Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Sự chuyển đối của loại hình tác giả văn học việt nam trước cách mạng tháng tám qua trường hợp nguyễn công hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀ HUY THÍCH

SỰ CHUYỂN ĐỔI CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ
VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP
NGUYỄN CÔNG HOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀ HUY THÍCH

SỰ CHUYỂN ĐỔI LOẠI HÌNH TÁC GIẢ
VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP
NGUYỄN CÔNG HOAN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng



Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Trần Ngọc Vương. Các kết quả và số liệu
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một công
trình khoa học nào.
Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác giả luận văn đều có ghi
chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực
và nguyên bản của luận văn.
Hà Nội,ngày 22 tháng 10 năm2015
Tác giả luận văn

Hà Huy Thích


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần
Ngọc Vương - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau đại
học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình và
bạn bè đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2015
Tác giả


Hà Huy Thích


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu. ...................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn.............................................. 3
3. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
5. Cấu trúc luận văn. ......................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 5
Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ
VÙNG VĂN HÓA SƠN NAM ....................................................................... 5
1.1. Truyền thống gia đình. ............................................................................ 5
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan. ............................. 5
1.1.2. Truyền thống gia đình. .......................................................................... 13
1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ. .................................................................. 16
1.2.1. Đặc điểm về địa lý. ................................................................................ 16
1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội. ................................................................. 16
1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến
phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan. ............................. 18
Chƣơng 2: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ VĂN
HỌC TÂY ÂU TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945 ................................................. 25
2.1. Văn hóa truyền thống và văn chƣơng nhà Nho. ................................. 25
2.1.1. Văn học dân gian. ................................................................................. 25
2.1.2. Từ cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại đến cái nhìn của nhà
văn, nhà thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học Việt Nam. . 26

2.1.3. Sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài và hình tượng trung tâm trong
văn chương trào phúng. .................................................................................. 31


2.2. Sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây trong sáng tác của Nguyễn
Công Hoan trƣớc cách mạng tháng 8 - 1945. ............................................. 33
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội. ................................................................... 33
2.2.2. Sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực phê phán. ............................ 34
2.2.3. Sự vận động hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực phê phán. ............. 44
Chƣơng 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA NHÀ VĂN QUA
NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG ............................................ 52
3.1. Những chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Công Hoan ..................... 52
3.1.1. Giai đoạn từ 1920 – 1923. .................................................................... 53
3.1.2. Giai đoạn từ 1929 – 1935. .................................................................... 55
3.1.3. Giai đoạn từ 1936 – 1939. .................................................................... 63
3.1.4. Giai đoạn từ 1940 – 1945. .................................................................... 66
3.2. Sự vận động về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác
của Nguyễn Công Hoan ................................................................................ 68
3.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ. ................................................................................. 68
3.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài. ........................................................................ 71
3.3. Hình tƣợng nhân vật. ............................................................................. 81
3.3.1. Hình tượng nhân vật trào phúng. .......................................................... 81
3.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình ............................................................. 84
3.4. Hệ thống ngôn ngữ- thể loại .................................................................. 87
3.4.1. Ngôn ngữ ............................................................................................... 87
3.4.2. Thể loại .................................................................................................. 90
3.5. Cốt truyện – Tình huống ....................................................................... 92
3.5.1. Cốt truyện .............................................................................................. 92
3.5.2. Tình huống truyện ................................................................................. 94
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu.
Lịch sử phát triển văn học của mỗi quốc gia, dân tộc đều ghi dấu sự vận động
và phát triển của lịch sử quốc gia, dân tộc ấy. Từ đó hình thành nên những bản sắc
riêng của quốc gia, dân tộc đó. Với hàng nghìn năm lịch sử vận động và phát triển,
văn học Việt Nam đã thực sự tạo được một dấu ấn riêng, bản sắc riêng về văn học,
văn hóa Việt.
Văn học Việt Nam có một bề dày truyền thống. Từ văn học dân gian đến văn
học thành văn đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện, phản ánh tâm tư, tình cảm
của con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Đặc biệt là gần mười thế kỉ tồn tại và
phát triển của văn học trung đại, Nho giáo giữ vai trò định hướng phát triển văn học
Việt Nam. Điều ấy thực sự tạo nên một bản sắc rất riêng của Văn học Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam có những bước phát triển
mới. Đó là bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại. Một thời đại mới của văn
học đã phôi thai từ giai đoạn quá độ, từng bước hòa nhập vào quỹ đạo của văn học
thế giới.
Sự vận động phát triển của thời đại lịch sử đã đưa văn học Việt Nam chuyển
mình sang một hướng mới. Đó là sự vận động, chuyển đổi cả nội dung và nghệ thuật
phản ánh của văn học Việt Nam. Từ những áng văn chương mang đậm màu sắc của
văn chương Trung đại chuyển sang hướng hiện đại hóa của văn học Phương Tây.
Thực tế của nền văn học sử Việt Nam cho thấy, mối liên hệ từ truyền thống
đến hiện đại chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, khai thác. Đặc biệt
là sự vận động của văn học Việt Nam được thể hiện qua một số tác giả tiêu biểu như:
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng…Sự vận động trong sáng tác
của họ thể hiện quy luật đặc thù của văn học Việt Nam.
Và nhà văn thể hiện sự vận động chuyển đổi về phong cách sáng tạo nghệ
thuật ấn tượng hơn cả là nhà văn Nguyễn Công Hoan.

