình CSHT (MT 100%). 
Chỉ  có 01xã hoàn thành mục tiêu chương trình (xã Ba Dinh, huyện Ba 
Tơ). Qua điều tra lấy ý kiến nhân dân về Chương trình, có 45,5% ý kiến cho  
rằng“chưa hiệu quả lắm” so với 30,6% ý kiến “hiệu quả tốt”.
­ Trong chỉ  đạo, điều hành:  Việc tổ  chức triển khai chương trình còn 



nhiều lúng túng, nhiều văn bản hướng dẫn ban hành chậm. Một số  nội dung 
của văn bản hướng dẫn phải sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho các địa  
phương. 
­ Trong tổ  chức thực hiện: Việc phân bổ  vốn thực hiện Chương trình 
còn chậm, thường phân thành nhiều đợt đã gây khó khăn cho các địa phương  
trong việc lập kế hoạch tổ  chức thực hiện cũng như  giải ngân vốn. Nguyên 
tắc “xã có công trình, dân có việc làm, tăng thêm thu nhập từ  việc tham gia  
lao động công trình tại xã” chưa được thực hiện tốt. Vai trò và nhiệm vụ của 
một số cơ quan cấp tỉnh, huyện trong quá trình tham mưu và tổ chức chỉ đạo 
thực hiện Chương trình có lúc, có việc thiếu đồng bộ, chưa kịp thời. Công tác  
quản lý, tổ  chức triển khai thực hiện của cán bộ  xã nhiều nơi còn lúng túng, 
gặp nhiều khó khăn. 
II. MỘT SỐ  CHÍNH SÁCH HỖ  TRỢ  ĐẤT SẢN SUẤT, ĐẤT  Ở,  
NHÀ   Ở   VÀ   NƯỚC   SINH   HOẠT   CHO   HỘ   ĐỒNG   BÀO   DÂN   TỘC 
THIỂU SỐ NGHÈO, ĐỜI SỐNG KHÓ KHĂN (CHƯƠNG TRÌNH 134)
2.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình
­ Nội dungchương trình: Giao đất sản xuất nương rẫy, đất ruộng lúa; 
Giao đất  ở  tối thiểu cho hộ đồng bào; Hỗ  trợ  nhân dân xây dựng nhà ở  theo 
phương châm: Nhân dân tự làm, nhà nước hỗ  trợ  và cộng đồng giúp đỡ; Hỗ 
trợ giải quyết nước sinh hoạt tập trung, phân tán.
­ Thời gian thực hiện: Từ năm 2005 ­  2008. 
­ Phạm vi thực hiện:  67 xã, 329 thôn thuộc 9 huyện (trọng tâm là 6 
huyện miền núi). Số hộ thụ hưởng là: 13.907 hộ, được điều chỉnh lên 29.019 
hộ.
2.2. Đánh giá kết quả
Những kết quả  đạt được:  Chương trình bước đầu đã giải quyết cơ  
bản tình trạng khó khăn về  đất  ở, nhà  ở  và nước sinh hoạt:  Khai thác được 
tiềm năng đất đai, lao động và cải thiện đời sống người dân; đảm bảo một 

bộ  phận đồng bào có điều kiện phát triển sản xuất, tạo cơ  hội phấn đấu, 
nâng cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ  để  vươn lên thoát nghèo.  Quy chế 
dân chủ  được phát huy: Việc hỗ  trợ  một số  chính sách được công khai dân 
chủ từ khâu lập và phân bổ  kế hoạch, đến khâu giám sát thực hiện; công tác  
xã hội hóa trong việc kiểm tra, giám sát đã được hình thành và rõ nét hơn  
trong mỗi người  dân.   Nhiều  địa phương đã  chủ  động thực hiện tốt các  
phương thức quản lý dự  án: Nhiều xã thực hiện tốt trách nhiệm ký kết hợp 
đồng xây nhà cho dân (trường hợp hộ  dân có nhu cầu) và đã làm tốt vai trò  
chủ  đầu tư  xây dựng công trình nước sinh hoạt tập trung.   Nhận thức của  
người dân địa phương về  chính sách của nhà nước được nâng lên.  Ý thức 
tương trợ  giúp đỡ  trong cộng động cũng được nâng cao. Giải quyết cơ  bản  
vấn đề nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt:  Hỗ trợ cho 15.333 hộ có nhà ở 
được cứng hoá khung nhà, 597 hộ có đủ đất sản xuất và đại bộ phận cư dân 
trên vùng được dùng nước sạch, cải thiện chất lượng cuộc sống. 
  Những tồn tại, hạn chế:   Công tác điều tra, khảo sát còn hạn chế: 


