HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
LUẬN VĂN TÓM TẮT
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
CÁC HUYỆN MIỀN NÚI
Học viên:
Lai châu, 2014
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của miền núi, ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
chương trình, dự án và tổ chức triển khai thực hiện trên các lĩnh vực trong
nhiều năm qua, đã góp phần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, làm thay đổi
bộ mặt nông thôn miền núi, tạo cơ sở cho sự phát triển. Ngân sách nhà nước
đầu tư khá lớn cho khu vực miền núi. Tuy nhiên, kinh tế xã hội tại miền núi
vẫn còn rất nhiều khó khăn, bất cập.
Đối với tỉnh Lai Châu, nhiều năm qua Đảng bộ, chính quyền các cấp
cũng rất quan tâm đến đầu tư cho miền núi và chắc chắn trong nhiều năm
đến sẽ có sự đầu tư lớn cho phát triển kinh tế xã hội khu vực miền núi.
Một thực tiễn rất đáng quan tâm là: có nhiều chương trình, dự án triển
khai thực hiện ở miền núi với tổng số vốn đầu tư lớn, nhưng s au khi kết
thúc, tính ổn định, phát huy không được giữ vững hoặc hiệu quả thấp. Do
vậy, cần phải có sự đánh giá khoa học, khách quan về hiệu quả các chương
trình, dự án đầu tư cho miền núi, đánh giá việc tổ chức thực hiện sao cho
đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của chương trình, dự án được triển khai
thực hiện trên địa bàn miền núi.
Tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội
ở các huyện miền núi Lai Châu có nhiều kết quả, nhưng chuyển biến chưa
mạnh, chưa đáp ứng mong đợi của nhân dân và yêu cầu của quản lý. Cơ chế
chính sách cho phát triển kinh tế xã hội miền núi đã có, nhưng trong giai
đoạn hiện nay cần tập trung nhiều hơn nữa cho miền núi, nhất là việc nghiên
cứu, triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQCP để giảm nghèo nhanh
và bền vững. Vấn đề này cần phải có nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ
khoa học để đề xuất một số giải pháp đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế
xã hội các huyện miền núi phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu phát
triển miền núi trong sự phát triển chung của tỉnh.
Từ trước đến nay, hàng năm các cơ quan nhà nước đều có các báo cáo
đánh giá chung tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế
xã hội ở các huyện miền núi Lai Châu và đề ra nhiệm vụ thực hiện cho năm
sau. Những báo cáo này phần nào đã phản ảnh thực trạng và giải pháp phát
triển kinh tế xã hội miền núi. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chưa có
điều kiện để thực hiện dưới góc độ một đề tài khoa học.
Để đánh giá đúng thực trạng tình hình triển khai thực hiện các chương trình,
dự án, chúng ta cần phải dựa trên các phương pháp khoa học, khách quan để xem
xét về những vấn đề liên quan, đề xuất những giải pháp khả thi để tổ chức thực
hiện hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội khu vực miền
núi trong thời gian đến một cách nhanh và bền vững.
Với những lý do chính yếu nêu trên nói lên sự cần thiết để tiến hành
nghiên cứu đề tài này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là:
Đánh giá thực trạng tình hình tổ chức thực hiện các chương trình, chính
sách hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở các huyện miền núi tỉnh Lai
Châu trong giai đoạn 2006 2010. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các
nguồn lực đầu tư ở miền núi.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển
kinh tế xã hội các huyện miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 2015.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển kinh tế xã hội
các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Đánh giá tình hình thực hiện một số
chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội tại các huyện miền
núi tỉnh Lai Châu, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư ở
miền núi.
Xác định một số nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế xã hội các
huyện miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 2015. Đề xuất các giải pháp
góp phần phát triển kinh tế xã hội các huyện miền núi tỉnh Lai Châu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, đề tài dựa trên phương pháp luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận
chủ yếu của đề tài là lý luận Mácxít được sử dụng trong toàn bộ nội dung
của đề tài. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp nhìn nhận mọi sự vật và hiện
tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và chúng luôn vận động, biến đổi,
phát triển không ngừng. Trên cơ sở quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử
cụ thể và quan điểm phát triển để xem xét và phân tích nội dung nghiên cứu
của đề tài. Vận dụng các quan điểm này để làm cơ sở cho việc xem xét các
sự kiện xã hội và quá trình phát triển của xã hội, mà cụ thể là kinh tế xã hội
tại các huyện miền núi tỉnh Lai Châu.
Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, đề tài chủ yếu vận dụng
hướng tiếp cận của Lý thuyết cấu trúc chức năng, Lý thuyết phát triển, quan
điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình thực hiện đề tài. Một
số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài được trình bày ở mục 1.1
Chương 1 báo cáo này.
Các phương pháp cụ thể tiến hành nghiên cứu cụ thể là:
Thu thập, phân tích tài liệu: Thu thập số liệu thống kê, các tài liệu liên
quan đã có từ các cơ quan Trung ương, ở tỉnh, 06 huyện miền núi trong tỉnh.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Sử dụng bảng hỏi được
thiết kế phù hợp cho nội dung cần nghiên cứu (xem Phiếu khảo sát Phụ lục
01). Số lượng mẫu là 1.000 phiếu, được điều tra tại tất cả 06 huyện miền núi
trong tỉnh. Việc xử lý và phân tích số liệu phiếu điều tra được thực hiện bởi
sự trợ giúp của máy vi tính, bằng phần mềm SPSS11.5.
Phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung: Thực hiện với
các đối tượng chủ yếu là cán bộ các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn
thể cấp xã, cấp huyện, tỉnh và một số công dân tại các huyện miền núi.
Phương pháp quan sát, được vận dụng xuyên suốt trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu đề tài
Như tên gọi của đề tài được giao nhiệm vụ là:“Nghiên cứu thực trạng
và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế xã hội các huyện miền
núi tỉnh Lai Châu”, và được giới hạn trong mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên. Thời
gian và kinh phí đầu tư cho nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy, trong quá trình
nghiên cứu “đánh giá thực trạng” ở đây cũng chỉ đi sâu vào một số lĩnh vực
mà đề tài đặt ra. Các giải pháp đề xuất cũng trong khuôn khổ nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã bám sát mục tiêu, nhận diện được
những thành công, bất cập trong một số chính sách, chương trình, dự án đầu
tư phát triển kinh tế xã hội tại các huyện miền núi trong thời gian qua; đề
xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế xã
hội các huyện miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 2015. Vì vậy, đây là
luận cứ khoa học phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quản lý của
tỉnh và trong việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế xã hội miền núi
nhanh và bền vững của Đảng và Nhà nước.
Đề tài góp phần quan trọng trong việc làm rõ thực trạng, đề xuất các
giải pháp có cơ sở khoa học, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội ở miền núi nhanh và bền vững. Vì vậy, đề tài có giá trị thực tiễn, giải
quyết vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa lâu dài, đồng thời góp phần làm
sáng tỏ về mặt lý luận, nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề liên quan đến phát
triển kinh tế xã hội miền núi.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài được thể hiện trong ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2. Đánh giá tình hình thực hiện một số chính sách, chương
trình, dự án phát triển kinh tếxã hội tại các huyện miền núi tỉnh Lai Châu.