Nguyễn Công Hoan là một tác gia lớn trong nền văn học cận đại Việt Nam.
Sự nghiệp của ông được tạo dựng bởi hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết
có giá trị trong nền văn học nước nhà.

1


Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan mang những nét đặc thù về quan điểm
thẩm mỹ nghệ thuật riêng, để lại những dấu ấn riêng về truyền thống của gia đình;
giai đoạn lịch sử xã hội ấn tượng cụ thể.
Có một số công trình nghiên cứu về những sáng tác của ông, nhưng phần
nhiều chỉ thiên về đọc và bình văn rồi đưa ra kết luận Hay- Dở mà chưa dựng được
một bức tranh toàn cảnh về quy luật tồn tại và vận động phát triển của đối tượng;
chưa chỉ ra được những con đường ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành con
người nhà văn.
Bởi vậy, luận văn của chúng tôi đi sâu và hướng tới sự chuyển đổi loại hình tác
giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan.
Luận văn của chúng tôi được hình thành trực tiếp từ sự gợi ý và hướng dẫn
của GS - TS Trần Ngọc Vương, đồng thời với nỗ lực tự thân của người viết. Nhưng
do thời gian hạn hẹp và do tính chất, mức độ của luận văn, chúng tôi chỉ đi vào
phạm vi chuyên sâu và giới hạn ở một số điểm sau:
(1). Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn Nam .
Đó là sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Trấn Sơn Nam đến
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.
(2). Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945.
Đó là sự chuyển biến rõ nét về nội dung và phong cách nghệ thuật của nhà văn
từ ảnh hưởng của văn chương nhà nho sang văn chương hiện thực phê phán mang
đậm phong cách văn chương phương Tây.
(3). Từ những vấn đề trên, chúng tôi đi tới vấn đề cụ thể về tư tưởng và quan điểm

nghệ thuật của nhà văn qua những sáng tác của ông. Nhằm chứng minh cho nhận
định: sự vận động chuyển đổi loại hình tác tác giả văn học qua sáng tác của Nguyễn
Công Hoan trước cách mạng tháng Tám 1945.
Tuy nhiên, do thời gian tiếp cận đề tài còn hạn chế, vốn kiến thức được trang
bị nhiều điểm còn chưa thực sự sâu sắc, nên có những vấn đề chưa được nghiên cứu
sâu. Luận văn chưa mở rông sang các tác giả cùng thời khác để thấy được sự vận
động biến đổi của hệ quy chiếu trong hầu hết các tác giả những năm đầu thế kỉ XX.

2


2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn.
2.1. Mục đích và ý nghĩa lý luận.
Đối tượng nghiên cứu là một tác giả lớn, quá trình hình thành, vận động và
phát triển phong cách nhà văn Nguyễn Công Hoan. Vì vậy, chúng tôi xác định mục
đích, tính chất của luận văn là vấn đề nghiên cứu của văn học sử. Cụ thể là nghiên
cứu sự chuyển biến mang tính quy luật đặc thù của văn học Việt Nam qua ngòi bút
nhà văn.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Thực hiện được mục tiêu trên, chúng tôi hi vọng luận văn của mình góp phần
phục vụ trực tiếp cho việc tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết
của Nguyễn Công Hoan ở cấp độ phân tích, cảm nhận văn học qua thực chứng lịch
sử khách quan.
3. Lịch sử vấn đề:
Có khá nhiều nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết cho sáng tác của Nguyễn
Công Hoan, và nhiều nhà nghiên cứu coi Nguyễn Công Hoan là một nhà văn tiêu
biểu của chủ nghĩa hiện thực.
Trên tạp chí Nam Phong 7 – 1932, Trúc Hà viết phê bình về truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan “Một ngọn bút mới”. Trong bài viết của mình, Trúc Hà chỉ ra
những “lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm một vài câu hoặc