Một số  huyện điều tra thiếu chính xác, dẫn đến chỉ  tiêu một số  chính sách  
trong Đề án không sát với thực tế. Nguyên nhân là lực lượng và điều kiện để 
điều tra, khảo sát ban đầu gặp nhiều khó khăn, Trung ương quy định thời gian 
điều tra, khảo sát, lập Đề  án là quá ngắn.    Một số  quy định về  chính sách  
chưa phù hợp thực tế: Đối tượng thụ hưởng ở các xã thuộc các khu vực I, II,  
III có điều kiện tự nhiên, kinh tế ­ xã hội và khả năng nguồn lực của từng địa 
phương khác nhau, nhưng mức hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất theo kiểu bình quân 
là chưa phù hợp; Mức hỗ trợ khai hoang, đền bù thu hồi đất 6 triệu đồng/ha là  
quá thấp. Do đó, địa phương gặp nhiều lúng túng, chưa tạo được cơ  hội cho 
đồng bào có đủ  đất sản xuất.  Về  công tác tổ  chức thực hiện còn hạn chế. 
Chưa ban hành các quy định về  huy động, lồng ghép các nguồn vốn; hướng  
dẫn cơ chế lồng ghép các nguồn vốn và cân đối nguồn vốn lồng ghép trên địa  
bàn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để  thực hiện Chương trình đạt hiệu  

quả  cao. Việc phân công cán bộ  cấp huyện, xã còn phải kiêm nhiệm nhiều  
chương trình, nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, khối lượng công việc nhiều, nên 
công tác chỉ  đạo chưa được tập trung. Công tác khảo sát thiết kế  công trình  
tồn tại nhiều yếu kém. Nhiều công trình nước sinh hoạt không phát huy hiệu  
quả  do khảo sát nguồn nước; công suất thiết kế  không phù hợp với nguồn  
nước và nhu cầu sử  dụng. Nhiều công trình bảo quản kém nên chỉ  cần hư 
hỏng nhỏ ở đầu nguồn là công trình không sử dụng được. Công tác sơ kết rút 
kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm cho cộng đồng, nhân rộng điển hình chưa 
kịp thời.
III. DỰ ÁN TRỒNG MỚI 5 TRIỆU HA RỪNG  (DỰ ÁN 661)

3.1.Nội dung dự án, thời gian, phạm vi Dự án
­ Nội dung: Bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện có; Thực hiện ngay từ giai 
đoạn đầu việc giao đất, giao rừng cho các tổ  chức, hộ  gia đình cá nhân gắn  
với định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo để bảo vệ, khoanh nuôi rừng kết  
hợp trồng bổ  sung và trồng mới; Trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ  rừng đặc  
dụng và trồng 3 triệu ha rừng sản xuất.
­ Thời gian thực hiện: Từ năm 1998 ­ 2010.
­ Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Trên địa bàn 10 huyện, với quy 
hoạch tiềm năng đất trồng rừng đã phê duyệt đến năm 2010 là 46.000 ha 
(trong đó: 6 huyện miền núi là 35.100 ha, chiếm 76,30% diện tích). 
 3.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả  đạt được:  Việc ban hành văn bản quy phạm pháp  
luật, cơ  chế, chính sách thực hiện Dự  án:  Được thực hiện từ  Trung  ương, 
đến địa phương kịp thời và rõ ràng, giúp các cấp chính quyền làm cơ sở triển  
khai thực hiện.  Công tác chỉ  đạo, điều hành:  Việc tổ  chức, hoạt động của 
Ban chỉ  đạo, Ban quản lý Dự  án 661 được sự  chỉ  đạo thống nhất và xuyên 
suốt từ Chính phủ đến các cấp chính quyền địa phương.  Việc đầu tư  NSNN,  
huy động vốn: Việc đầu tư NSNN và thu hút được nhiều nguồn vốn khác để 
thực hiện dự  án là nỗ  lực lớn nhằm phủ  xanh đất trống đồi trọc, cải thiện  