Chương 3. Các giải pháp góp phần phát triển kinh tếxã hội các huyện
miền núi tỉnh Lai Châu
PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ
1.1. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của đề tài, các tác giả tập trung tìm hiểu, vận dụng một
số lý thuyết: “Cấu trúc chức năng”, “Lý thuyết phát triển”, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta có liên quan để nghiên cứu đề tài.
1.1.1. Vận dụng Lý thuyết cấu trúc chức năng
Lý thuyết cấu trúc chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà Xã hội
học nổi tiếng như: H. Spencer, E. Durkheim, T. Parsons, là một trong những lý
thuyết quan trọng được sử dụng rộng rãi trong các phân tích xã hội học. Lý
thuyết này nhấn mạnh đến những đóng góp chức năng của mỗi bộ phận trong
xã hội để duy trì cấu trúc cũ, giúp ta vận dụng xem xét cấu trúc kinh tế xã
hội một vùng, một khu vực nhất định (mà ở đây là khu vực miền núi tỉnh
Quảng Ngãi).
Vận dụng lý thuyết cấu trúc chức năng giúp ta nhìn nhận: Xã hội là
một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự ổn
định bền vững của tổng thể. Để giải thích tồn tại của một thiết chế xã hội,
chúng ta phải tìm hiểu hệ thống xã hội, như một tổng thể, đòi hỏi những nhu
cầu của nó phải được thoả mãn như thế nào. Bởi vì chỉ trong một trạng thái
như vậy thì mới bảo đảm cho các chức năng hoạt động mà xã hội luôn trong
trạng thái cân bằng.
Do vậy, khi xem xét về thực trạng và giải pháp triển kinh tế xã hội
miền núi, chúng ta cần thấy được các chức năng mới xuất hiện và có những
chức năng cũ sẽ bị triệt tiêu vì không có cơ sở để tồn tại dẫn đến sự biến đổi
về kinh tế xã hội của cộng đồng dân cư khu vực miền núi. Vận dụng lý
thuyết cấu trúc chức năng phân tích nội dung đề tài “ Nghiên cứu thực trạng
và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế xã hội các huyện miền
núi tỉnh Lai Châu ”; nhằm thấy được cơ cấu mới của cơ cấu xã hội cũng như
chức năng bộ phận của cơ cấu ấy trong phát triển kinh tế xã hội miền núi.
Sự tác động của các bộ phận mới với các chức năng mới sẽ tạo cơ sở cho sự
tồn tại, phát triển của xã hội và dẫn đến sự biến đổi xã hội của cộng đồng
dân cư, trong đó cộng đồng dân cư khu vực nghiên cứu cũng nằm trong mối
quan hệ chung đó.
1.1.2. Vận dụng Lý thuyết phát triển
Lý thuyết phát triển được nhiều nhà khoa học quan tâm và vận dụng
nghiên cứu các vấn đề kinh tế xã hội. Nhưng có rất nhiều quan điểm khác
nhau khi nói đến thuật ngữ “phát triển”. Có quan điểm coi phát triển và tăng
trưởng có cùng nội dung. Chúng ta không thể hiểu phát triển như là một hiện
tượng kinh tế mà phải được xem như là toàn bộ quá trình bao gồm các đặc
điểm kinh tế chính trị xã hội và văn hoá. Trên quan điểm về kinh tế xã
hội, phát triển giúp cho con người hướng tới một cuộc sống đầy đủ hơn, giàu
có hơn.
Lý thuyết về sự phát triển hiện nay đang có xu hướng giảm bớt những
vấn đề thuần tuý có tính kinh tế. Lý thuyết phát triển ngày nay chú ý nhiều
hơn các vấn đề phi kinh tế trong quá trình phát triển, về lĩnh vực văn hoá, xã
hội... Do đó, phát triển xã hội không còn đồng nhất với tăng trưởng kinh tế
mà là sự phát triển một cách tổng thể. Với yêu cầu như vậy, khi vận dụng Lý
thuyết phát triển vào nghiên cứu đề tài đòi hỏi chúng ta phải xây dựng khung
lý thuyết nghiên cứu trên cơ sở của lý thuyết phát triển hiện đại.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đất nước, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định Chiến lược phát triển kinh
tế xã hội giai đoạn 2001 2010; Cùng với những chủ trương, đường lối phát
triển chung của đất nước, công tác Dân tộc và miền núi luôn được Đảng và
Nhà nước xác định có vị trí chiến lược quan trọng. Kế thừa và phát huy kết
quả sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có
Nghị quyết 22NQ/TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị Về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế xã hội miền núi, tình hình miền núi
và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan trọng. Đảng
và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế xã
hội của miền núi và đã có rất nhiều chủ trương lớn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện phát triển kinh tếxã hội trong nhiều năm qua.
Những năm gần đây, trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đều
rất quan tâm và có chủ trương đầu tư ngày càng nhiều cho miền núi. Nghị
quyết số 30a/2008/NQCP của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh
và bền vững đối với 61 huyện nghèo, với quan điểm xoá đói giảm nghèo là
chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân.
Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng dịa phương, nhất là sản
xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã
hội bền vững.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 20112020, được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) xác định:... Đẩy mạnh
giảm nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, không ngừng cải thiện đời sống và
chất lượng dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số.Chú trọng phát triển
hạ tầng kinh tế, xã hội.
Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định nhiệm
vụ trong 5 năm tới đối với vùng trung du, miền núi. Phát triển kinh tế xã hội
hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường liên kết giữa các địa phương
trong vùng theo quy hoạch, khắc phục tình trạng đầu tư trùng lặp, thiếu liên
kết giữa các địa phương trong vùng; ...Tăng cường chính sách hỗ trợ phát
triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
Tỉnh Quảng Ngãi cũng đã có nhiều chủ trương để phát triển kinh tế
xã hội miền núi. Tỉnh ủy khóa XVII đã ban hành Nghị quyết 05NQ/TU Về
phát triển kinh tế xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi 20062010 ;
Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 17/2007/NQHĐND ngày
16/7/2007 nhằm cụ thể hoá Nghị quyết trên và Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây
dựng , ban hành Quyết định số 295/QĐUBND ngày 28/02/2008 Về phê duyệt
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội miền núi của tỉnh đến năm
2010để triển khai thực hiện.
1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.2. Dân cư Dân tộc
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI
1.1. Khái quát chung về thực trạng kinh tế xã hội
Nhìn chung, kinh tế các huyện miền núi đang trong quá trình thoát ra
tình trạng tự cấp tự túc, từng bước tiếp cận thị trường.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 2010 chậm, tăng
13,66%, trong đó NLTS tăng 10,25%; CNXDCB tăng 22,39%; Dịch vụ tăng
18,97%. Tổng giá trị sản xuất toàn vùng (theo giá 1994) năm 2006 đạt 688.904
triệu đồng, năm 2010 ước đạt 1.068.552 triệu đồng.
Về cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng
ngành NLTS giảm dần. Tỷ trọng CNTTCN tăng chậm. Dịch vụ chiếm tỷ
trọng thấp nhưng cáo xu hướng tăng dần.