một vài chữ có ý khôi hài bông lơn thú vị”…
Trong cuốn “Phương pháp sáng tác ttrong văn học nghệ thuật”, NXB Sự
thật Hà Nội 1962, Hồng Chương chỉ ra: lối tả tỉ mỉ ở các chi tiết là một đặc điểm
của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan. Phan Cự
Đệ trong “Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975” (tập 2), NXB Đại Học và Trung học
chuyên nghiệp khẳng định: Nguyễn Công Hoan đã đặt những viên gạch đầu tiên
xây đắp nền móng cho văn xuôi hiện thực phê phán. Ông là người đầu tiên khẳng
định phương pháp hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn và là ngọn cờ đầu
của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 – 1945.

3


Năm 2002, cuốn Nguyễn Công Hoan, Tác gia – Tác phẩm do nhà nghiên
cứu Lê Thị Đức Hạnh biên soạn được xem là cuốn tài liệu tập hợp được những công
trình nghiên cứu đầy đủ nhất về Nguyễn Công Hoan từ trước tới nay.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan đều chưa thật chú ý
đến những con đường ảnh hưởng quan trọng tới sự vận động, chuyển đổi loại hình
nhà văn. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi cố gắng làm rõ sự chuyển đổi loại hình tác
giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan
dưới góc nhìn từ lý thuyết loại hình học tác giả nhà văn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp loại hình học tác giả và phương pháp logic - lịch sử là nền tảng
cho các phương pháp và thao tác khoa học mà luận văn sử dụng ở cấp khái quát
nhất. Ngoài ra, trong việc nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của văn học,
chúng tôi còn sử dụng phương pháp chuyên sâu như nghiên cứu lịch sử văn hóa và
phương pháp loại hình học tác giả.
Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp so sánh đối chiếu cũng được
chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
5. Cấu trúc luận văn.

- Chương 1: Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn
Nam .
-Chương 2. Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác
của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945.
-Chương 3. Sự vận động trong tư tưởng của nhà văn qua những tác phẩm văn
học của ông.

4


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ VÙNG
VĂN HÓA SƠN NAM
1.1. Truyền thống gia đình.
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan.
Nguyễn Công Hoan- tác giả truyện ngắn xuất sắc, một hiện tượng đặc biệt
trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông sinh ngày mồng 6 tháng 3 năm 1903 trong một gia đình nho học ở làng
Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hưng Yên). Gia đình ông là
gia đình nhà nho có nhiều người làm quan với Pháp. Cha ông tuy đỗ tú tài nhưng
chỉ được nhận chức huấn đạo và ở mãi chức này cho đến khi mất. Đồng lương ít ỏi
của cha không đủ nuôi đàn con đông, nên Nguyễn Công Hoan từ nhỏ đã được ông
bác ruột, một ông quan yếm thế có tinh thần yêu nước đón về nuôi dưỡng và giáo
dục. Ngay từ những ngày còn nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu thiếu niên thông minh,
nghịch ngợm và hóm hỉnh. Tuy bé nhất trong nhà nhưng ông lại luôn là người đầu
trò trong các cuộc chơi. Ông thường tự biên soạn những vở chèo, vở tuồng từ những
tích cũ, tự lập sân khấu rồi cùng các anh con của bác chơi trò biểu diễn. Đề tài
những vở kịch do ông nghĩ ra hoàn toàn dựa theo những truyện hàng ngày nghe kể,
khi là chơi trong các trại lính lệ, lính cơ nhằm giễu cợt những thói hư tật xấu của kẻ
có quyền và xót thương những người nghèo khờ dại. Những buổi biểu diễn này

được lính lệ và nhân dân trong vùng đến xem rất đông. Cứ tối đến, họ lại kéo nhau
đến tụ tập quanh sân nhà người bác để xem “cậu chủ nhỏ diến trò” và cậu chủ nhỏ
được họ rất yêu quý. Năm lên bảy tuổi, Nguyễn Công Hoan được học tiếng Pháp
với một thầy ký rượu. Ông học tiếng thì ít mà học mánh khóe từ thầy thì nhiều. Bài
học của ông thường là những bài vè truyền khẩu nửa Tây nửa Ta, những thủ thuật
đong và pha rượu lậu cùng những buổi đàn hát. Kết quả là sau hai tháng người bác
đành phải bắt ông thôi học với thầy ký rượu. Chín tuổi, ông được bác gửi lên học ở
trường Bưởi (trường Chu Văn An). Trong thời gian học ở trường Bưởi (từ chín đến
mười sáu tuổi) ông quen và thân với nhiều nhà văn nhà thơ đương thời, đặc biệt là
nhà thơ Tản Đà. Ông rất thích thơ Tản Đà, bài thơ nào của Tản Đà ông cũng đọc và