môi trường, xóa đói giảm nghèo cho người dân tham gia nghề rừng.  Việc thực  


hiện các mục tiêu, nhiệm vụ  cụ  thể  của Dự  án: Đến nay, tỉnh cơ  bản thực 
hiện bằng và vượt so với kế hoạch được giao: Trồng mới và chăm sóc rừng  
phòng   hộ:   21.132   ha/19.550   ha,   đạt   108%;   Quản   lý   bảo   vệ   rừng: 
554.265/382.100 ha, đạt 145,1%; Khoanh nuôi tái sinh rừng: 73.271/82.724 ha,  
đạt 88,6%. Diện tích thành rừng là 66.529 ha. Hiệu quả  về  kinh tế  ­ xã hội,  
môi   trường   của   Dự   án:  Từ   năm   1998   ­   2009,   diện   tích   có   rừng   tăng   từ 
126.602 ha lên 234.799 ha, độ  che phủ  tăng từ  24,6% lên 41,68%. Kết quả 
Quy hoạch lại 3 loại rừng tạo điều kiện quản lý chặt chẽ  rừng phòng hộ, 
giao cho các BQL rừng phòng hộ  và chính quyền địa phương quản lý. Dự  án 
đã đưa gần 80.000 ha đất trống đồi núi trọc để  trồng rừng, giao khoán hàng 
trăm nghìn lượt ha bảo vệ và khoanh nuôi rừng, tạo việc làm cho gần 10.000 
hộ, hình thành trong cộng đồng dân cư miền núi biết làm nghề rừng, giữ rừng  
và xóa bỏ dần tập quán du canh du cư phát rừng làm nương rẫy. Qua điều tra 
cho thấy người dân đánh giá cao việc thực hiện chương trình, với 86,1% ý 
kiến cho là có hiệu quả. 
 Những tồn tại, hạn chế: Công tác chỉ  đạo triển khai chưa kịp thời:  
Một số văn bản quan trọng để  chỉ  đạo thực hiện dự  án chưa kịp thời. Trong  
đó, văn bản quan trọng nhất để làm căn cứ xây dựng Dự án 661 là Quyết định 
154/2004/QĐ­UB của UBND tỉnh Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát  
triển lâm nghiệp giai đoạn 2002­2010, đến năm 2004 mới ban hành. Công tác 
chỉ đạo giai đoạn 1998­2004 dựa vào Quyết định 2356/QĐ­UB ngày 27/8/1996 
Về  việc phê duyệt dự  án tổng quan lâm nông công nghiệp giai đoạn 1993­
2000. Vì vậy, việc rà soát, sắp xếp lại quỹ đất lâm nghiệp, chuyển mục đích 
sử dụng diện tích vùng phòng hộ không xung yếu sang đất sản xuất chưa kịp  
thời, làm nảy sinh tranh chấp và xâm hại rừng. Việc quản lý và sử  dụng đất  
lâm nghiệp chưa thật chặt chẽ: Từ  năm 2002 trở  về  trước, người dân địa 
phương không có nhu cầu sử  dụng đất rừng. Để  thực hiện Nghị  định 02/CP 