Tổng thu ngân sách của vùng ngày một gia tăng, năm 2010 đạt 27,831
tỷ đồng, tuy nhiên còn rất nhỏ. Mức thu này chưa thể có tích lũy từ nội bộ
nền kinh tế của các huyện trong vùng mà chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ ngân
sách của cấp trên.
Thu nhập bình quân đầu người được cải thiện, năm 2006 là 3.052 ngàn
đồng, đến năm 2009 là 4.384 ngàn đồng; Lương thực bình quân đầu người
năm 2006 là 296 kg/người/năm, đến năm 2010 là 327 kg/người/năm.
Đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực miền núi được chú trọng, kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển khá, nhất là hệ thống thủy lợi, đường
giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, kè chống xói lở bờ sông... Đến nay,
100% các huyện trong vùng có điện lưới quốc gia và mạng lưới bưu chính
viễn thông.
Lĩnh vực văn hoá xã hội, nhất là giáo dục, y tế, văn hoá thông tin có
những bước tiến triển mới, gắn kết hơn với quá trình phát triển kinh tế xã
hội chung của toàn tỉnh và trong nội bộ vùng.
Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh, tỷ lệ nghèo năm 2010 là
35,23%, chất lượng cuộc sống có mặt được nâng lên. Đời sống vật chất, tinh
thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Thế trận quốc phòng
an ninh được giữ vững. Khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố
và tăng cường.
Tuy nhiên, kinh tế xã hội các huyện miền núi vẫn còn chậm phát triển
và nhiều khó khăn.Tính tự phát, manh mún trong sản xuất còn phổ biến. Sản
xuất nông nghiệp chưa đáp ứng đủ nhu cầu lương thực, thế mạnh kinh tế
rừng chưa được phát huy đúng mức; công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng
còn nhiều yếu kém, một số nơi rừng bị tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hệ thống dịch
vụ còn sơ khai. Tiềm năng du lịch chưa được khai thác. Hệ thống hạ tầng
kinh tế xã hội còn yếu kém. Các vấn đề thiết yếu như: nhà ở, đất ở, đất sản
xuất nông nghiệp, đất rừng, nước sinh hoạt chưa được giải quyết căn bản.
Đời sống của nhân dân trong vùng còn thấp xa so với các vùng khác trong tỉnh.
Trình độ dân trí thấp, điều kiện phát triển giáo dục, y tế khó khăn, học sinh
bỏ học còn nhiều; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao. Đồng bào dân tộc
vẫn còn tồn tại một số tập tục lạc hậu.
1.2. Thực trạng về các ngành kinh tế
1.2.1. Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản
+ Sản xuất Nông nghiệp
Về trồng trọt:
Cây lúa: Từ năm 2001 đến nay, tuy diện tích có tăng có giảm, nhưng
năng suất bình quân trong vùng tăng đều: từ 26,6 tạ/ha (2001), 31,2 tạ/ha
(2005) lên 40,2 (2010) làm cho sản lượng tăng lên.
Cây ngô: Sản xuất ngô có nhiều tiến bộ cả về mở rộng diện tích thâm
canh tăng năng suất. Diện tích ngô lai đang thay thế dần các giống ngô cũ
năng suất thấp. Phương thức trồng ngô thâm canh cũng đang thay thế dần
trồng ngô quảng canh. Năng suất bình quân trong vùng tăng từ: 18,8 tạ/ha
(2001), 21,8 tạ/ha (2005) lên 28,7 tạ/ha (2010).
Cây sắn: Cùng với sự phát triển của hai nhà máy chế biến tinh bột sắn
của tỉnh kéo theo vùng nguyên liệu phát triển không ngừng. Năng suất bình
quân trong vùng tăng từ: 85,8 tạ/ha (2001), 107,9 tạ/ha (2005) lên 134,1 tạ/ha
(2010). Việc phát triển cây sắn hiện nay cần có giải pháp quy hoạch hợp lý
và canh tác khoa học để không dẫn đến phá rừng và huỷ hoại môi trường.
Ngoài ra, trong vùng còn có khoai lang, rau đậu các loại: Diện tích có
lúc giảm lúc tăng, nhưng sản lượng và năng suất các năm đều tăng do áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Cây công nghiệp ngắn ngày: Trong vùng có trồng các loại cây công
nghiệp ngắn ngày như: mía, lạc, vừng… Diện tích mía có tăng có giảm qua
các năm, năng suất bình quân trong vùng không ổn định từ: 372,2 tấn/ha
(2001), 449,9 tấn/ha (2005) giảm còn 336,6 tấn/ha (2010). Diện tích và sản
lượng cây lạc tuy có tăng có giảm, nhưng năng suất lại ngày càng tăng. Năm
2001 diện tích 1.340 ha, sản lượng 1.643 tấn, năng suất chỉ đạt 12,3 tạ/ha. Đế
năm 2008 diện tích giảm xuống còn 872 ha, nhưng nhờ năng suất tăng lên
15,7 tạ/ha nên sản lượng đạt 1.358 tấn. Diện tích trồng cây vừng tuy có tăng
có giảm, nhưng năng suất và sản lượng hàng năm đều tăng. Năm 2001 diện
tích 29,0 ha đến 2002 diện tích tăng lên 74,0 ha, nhưng năm 2008 diện tích lại
giảm xuống còn 63,0 ha. Năng suất tăng từ 1,7 tạ/ha năm 2001 lên 3,9 tạ/ha
năm 2008. Sản lượng tăng từ 5,0 tấn năm 2001 lên 24,3 tấn năm 2008.
Cây công nghiệp dài ngày: Cây quế (Diện tích 2.521 ha, sản lượng
2.255 tấn); Cây cau (Diện tích 620 ha, sản lượng 6.875 tấn); Cây chè (Diện
tích 140 ha, sản lượng 252 tấn);
Cây ăn quả: Diện tích 663 ha, sản lượng 3.434 tấn. Trồng phân tán
trong vườn các hộ gia đình.
Về chăn nuôi:
+ Đàn trâu, bò: Hình thức chăn nuôi hiện nay vẫn là chăn nuôi quảng
canh, chưa phát triển thành các trang trại chăn nuôi tập trung trong khi vùng có
các điều kiện để phát triển. Số lượng đàn trâu, bò có xu hướng ngày càng gia
tăng.
Đàn lợn: Số lượng đàn lợn tương đối ổn định, tuy có năm tăng, năm
giảm.
+ Đàn gia cầm: Sản lượng thịt gia cầm trong 5 năm trở lại đây có xu
hướng gia tăng, năm 2004 sản lượng thịt gia cầm 290 tấn đến năm 2008 tăng
lên 560 tấn.
Nhìn chung, chăn nuôi chậm phát triển so với trồng trọt, chủ yếu
hướng tự cung, tự cấp, chưa định hướng sản xuất hàng hóa.
Ngành lâm nghiệp
Diện tích đất lâm nghiệp hiện nay là 175.307,1 ha chiếm 54,18% diện
tích tự nhiên toàn tỉnh. Năm 2006 tổng doanh thu của ngành lâm nghiệp là
56.460 triệu đồng, chiếm 17,02% giá trị ngành Nông Lâm Ngư nghiệp.