5


thuộc. Qua Tản Đà ông còn đọc nhiều và trở nên thích thơ Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, Tú Mỡ… chính Tản Đà là nấc thang đầu tiên đưa bước Nguyễn Công Hoan
vào làng văn học. Năm mười bảy tuổi, sau một chuyến bỏ nhà ra Hải Phòng cùng
một anh con bác, trở về ông viết truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu”. Truyện
ngắn này ông viết chỉ để đùa vui nhưng thật ra đã rõ dáng dấp con người ông và
cũng đã báo hiệu những văn phẩm của ông sau này. Một chuyện bịa từ cái gốc có
thật về chuyện đi bất thành của mình. Ông bịa chuyện có thật ấy nhằm mỉa mai và
đả kích chế độ thực dân. Năm 1922 ông lại ra Hà Nội học để ôn thi vào trường Nam
Sư phạm và bắt đầu viết truyện dài “Phải gió”. Truyện dài này làm cho các bạn
cùng phòng ở với ông không nhịn được cười. Kết cục nó bị thu bởi tác giả của nó
gây mất trật tự trong khu nội trú. Cùng năm, (vào tháng 7) Nguyễn Công Hoan đỗ
vào trường Sư phạm. Ông vừa học vừa viết văn. Những truyện ngắn thời kỳ này của
ông được in trên mục “Truyện thế gian” do Tản Đà thư cục xuất bản. Truyện của
ông, giọng văn, câu văn ngắn gọn, giản dị, dí dỏm khác hẳn với lối văn cầu kì, ước
lệ, cổ điển của những tác giả cùng thời. Vì vậy truyện ngắn của ông thời kỳ này
không gây được tiếng vang, nhưng đã báo cho độc giả thấy được sự xuất hiện của

một cây bút mới với lối văn hoàn toàn mới lạ. Mặt khác, do ham đọc thơ văn, ông
có con mắt nhìn đời bằng hồn thi sĩ, nên phong cách hiện thực phê phán sắc sảo của
ông đậm chất trữ tình.
Tốt nghiệp trường Nam Sư phạm năm ông hai mươi ba tuổi. Công việc dạy
học của ông vô cùng long đong, vất vả. Do bị tình nghi có tham gia hoạt động cách
mạng nên ông không ở đâu được lâu mà luôn bị thuyên chuyển vùng. Từ thị xã Hải
Dương ông phải chuyển đến huyện Nam Sách, huyện Kim Môn, thị xã Lào Cai,
thành phố Nam Định, rồi ra đảo Trà Cổ. Con đường văn nghiệp của ông cũng không
kém phần lao đao, trắc trở. Ông luôn bị thực dân Pháp theo dõi, ghìm ngòi bút, có
thời kỳ còn bị treo bút. Nhiều tiểu thuyết của ông bị cấm lưu hành như (Cái thủ lợn1939), nhiều truyện ngắn bị kiểm duyệt, cắt xén hoặc xóa trắng (Êu êu Mê đo; Hồi
còi báo động). Lớn lên trong thời kì những sự kiện chính trị lớn dốn dập xảy ra ở
trong và ngoài nước, lại làm cái nghề luôn bị chèn ép và bản thân bị nghi kị nên
giúp ông có cái nhìn đúng về xã hội đương thời. Sẵn có thái độ hằn học với kẻ xu

6


nịnh, hằn học với bọn thực dân tàn ác, quan lại tham nhũng, bọn giàu sang gian trá,
nên Nguyễn Công Hoan không dễ lùi bước trước mọi khó khăn. Truyện ngắn của
ông ngày càng điêu luyện về nghệ thuật, sắc sảo về nội dung dần đưa ông tới vị trí
hàng đầu trong dòng văn học hiện thực phê phán.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, theo quy luật chung của sự phát triển, văn
học Việt Nam dần chuyển mình từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Thời kì
này giữa biết bao nếp nghĩ vay mượn, cách diễn đạt vay mượn, giữa biết bao sự mời
gọi quyến rũ tưởng không cưỡng lại được của văn học ngoại lai nhưng Nguyễn
Công Hoan đã giữ cho ngòi bút của mình đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa
hiện thực. Ông trở thành một trong những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng
nền móng cho nền văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam. Đó cũng là thời kì văn
học Việt Nam đang ở buổi sơ khai của nền văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ. Giai
đoạn này đòi hỏi mỗi người cầm bút phải tự tìm lấy mình, khẳng định mình, khẳng