ngày 15/01/1994, chính quyền một số  xã và Lâm trường đã cho tổ  chức, cá 
nhân mượn hoặc thuê đất để trồng cây nguyên liệu, nhưng chưa được sự cho 
phép của cấp có  thẩm quyền và chưa  được  cấp GCNQSDĐ, trong đó có  
người không thuộc hộ khẩu địa phương và tổ chức không có chức năng trồng 
rừng. Đến nay, khi người dân địa phương có nhu cầu đất sản xuất và đòi phải  
trả  lại đất để  chia cho dân, thì chưa giải quyết được vì cây trồng chưa đến 
kỳ  khai thác. Việc thực hiện các giải pháp lâm sinh chưa tạo điều kiện cho 
cây trồng chính phát triển. Suất đầu tư  cho các công trình lâm sinh còn thấp, 
từ  khoán quản lý bảo vệ  rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, đến trồng rừng.  
Tình trạng xâm hại rừng và tranh chấp đất lâm nghiệp diễn ra khá phức  
tạp.Nạn khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép diễn ra nhiều nơi.
IV. ĐỀ  ÁN PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN – MIỀN 
NÚI 
Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh,  Đề án phát triển giao  
thông nông thôn ­ miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2006­2010.
4.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án
­   Mục   tiêu:  Thực   hiện   nhựa   hóa,   cứng   hóa   ít   nhất   1.500   km   tuyến  


đường huyện, xã, thôn, khối phố, trong đó: 
Đường huyện: 500 km, đạt tiêu chuẩn cấp IV, V. Phấn đấu đến năm 
2010 nhựa hóa, cứng hóa bình quân ít nhất 70% tuyến; Đường xã, phường, thị  
trấn (đường xã): 750 km, đạt tiêu chuẩn đường GTNT loại A, B. Phấn đấu 
đến năm 2010 cứng hóa mặt đường BTXM bình quân ít nhất 60% tuyến;  
Đường thôn, khối phố  (Đường thôn): 250 km, đạt tiệu chuẩn GTNT loại A,  
B. Từng bước cứng hóa mặt đường BTXM, gạch hoặc cấp phối các tuyến  
đường thôn, đường ra đồng ruộng. Riêng đường nội phố, bê tông hóa 100%  
các đường hẻm nội thành. 
­ Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 ­ 2010.
­ Phạm vi Đề án: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn).

4.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả  đạt được: Đề  án triển khai phù hợp với chủ  trương  
và yêu cầu thực tiễn. Công tác chỉ đạo được tập trung thực hiệnChính quyền  
các cấp  đã tích cực chỉ  đạo và tổ  chức thực hiện.  Các cơ  chế, chính sách 
được quán triệt sâu rộng trong quần chúng nhân dân, nhất là chủ  trương huy 
động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây  
dựng kết cấu hạ tầng ở xã, phường, thị trấn.
Những tồn tại, hạn chế:   Nguồn vốn bố  trí và huy động thấp so với  
nhu cầu nên khó hoàn thành kế  hoạch:  Nguồn vốn ngân sách bố  trí đầu tư 
mặt đường nhựa, đường BTXM còn rất thấp so với kế  hoạch. Do đó, đến 
năm 2009, tổng số  Km trong toàn tỉnh được nhựa hoá, cứng hoá đạt thấp: 
Đường huyện đạt 41,14%; Đường xã đạt 35,11% so với kế  hoạch. Từ  năm 
2008, tỉnh giao kế  hoạch vốn vay tín dụng  ưu đãi cho UBND các huyện và 
khấu trừ  vào vốn XDCB hàng năm. Theo Đề  án, đầu tư  đường xã thì vốn  
Ngân sách tỉnh bố trí (50% ở xã đồng bằng; 80% ở xã miền núi), còn lại ngân 
sách cấp huyện, cấp xã và các nguồn huy động của xã. Tuy nhiên, nguồn lực  
đầu tư  tại cấp huyện gặp khó khăn về  vốn ngân sách của huyện, xã và huy  
động trong dân. 
Đề án tập trung phần lớn dự án thực hiện trên địa bàn các huyện miền  
núi (chiếm 20/33 dự án giai đoạn 2009­2010) nhưng chủ yếu thực hiện từ các 
nguồn: ngân sách tỉnh, Chương trình 30a, Trái phiếu Chính phủ, Giao thông 
nông thôn 3, còn nguồn ngân sách huyện, xã và huy động trong dân với tỷ lệ 
rất thấp và hầu như không thực hiện được.
Trên địa bàn miền núi, nhiều tuyến đường đạt chất lượng thấp do địa  
hình phức tạp, thiết kế  và nguồn lực đầu tư  thấp.   Các tuyến đường  ở  khu 
vực miền núi những năm qua chủ yếu đầu tư  nền đường và công trình thoát  
nước, còn mặt đường chưa được đầu tư nên thường bị hư hỏng sau mùa mưa  
lũ. 
Qua điều tra xã hội học, phần lớn người dân đều nhận thấy vai trò quan 
trọng  của mạng lưới giao thông và đánh giá mức độ  “hiệu quả  tốt” chiếm 