Ngoài diện tích rừng tự nhiên đã được khoán bảo vệ, chăm sóc hàng năm. Các
huyện miền núi còn tiến hành trồng, khoanh nuôi, tái sinh bảo vệ được diện
tích rừng khá lớn. Công tác trồng rừng và bảo vệ rừng được quan tâm trong
những năm gần đây. Diện tích rừng trồng chủ yếu các cây Sao đen, Lim, Dầu,
keo, bạch đàn, quế… Keo hiện nay chiếm diện tích khá lớn, năng suất bình
quân khu vực trong khoảng từ 70 88 tấn/ha và ngày càng đem lại nguồn lợi
kinh tế khá cao.
Thủy sản
Ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản của vùng miền núi quá nhỏ bé,
sản lượng và giá trị sản phẩm không đáng kể, chủ yếu chỉ đáp ứng một phần
nhu cầu nội vùng. Năm 2008, tổng sản lượng thủy sản toàn vùng đạt 210 tấn.
Tiềm năng khai thác không lớn.
1.2.2. Công nghiệp Tiểu thủ công nghiệp, Xây dựng
Trong những năm qua, ngành Công nghiệp Tiểu thủ công nghiệp và
Xây dựng đã có sự phát triển đáng kể. Hầu hết các cơ sở công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và xây dựng đều nhỏ bé và tập trung ở các thị trấn, trung tâm
huyện lỵ và các trung tâm cụm xã. Tuy nhiên, ngành công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu giá trị sản xuất của
vùng. Năm 2008, trên toàn địa bàn 06 huyện miền núi có tổng số 1.605 cơ sở
thì hầu hết đều thuộc loại hình hộ kinh doanh cá thể và tư nhân (1.600 cơ sở),
chỉ có 02 cơ sở sản xuất thuộc loại hình nhà nước, 03 cơ sở tập thể.
1.2.3. Thương mại Dịch vụ và Du lịch
Những sản phẩm hàng hóa của vùng trao đổi với bên ngoài chủ yếu là
gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ, cây mía, cây quế và một số lâm sản khác.
Còn các sản phẩm nhập vào trong vùng là nguyên vật liệu xây dựng, nhiên
liệu, phân bón, lương thực và đồ dùng phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Về dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá, ngày càng chiếm tỷ trọng đáng
kể trong cơ cấu kinh tế. Các hoạt động dịch vụ vận tải, ngân hàng phát triển,
có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của vùng. Tuy nhiên, vận tải
trong vùng chủ yếu là đường bộ, phương tiện chính là xe ô tô và chưa đáp
ứng được nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa trong vùng.
Du lịch trên địa bàn chưa được đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng còn quá
khó khăn, khâu dịch vụ chưa phát triển.
1.3. Thực trạng về xã hội và an ninh quốc phòng
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng cho đồng bào dân tộc
trong vùng từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp về cơ sở vật chất, đội
ngũ cán bộ y tế được tăng cường. Các chương trình y tế đều đạt kế hoạch đề
ra, góp phần hạ thấp tỷ lệ các bệnh như sốt rét, bướu cổ...Tuy nhiên, tỷ lệ
mắc bệnh và tử vong trong vùng còn cao. Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y
tế hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu.
Việc xây dựng đời sống văn hóa, nhất là Phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” và các chính sách phát triển văn hóa của nhà nước
trong vùng tiếp tục được chú trọng thực hiện.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo được các cấp, các ngành quan tâm, hiện
nay tỷ lệ học sinh tới trường đạt 80% so với độ tuổi đi học. Tuy nhiên, chất
lượng giáo dục trên địa bàn vẫn còn thấp, nhất là trong vùng các xã đặc biệt
khó khăn. Hệ thống trường lớp và trang thiết bị còn thiếu, phòng học tranh
tre, phòng tạm vẫn còn. Hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
sự nghiệp giáo dục.
Công tác ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật được triển khai thực
hiện bằng nhiêu mô hình. Năng lực cán bộ chuyển giao tuy đã có kiến thức và
kinh nghiệm nhưng còn rất thiếu trang thiết bị, phương tiện. Cơ sở vật chất
kỹ thuật tại các huyện còn thiếu nhiều và quá sơ sài.
Về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội ở các huyện miền núi
luôn được ổn định và giữ vững. Thực hiện có kết quả các chủ trương về xây
dựng khu vực phòng thủ, phong trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
1.4. Thực trạng kết cấu hạ tầng
Hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng lớn đến việc lưu
thông kinh tế giữa các địa phương trong vùng, đặc biệt vào mùa mưa. Các
tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ nhìn chung đã được xây dựng tương đối khá,
một số tuyến khác đang có dự án đầu tư. Nhiều tuyến đường liên xã, thôn
xóm còn quá kém, hệ thống cầu cống và hệ thống thoát nước đã có nhưng còn
nhiều hạn chế.
Về thủy lợi: Trong vùng hiện có 279 công trình thủy lợi, tổng diện tích
tưới 4.128 ha. Tuy nhiên, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất của người
dân.
Về điện năng: Hệ thống điện chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và
sinh hoạt. Hiện nay số hộ có điện trong vùng chỉ là 34.140 hộ, chiếm 81%
toàn vùng.
Hệ thống cấp nước sinh hoạt : Chương trình NS&VSMTNT cùng với
các nguồn từ các chương trình khác đã đầu tư 162 công trình với tổng vốn
khoảng 53.978 triệu đồng, cấp nước cho khoảng 9.997 hộ, nâng tổng số hộ
được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến năm 2010 chiếm khoảng
76,83% dân số toàn vùng.
Về bưu chính viễn thông: Nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản
của dịch vụ bưu chính viễn thông trong vùng. Toàn vùng có 15.167 máy điện
thoại cố định, bình quân 7,63 máy/100 dân, tổng số thuê bao Internet là 786
thuê bao.
Về văn hóa thông tin: Đến nay, trong vùng đã có 6 đài truyền thanh
phát lại truyền hình, tập trung vào tuyên truyền đường lối chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị địa phương. Hệ
thống văn hóa thông tin mới chỉ đáp ứng được ở khu vực trung tâm huyện và
các trung tâm cụm xã, còn đối với các khu vực vùng sâu, vùng xa chưa được
đầu tư nhiều để đảm bảo yêu cầu thiết yếu.
Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thể dục thể thao chưa phát triển.
Toàn vùng hiện có 17 sân vận động, vận động viên chủ yếu chỉ tập trung từ
các xã, thị trấn khi có phong trào thi đấu.
Hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường chưa được chú trọng đầu
tư. Phương thức sản xuất lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, ảnh
hưởng không ít đến đời sống của nhân dân, là mầm mống gây ra các dịch
bệnh.
Tóm lại, cả sáu huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi đều là những huyện
nghèo và có sự phát triển không đồng đều theo vùng lãnh thổ và theo lĩnh vực
sản xuất.
Theo vùng lãnh thổ, có huyện có điều kiện phát triển mạnh như Ba Tơ,
Sơn Hà, Trà Bồng; có huyện kinh tế khó phát triển hơn như: Tây Trà, Sơn
Tây, Minh Long. Có huyện cơ sở hạ tầng khá như: Ba Tơ, Sơn Hà; có huyện
cơ sở hạ tầng yếu kém như Tây Trà, Sơn Tây.
Theo lĩnh vực sản xuất, có huyện có hướng phát triển công nghiệp vì
nguyên liệu dồi dào như: Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, nhưng cũng có huyện ít
có lợi thế phát triển công nghiệp mà chỉ phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng
nghề, như Tây Trà, Sơn Tây.
Thực trạng nêu trên là những chỉ báo rất đáng quan tâm trong quá trình
đầu tư phát triển kinh tế xã hội miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong những năm
đến.
Chương 2.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH,
CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
TẠI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI
I. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CÁC XÃ
ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN MIỀN NÚI VÀ VÙNG SÂU VÙNG XA (CHƯƠNG
TRÌNH 135)
1.1. Chương trình 135 giai đoạn I
a. Nội dung của Chương trình là: Quy hoạch bố trí lại dân cư ở
những nơi cần thiết; Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, gắn
với chế biến, tiêu thụ sản phẩm; Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp
với quy hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư; Quy hoạch và xây dựng các trung
tâm cụm xã; Đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, sóc.
Thời gian thực hiện: Từ năm 19992005.
Phạm vi thực hiện trên địa bàn các xã ĐBKK, cụ thể: Năm 1999:22
xã; năm 2000: 44 xã; từ năm 20012005: 57 xã.
b. Đánh giá kết quả
Những kết quả đạt được:
Chương trình đã góp phần xây dựng được hệ thống CSHT quan trọng,
là lực lượng vật chất to lớn làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo tiền đề cho
phát triển vùng dân tộc và miền núi. Đưa kỹ thuật canh tác mới với những
giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, chất lượng tốt đã dần thay thế những
tập quán sản xuất lạc hậu; diện tích khai hoang ruộng lúa nước và năng lực
tưới tiêu tăng lên giúp ổn định một phần lương thực. Góp phần cải thiện đời
sống của đồng bào trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế và sức
khỏe cộng đồng: Về cơ bản trên địa bàn không còn hộ đói kinh niên, tốc độ
giảm nghèo hàng năm khá, từ 65% (trước khi có Chương trình) xuống còn
23,84% (cuối năm 2005), bình quân giảm 45%/năm. Hầu hết các xã đều có
trường tiểu học và THCS kiên cố, thu hút trên 95% số trẻ em tiểu học, trên 75
% trẻ em THCS trong độ tuổi đến trường; nhiều địa phương đã hoàn thành
phổ cập giáo dục THCS; có trạm y tế đã ngăn chặn cơ bản các dịch bệnh; đời
sống văn hoá được nâng cao một bước, văn hoá truyền thống của các dân tộc
được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các dự án quy hoạch sắp xếp lại dân cư
đã góp phần ổn định đời sống, giúp đồng bào được tiếp cận các hạ tầng kỹ
thuật, dịch vụ xã hội.
Những tồn tại, hạn chế:
Về tổ chức thực hiện: Chưa sát thực tế nên dẫn đến nhiều biến
động về số xã thuộc Chương trình: Số xã thuộc diện đầu tư đã tăng dần từ
21 đến 57 xã. Chưa có chính sách khuyến khích các địa phương thoát khỏi
Chương trình.Chỉ có 14/57 xã hoàn thành mục tiêu, đạt tỷ lệ rất thấp 24,56%.
Mặt khác, do không có sự đánh giá khách quan và tâm lý không muốn thoát
khỏi Chương trình. Công tác quản lý, chỉ đạo các dự án chưa được tập trung.
Sự phối hợp giữa Ban chỉ đạo và các Sở, ngành chưa được chặt chẽ, đồng
bộ. Công tác tuyên truyền phổ biến chưa được quan tâm đúng mức. Nhiệm
vụ giám sát thiếu chặt chẽ, kém hiệu lực. Thực hiện đầu tư còn dàn trãi,
chưa đồng bộ. Nội dung thiếu mục tiêu cụ thể cho từng vùng đầu tư. Dự án
quy hoạch bố trí lại dân cư chỉ mới thực hiện được việc hỗ trợ dãn dân, công
tác quy hoạch dân cư chỉ dừng ở bước lập dự án quy hoạch... Trong xây dựng
CSHT, cơ cấu đầu tư còn nặng về các công trình giao thông (chiếm 42,90%);
trong khi vốn đầu tư cho thủy lợi (33,75%), nước sinh hoạt (7,39%), điện
(3,6%), trường học (11,35%) và khai hoang (0,68%) là chưa hợp lý.
Về quản lý các nguồn vốn đầu tư: Chương trình do UBND các
huyện trực tiếp quản lý, trong khi trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế. Tuy
chưa có vi phạm lớn nhưng còn biểu hiện những sai sót và lãng phí. Quy trình
chọn và đánh giá nhà thầu thi công chưa tốt. Ở nhiều địa phương chọn nhà
thầu không đủ năng lực. Công tác nghiệm thu thiếu cán bộ có chuyên môn phù
hợp; một số công trình chưa đảm bảo chất lượng. Một số địa phương có thực
hiện huy động dân khai thác vật liệu xây dựng tại chỗ, tham gia xây dựng
công trình nhưng tỷ lệ rất thấp. Hầu hết, các công trình CSHT do nhà thầu
làm, sự tham gia của người dân bản xứ là rất thấp. Một số nơi, việc lựa chọn
công trình ít được thảo luận rộng rãi với dân, hoặc chỉ là hình thức, nên đầu
tư không hợp lý, kém hiệu quả.
Về công tác quản lý vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình: UBND
tỉnh đã ban hành Quy chế quản lý, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp và
khai thác các công trình cơ sở hạ tầng tại xã miền núi. Tuy nhiên, nguồn lực
chủ yếu để thực hiện là công lao động của nhân dân địa phương và vốn duy
tu, bảo dưỡng của địa phương rất hạn hẹp, việc thực hiện còn nhiều bất
cập.
Về lồng ghép các chương trình, dự án: Có gặp nhiều khó khăn do mỗi
chương trình, dự án đầu tư đều có mục tiêu, cơ quan chủ trì riêng, cơ chế
quản lý và thời điểm thực hiện khác nhau, cùng với những hạn chế trong
công tác quy hoạch và cơ chế lồng ghép không rõ ràng nên hiệu quả chưa cao,
chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực đầu tư.
1.2. Chương trình 135 giai đoạn II (2006 2010)
a. Nội dung của chương trình là: Hỗ trợ phát triển sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất của đồng bào các dân
tộc; Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó
khăn; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính
và kinh tế; đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng; Trợ giúp pháp lý để nâng
cao nhận thức pháp luật.
Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 2010.
Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Gồm 43 xã ĐBKK miền núi và 31
thôn ĐBKK thuộc các xã khu vực II.
b. Đánh giá kết quả thực hiện
Những kết quả đạt được:
Chương trình đã đạt được phần lớn các nội dung; về cơ bản, không còn
tình trạng hộ đói thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo của các xã, thôn ĐBKK đã
giảm từ 71,56% đầu năm 2006 xuống còn 44,24% vào giữa năm 2010 (giảm
27,32%, bình quân mỗi năm giảm khoảng 5,5%).