39,1%. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho thấy hiệu quả  các Đề  án giao 
thông nông thôn còn hạn chế, chiếm 33,9% “chưa hiệu quả  lắm” và 20%  


“không hiệu quả”. 
V. ĐỀ ÁN KIÊN CỐ HÓA KÊNH MƯƠNG ­ THỦY LỢI
Đề  án được thực hiện theo chủ  trương của tỉnh,  Đề  án Chương trình  
Kiên cố hóa kênh mương thủy lợi giai đoạn 2006­2010.
5.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án
­ Mục tiêu:  Kiên cố  hóa (KCH) 500 km kênh mương, trong đó: Kênh 
loại II: 53 km; Kênh loại III: 247 km. Kiên cố  hóa được đầu tư  từ  chương 
trình, dự án lồng ghép khác: 200 km. 
­  Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 ­ 2010.
­ Phạm vi thực hiện: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn).
          5.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả  đạt được:  Đề  án góp phần nâng cao năng lực tưới  
tiêu, phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp.  Đồng bào dân tộc miền núi đã  
bước đầu tiếp cận, tận nguồn thủy lợi để  thâm canh lúa nước, trồng ngô,  
nuôi trồng thủy sản. Đề án được sự quan tâm chỉ đạo điều hành của các cấp, 
các ngành, các tổ chức chính trị. Được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân, 
người dân nhiều nơi tỏ ra tích cực trong việc tham gia phần vốn 30­40% đóng  
góp, nhiều HTX chủ  động vận động thu trước khi có vốn hỗ  trợ  của tỉnh.  
Góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong xây dựng, khái thác và bảo 
vệ  công trình thủy lợi. Một số huyện miền núi như  Sơn Hà, Minh Long nhờ 
thực hiện lồng ghép các nguồn vốn từ  các chương trình khác triển khai trên 
địa bàn, nên đã huy động được nguồn vốn lớn để thực hiện đạt và vượt mục  
tiêu Đề án.
 Những tồn tại, hạn chế: Phương án cân đối nguồn vốn để thực hiện 
mục tiêu chưa khả thi. Việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân vùng  
hưởng lợi  ở các huyện miền núi là rất khó, do đời sống nhân dân còn nghèo, 

nguồn vốn góp của các địa phương cũng hạn chế. Vì vậy, khả  năng cân đối 
ngân sách chưa đáp  ứng được yêu cầu để  thực hiện theo chương trình. Bộ 
máy thực hiện chưa đảm bảo yêu cầu. Do thiếu cán bộ chuyên môn thủy lợi 
và không có bộ  phận chuyên trách đầu tư  XDCB nên các hồ  sơ  thủ  tục, lập  
hồ  sơ  thiết kế  chậm và cơ  chế  quản lý tài chính còn lúng túng. Sự phối hợp  
giữa các Sở, ngành chưa chặt chẽ. Cơ chế kiểm tra, giám sát chưa được thực 
hiện thường xuyên, nghiêm túc.
VI. CHƯƠNG TRÌNH KHUYẾN NÔNG, KHUYẾN NGƯ 
Chương trình Khuyến nông, khuyến ngư được thực hiện theo Nghị định 
số  56/2005/NĐ­CP ngày 26/4/2005 của Chính phủ  về  Khuyến nông, khuyến  
ngư.
6.1. Nội dung, thời gian và phạm vi chương trình
­ Nội dung: Thông tin, tuyên truyền; Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo; 
Xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ; Tư  vấn và dịch vụ; 
Hợp tác quốc tế về khuyến nông, khuyến ngư.
­ Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 ­ 2010.



×