Một số chỉ tiêu đạt kế hoạch: Tỷ lệ xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm
bảo phục vụ cho sản xuất đạt 93,33% (MT 80%); Tỷ lệ thôn bản có điện ở
các cụm dân cư đạt 88,81% (MT 80%); Tỷ lệ học sinh tiểu học trong độ tuổi
được đến trường là 99,53% (MT 95%); Tỷ lệ học sinh THCS trong độ tuổi
được đến trường là 91,17% (MT 75%); Tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh đạt
52,33% (MT 50%); Tỷ lệ người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ
pháp luật miễn phí là 100 % (MT 95%).
Về phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sản xuất nông
nghiệp đã có bước phát triển đáng kể nhờ áp dụng giống cây trồng, vật nuôi
mới và ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, năng suất cây trồng, vật
nuôi tăng lên. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã từng bước thay thế dần tập
quán sản xuất lạc hậu. Tỷ lệ hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trên
3,5 triệu đồng/năm của vùng tăng từ 26,71% năm 2006 lên 44,59% vào năm
2010.
Về hoàn thiện cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu tại
các địa bàn ĐBKK đã được quy hoạch và triển khai thực hiện đầu tư từ
nguồn vốn của CT 135II, cùng với nguồn lực từ các chương trình, dự án khác
đã cơ bản phục vụ được phần lớn những yêu cầu cấp thiết nhất trong sản
xuất và sinh hoạt của người dân tại các địa bàn này.
Đời sống văn hoá, xã hội đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học
sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đến trường đều cao;
số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, số hộ được sử dụng điện
đều tăng và đạt mục tiêu của Chương trình.
Về nâng cao năng lực: Trình độ, năng lực quản lý CT 135II cũng như
các chương trình, chính sách khác của cán bộ cấp xã và thôn được nâng lên
một bước; đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn đã được trang bị các kiến thức, kỹ
năng về quản lý điều hành, quản lý đầu tư cũng như trình độ chuyên môn
nghiệp vụ về xóa đói giảm nghèo. Vì vậy, trong giai đoạn 20062010, số
lượng xã được giao làm chủ đầu tư các dự án, chính sách thuộc CT 135II
tăng lên: năm 2006 có 13,95%, đến năm 2010 có 81,3% xã; h ợp phần Hỗ trợ
sản xuất đến năm 2008 có 100% xã làm chủ đầu tư. Năng lực của cộng đồng
được nâng lên, ngày càng có nhiều hộ biết áp dụng khoa học kỹ thuật và sử
dụng loại giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao vào sản
xuất để tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân.
Những tồn tại, hạn chế:
Các mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt được: Mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo:
Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn ĐBKK của tỉnh năm 2010 đã giảm 27,32% so
với năm 2006. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức khá cao là 44,24% (MT dưới 30%).
Về phát triển cơ sở hạ tầng: Tỷ lệ xã có đường giao thông cho xe cơ
giới từ trung tâm xã đến thôn bản chỉ đạt 76,8% (MT 80%); Tỷ lệ xã có đủ
trường học, lớp học kiên cố chỉ đạt 95,34% (MT 100%); Tỷ lệ xã có Trạm y
tế kiên cố, đúng tiêu chuẩn chỉ đạt 51,16% (MT 100%).
Về phân cấp cho cấp xã làm chủ đầu tư: Chỉ có 81,3% số xã ĐBKK
được giao làm chủ đầu tư các công trình CSHT (MT 100%).
Chỉ có 01xã hoàn thành mục tiêu chương trình (xã Ba Dinh, huyện Ba
Tơ). Qua điều tra lấy ý kiến nhân dân về Chương trình, có 45,5% ý kiến cho
rằng“chưa hiệu quả lắm” so với 30,6% ý kiến “hiệu quả tốt”.
Trong chỉ đạo, điều hành: Việc tổ chức triển khai chương trình còn
nhiều lúng túng, nhiều văn bản hướng dẫn ban hành chậm. Một số nội dung
của văn bản hướng dẫn phải sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho các địa
phương.
Trong tổ chức thực hiện: Việc phân bổ vốn thực hiện Chương trình
còn chậm, thường phân thành nhiều đợt đã gây khó khăn cho các địa phương
trong việc lập kế hoạch tổ chức thực hiện cũng như giải ngân vốn. Nguyên
tắc “xã có công trình, dân có việc làm, tăng thêm thu nhập từ việc tham gia
lao động công trình tại xã” chưa được thực hiện tốt. Vai trò và nhiệm vụ của
một số cơ quan cấp tỉnh, huyện trong quá trình tham mưu và tổ chức chỉ đạo
thực hiện Chương trình có lúc, có việc thiếu đồng bộ, chưa kịp thời. Công tác
quản lý, tổ chức triển khai thực hiện của cán bộ xã nhiều nơi còn lúng túng,
gặp nhiều khó khăn.
II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẤT SẢN SUẤT, ĐẤT Ở,
NHÀ Ở VÀ NƯỚC SINH HOẠT CHO HỘ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ NGHÈO, ĐỜI SỐNG KHÓ KHĂN (CHƯƠNG TRÌNH 134)
2.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình
Nội dungchương trình: Giao đất sản xuất nương rẫy, đất ruộng lúa;
Giao đất ở tối thiểu cho hộ đồng bào; Hỗ trợ nhân dân xây dựng nhà ở theo
phương châm: Nhân dân tự làm, nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ; Hỗ
trợ giải quyết nước sinh hoạt tập trung, phân tán.
Thời gian thực hiện: Từ năm 2005 2008.
Phạm vi thực hiện: 67 xã, 329 thôn thuộc 9 huyện (trọng tâm là 6
huyện miền núi). Số hộ thụ hưởng là: 13.907 hộ, được điều chỉnh lên 29.019
hộ.
2.2. Đánh giá kết quả
Những kết quả đạt được: Chương trình bước đầu đã giải quyết cơ
bản tình trạng khó khăn về đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt: Khai thác được
tiềm năng đất đai, lao động và cải thiện đời sống người dân; đảm bảo một
bộ phận đồng bào có điều kiện phát triển sản xuất, tạo cơ hội phấn đấu,
nâng cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ để vươn lên thoát nghèo. Quy chế
dân chủ được phát huy: Việc hỗ trợ một số chính sách được công khai dân
chủ từ khâu lập và phân bổ kế hoạch, đến khâu giám sát thực hiện; công tác
xã hội hóa trong việc kiểm tra, giám sát đã được hình thành và rõ nét hơn
trong mỗi người dân. Nhiều địa phương đã chủ động thực hiện tốt các
phương thức quản lý dự án: Nhiều xã thực hiện tốt trách nhiệm ký kết hợp
đồng xây nhà cho dân (trường hợp hộ dân có nhu cầu) và đã làm tốt vai trò
chủ đầu tư xây dựng công trình nước sinh hoạt tập trung. Nhận thức của
người dân địa phương về chính sách của nhà nước được nâng lên. Ý thức
tương trợ giúp đỡ trong cộng động cũng được nâng cao. Giải quyết cơ bản
vấn đề nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt: Hỗ trợ cho 15.333 hộ có nhà ở
được cứng hoá khung nhà, 597 hộ có đủ đất sản xuất và đại bộ phận cư dân
trên vùng được dùng nước sạch, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Những tồn tại, hạn chế: Công tác điều tra, khảo sát còn hạn chế:
Một số huyện điều tra thiếu chính xác, dẫn đến chỉ tiêu một số chính sách
trong Đề án không sát với thực tế. Nguyên nhân là lực lượng và điều kiện để
điều tra, khảo sát ban đầu gặp nhiều khó khăn, Trung ương quy định thời gian
điều tra, khảo sát, lập Đề án là quá ngắn. Một số quy định về chính sách
chưa phù hợp thực tế: Đối tượng thụ hưởng ở các xã thuộc các khu vực I, II,
III có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và khả năng nguồn lực của từng địa
phương khác nhau, nhưng mức hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất theo kiểu bình quân
là chưa phù hợp; Mức hỗ trợ khai hoang, đền bù thu hồi đất 6 triệu đồng/ha là
quá thấp. Do đó, địa phương gặp nhiều lúng túng, chưa tạo được cơ hội cho
đồng bào có đủ đất sản xuất. Về công tác tổ chức thực hiện còn hạn chế.
Chưa ban hành các quy định về huy động, lồng ghép các nguồn vốn; hướng
dẫn cơ chế lồng ghép các nguồn vốn và cân đối nguồn vốn lồng ghép trên địa
bàn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện Chương trình đạt hiệu
quả cao. Việc phân công cán bộ cấp huyện, xã còn phải kiêm nhiệm nhiều
chương trình, nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, khối lượng công việc nhiều, nên
công tác chỉ đạo chưa được tập trung. Công tác khảo sát thiết kế công trình
tồn tại nhiều yếu kém. Nhiều công trình nước sinh hoạt không phát huy hiệu
quả do khảo sát nguồn nước; công suất thiết kế không phù hợp với nguồn
nước và nhu cầu sử dụng. Nhiều công trình bảo quản kém nên chỉ cần hư
hỏng nhỏ ở đầu nguồn là công trình không sử dụng được. Công tác sơ kết rút
kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm cho cộng đồng, nhân rộng điển hình chưa
kịp thời.
III. DỰ ÁN TRỒNG MỚI 5 TRIỆU HA RỪNG (DỰ ÁN 661)
3.1.Nội dung dự án, thời gian, phạm vi Dự án
Nội dung: Bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện có; Thực hiện ngay từ giai
đoạn đầu việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân gắn
với định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo để bảo vệ, khoanh nuôi rừng kết
hợp trồng bổ sung và trồng mới; Trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ rừng đặc
dụng và trồng 3 triệu ha rừng sản xuất.
Thời gian thực hiện: Từ năm 1998 2010.
Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Trên địa bàn 10 huyện, với quy
hoạch tiềm năng đất trồng rừng đã phê duyệt đến năm 2010 là 46.000 ha
(trong đó: 6 huyện miền núi là 35.100 ha, chiếm 76,30% diện tích).
3.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả đạt được: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế, chính sách thực hiện Dự án: Được thực hiện từ Trung ương,
đến địa phương kịp thời và rõ ràng, giúp các cấp chính quyền làm cơ sở triển
khai thực hiện. Công tác chỉ đạo, điều hành: Việc tổ chức, hoạt động của
Ban chỉ đạo, Ban quản lý Dự án 661 được sự chỉ đạo thống nhất và xuyên
suốt từ Chính phủ đến các cấp chính quyền địa phương. Việc đầu tư NSNN,
huy động vốn: Việc đầu tư NSNN và thu hút được nhiều nguồn vốn khác để
thực hiện dự án là nỗ lực lớn nhằm phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện
môi trường, xóa đói giảm nghèo cho người dân tham gia nghề rừng. Việc thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của Dự án: Đến nay, tỉnh cơ bản thực
hiện bằng và vượt so với kế hoạch được giao: Trồng mới và chăm sóc rừng
phòng hộ: 21.132 ha/19.550 ha, đạt 108%; Quản lý bảo vệ rừng:
554.265/382.100 ha, đạt 145,1%; Khoanh nuôi tái sinh rừng: 73.271/82.724 ha,
đạt 88,6%. Diện tích thành rừng là 66.529 ha. Hiệu quả về kinh tế xã hội,
môi trường của Dự án: Từ năm 1998 2009, diện tích có rừng tăng từ
126.602 ha lên 234.799 ha, độ che phủ tăng từ 24,6% lên 41,68%. Kết quả
Quy hoạch lại 3 loại rừng tạo điều kiện quản lý chặt chẽ rừng phòng hộ,
giao cho các BQL rừng phòng hộ và chính quyền địa phương quản lý. Dự án
đã đưa gần 80.000 ha đất trống đồi núi trọc để trồng rừng, giao khoán hàng
trăm nghìn lượt ha bảo vệ và khoanh nuôi rừng, tạo việc làm cho gần 10.000
hộ, hình thành trong cộng đồng dân cư miền núi biết làm nghề rừng, giữ rừng
và xóa bỏ dần tập quán du canh du cư phát rừng làm nương rẫy. Qua điều tra
cho thấy người dân đánh giá cao việc thực hiện chương trình, với 86,1% ý
kiến cho là có hiệu quả.
Những tồn tại, hạn chế: Công tác chỉ đạo triển khai chưa kịp thời:
Một số văn bản quan trọng để chỉ đạo thực hiện dự án chưa kịp thời. Trong
đó, văn bản quan trọng nhất để làm căn cứ xây dựng Dự án 661 là Quyết định
154/2004/QĐUB của UBND tỉnh Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển lâm nghiệp giai đoạn 20022010, đến năm 2004 mới ban hành. Công tác
chỉ đạo giai đoạn 19982004 dựa vào Quyết định 2356/QĐUB ngày 27/8/1996
Về việc phê duyệt dự án tổng quan lâm nông công nghiệp giai đoạn 1993
2000. Vì vậy, việc rà soát, sắp xếp lại quỹ đất lâm nghiệp, chuyển mục đích
sử dụng diện tích vùng phòng hộ không xung yếu sang đất sản xuất chưa kịp
thời, làm nảy sinh tranh chấp và xâm hại rừng. Việc quản lý và sử dụng đất
lâm nghiệp chưa thật chặt chẽ: Từ năm 2002 trở về trước, người dân địa
phương không có nhu cầu sử dụng đất rừng. Để thực hiện Nghị định 02/CP
ngày 15/01/1994, chính quyền một số xã và Lâm trường đã cho tổ chức, cá
nhân mượn hoặc thuê đất để trồng cây nguyên liệu, nhưng chưa được sự cho
phép của cấp có thẩm quyền và chưa được cấp GCNQSDĐ, trong đó có
người không thuộc hộ khẩu địa phương và tổ chức không có chức năng trồng
rừng. Đến nay, khi người dân địa phương có nhu cầu đất sản xuất và đòi phải
trả lại đất để chia cho dân, thì chưa giải quyết được vì cây trồng chưa đến
kỳ khai thác. Việc thực hiện các giải pháp lâm sinh chưa tạo điều kiện cho
cây trồng chính phát triển. Suất đầu tư cho các công trình lâm sinh còn thấp,
từ khoán quản lý bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, đến trồng rừng.
Tình trạng xâm hại rừng và tranh chấp đất lâm nghiệp diễn ra khá phức
tạp.Nạn khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép diễn ra nhiều nơi.
IV. ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN – MIỀN
NÚI
Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh, Đề án phát triển giao
thông nông thôn miền núi tỉnh Lai Châu giai đoạn 20062010.
4.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án
Mục tiêu: Thực hiện nhựa hóa, cứng hóa ít nhất 1.500 km tuyến
đường huyện, xã, thôn, khối phố, trong đó:
Đường huyện: 500 km, đạt tiêu chuẩn cấp IV, V. Phấn đấu đến năm
2010 nhựa hóa, cứng hóa bình quân ít nhất 70% tuyến; Đường xã, phường, thị
trấn (đường xã): 750 km, đạt tiêu chuẩn đường GTNT loại A, B. Phấn đấu
đến năm 2010 cứng hóa mặt đường BTXM bình quân ít nhất 60% tuyến;
Đường thôn, khối phố (Đường thôn): 250 km, đạt tiệu chuẩn GTNT loại A,
B. Từng bước cứng hóa mặt đường BTXM, gạch hoặc cấp phối các tuyến
đường thôn, đường ra đồng ruộng. Riêng đường nội phố, bê tông hóa 100%
các đường hẻm nội thành.
Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 2010.
Phạm vi Đề án: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn).
4.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả đạt được: Đề án triển khai phù hợp với chủ trương
và yêu cầu thực tiễn. Công tác chỉ đạo được tập trung thực hiệnChính quyền
các cấp đã tích cực chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Các cơ chế, chính sách
được quán triệt sâu rộng trong quần chúng nhân dân, nhất là chủ trương huy
động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây
dựng kết cấu hạ tầng ở xã, phường, thị trấn.
Những tồn tại, hạn chế: Nguồn vốn bố trí và huy động thấp so với
nhu cầu nên khó hoàn thành kế hoạch: Nguồn vốn ngân sách bố trí đầu tư
mặt đường nhựa, đường BTXM còn rất thấp so với kế hoạch. Do đó, đến
năm 2009, tổng số Km trong toàn tỉnh được nhựa hoá, cứng hoá đạt thấp:
Đường huyện đạt 41,14%; Đường xã đạt 35,11% so với kế hoạch. Từ năm
2008, tỉnh giao kế hoạch vốn vay tín dụng ưu đãi cho UBND các huyện và
khấu trừ vào vốn XDCB hàng năm. Theo Đề án, đầu tư đường xã thì vốn
Ngân sách tỉnh bố trí (50% ở xã đồng bằng; 80% ở xã miền núi), còn lại ngân
sách cấp huyện, cấp xã và các nguồn huy động của xã. Tuy nhiên, nguồn lực
đầu tư tại cấp huyện gặp khó khăn về vốn ngân sách của huyện, xã và huy
động trong dân.
Đề án tập trung phần lớn dự án thực hiện trên địa bàn các huyện miền
núi (chiếm 20/33 dự án giai đoạn 20092010) nhưng chủ yếu thực hiện từ các
nguồn: ngân sách tỉnh, Chương trình 30a, Trái phiếu Chính phủ, Giao thông
nông thôn 3, còn nguồn ngân sách huyện, xã và huy động trong dân với tỷ lệ
rất thấp và hầu như không thực hiện được.
Trên địa bàn miền núi, nhiều tuyến đường đạt chất lượng thấp do địa
hình phức tạp, thiết kế và nguồn lực đầu tư thấp. Các tuyến đường ở khu
vực miền núi những năm qua chủ yếu đầu tư nền đường và công trình thoát
nước, còn mặt đường chưa được đầu tư nên thường bị hư hỏng sau mùa mưa
lũ.
Qua điều tra xã hội học, phần lớn người dân đều nhận thấy vai trò quan
trọng của mạng lưới giao thông và đánh giá mức độ “hiệu quả tốt” chiếm
39,1%. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho thấy hiệu quả các Đề án giao
thông nông thôn còn hạn chế, chiếm 33,9% “chưa hiệu quả lắm” và 20%
“không hiệu quả”.
V. ĐỀ ÁN KIÊN CỐ HÓA KÊNH MƯƠNG THỦY LỢI
Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh, Đề án Chương trình
Kiên cố hóa kênh mương thủy lợi giai đoạn 20062010.
5.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án
Mục tiêu: Kiên cố hóa (KCH) 500 km kênh mương, trong đó: Kênh
loại II: 53 km; Kênh loại III: 247 km. Kiên cố hóa được đầu tư từ chương
trình, dự án lồng ghép khác: 200 km.
Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 2010.
Phạm vi thực hiện: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn).
5.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Những kết quả đạt được: Đề án góp phần nâng cao năng lực tưới
tiêu, phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Đồng bào dân tộc miền núi đã
bước đầu tiếp cận, tận nguồn thủy lợi để thâm canh lúa nước, trồng ngô,
nuôi trồng thủy sản. Đề án được sự quan tâm chỉ đạo điều hành của các cấp,
các ngành, các tổ chức chính trị. Được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân,
người dân nhiều nơi tỏ ra tích cực trong việc tham gia phần vốn 3040% đóng
góp, nhiều HTX chủ động vận động thu trước khi có vốn hỗ trợ của tỉnh.
Góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong xây dựng, khái thác và bảo
vệ công trình thủy lợi. Một số huyện miền núi như Sơn Hà, Minh Long nhờ
thực hiện lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình khác triển khai trên
địa bàn, nên đã huy động được nguồn vốn lớn để thực hiện đạt và vượt mục
tiêu Đề án.
Những tồn tại, hạn chế: Phương án cân đối nguồn vốn để thực hiện
mục tiêu chưa khả thi. Việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân vùng
hưởng lợi ở các huyện miền núi là rất khó, do đời sống nhân dân còn nghèo,
nguồn vốn góp của các địa phương cũng hạn chế. Vì vậy, khả năng cân đối
ngân sách chưa đáp ứng được yêu cầu để thực hiện theo chương trình. Bộ
máy thực hiện chưa đảm bảo yêu cầu. Do thiếu cán bộ chuyên môn thủy lợi
và không có bộ phận chuyên trách đầu tư XDCB nên các hồ sơ thủ tục, lập
hồ sơ thiết kế chậm và cơ chế quản lý tài chính còn lúng túng. Sự phối hợp
giữa các Sở, ngành chưa chặt chẽ. Cơ chế kiểm tra, giám sát chưa được thực
hiện thường xuyên, nghiêm túc.
VI. CHƯƠNG TRÌNH KHUYẾN NÔNG, KHUYẾN NGƯ
Chương trình Khuyến nông, khuyến ngư được thực hiện theo Nghị định
số 56/2005/NĐCP ngày 26/4/2005 của Chính phủ về Khuyến nông, khuyến
ngư.
6.1. Nội dung, thời gian và phạm vi chương trình
Nội dung: Thông tin, tuyên truyền; Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo;
Xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ; Tư vấn và dịch vụ;
Hợp tác quốc tế về khuyến nông, khuyến ngư.
Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 2010.