định văn học nước nhà. Con đường độc đáo Nguyễn Công Hoan đã chọn và táo bạo
mở đường đi tới một mình: Viết những truyện trong đời sống thực từ những cảnh
ngang trái bất công, những sự thối nát sa đọa, những cảnh khổ đau xảy ra hàng ngày
trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Sự nghiệp văn học của ông bắt đầu từ
những năm 1920 với tập truyện ngắn đầu tay: “Kiếp hồng nhan” (xuất bản năm
1923). Truyện viết về những người thuộc tầng lớp dưới được biểu hiện bằng cách
nhìn xót thương, từ đó mà giễu cợt kẻ lộng quyền hợm của. Tuy tập truyện này
“không có ý nghĩa gì, không có mục đích nào” [23/81] nhưng vẫn gây được sự thán
phục của bạn bè. Nó là tập truyện đầu tiên của Việt Nam, gồm toàn truyện sáng tác
chứ không phải vừa truyện dịch, vừa truyện soạn như các truyện trước đó. Phải tới
những năm 1929 – 1033 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bởi những trang in
trong mục Xã hội ba đào ký trên An Nam tạo chí do Tản Đà chủ trương. Những
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trên mục Xã hội ba đào ký được độc giả rất
yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã
nhanh chóng trở nên quen thuộc với bạn đọc. Những cuốn tiểu thuyết “Những cảnh
khốn nạn” (1932); “Tắt lửa lòng”(1933); “Lệ dung”(1934); “Tấm lòng
vàng”(1934) cũng lần lượt xuất hiện. Đặc biệt trong cuốn “Những cảnh khốn

7


nạn”(Tập 1 với 218 trang) viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai đã báo hiệu
con đường văn chương độc đáo của ông sau này.
Tháng 6 năm 1935 khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” xuất hiện, địa vị của
ông càng được khẳng định. Kép Tư bền gồm 15 truyện phần lớn viết về những
người khốn khổ đáng thương. Ông thông cảm với nỗi dày vò họ và nói lên sự tàn
nhẫn của những người xung quanh. Trong không khí của những năm 1935- 1936
Kép Tư Bền ra đời rất đúng lúc, nó mở đầu cho trào lưu văn học tả chân xã hội.
Thời kỳ này độc giả muốn có những trang viết về cảnh lầm than của xã hội để thức
tỉnh mọi người. Trong tình trạng ấy, tập truyện ngắn Kép Tư Bền ra đời có thể xem

là một cái mốc đánh dấu trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Ông viết:“việc
cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi rằng tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và
tôi có thể theo đuổi nghề văn” [23/188]. Tập truyện với nghệ thuật độc đáo, mới lạ,
có truyện không có cốt truyện (Cô Kếu gái tân thời), có truyện viết không theo hình
thức kể chuyện (Thế là mợ nó đi Tây) đã thu hút được đông đảo bạn đọc trong cả
nước. Những tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của Khái Hưng, Nhất Linh… bị lu mờ,
thay vào đó là những tác phẩm hiện thực của Nguyễn Công Hoan. Năm đó, Kép Tư
Bền được đánh giá là tập truyện ngắn hay nhất, được mười tám tờ báo ở Trung,
Nam, Bắc viết bài khen ngợi và trở thành đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ
thuật. Phái nghệ thuật vị dân sinh của Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công
kích nghệ thuật vị nghệ thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ
gay cấn nhất thi Hải triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh
đưa phái nghệ thuật vị dân sinh đi đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến của Hải
Triều có viết “Cái chủ trương nghệ thuật vị dân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện
bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn công
Hoan” [48]. Để khẳng định chủ trương của mình, Hải Triều còn tổ chức buổi gặp
mặt tác giả với bạn đọc và trưng cầu ý kiến độc giả tại nhà sách Hương Giang (Huế).
Kết quả của cuộc trưng cầu là tác Phẩm Kép Tư Bền được xếp hàng đầu, tác giả của
nó được bạn đọc hoan nghênh nhất. Ông trở thành ngọn cờ đầu của văn học hiện
thực phê phán Việt Nam.

8


Thời kỳ mặt trận Dân chủ (1936- 1939), thực dân Pháp nới lỏng chế độ kiểm
duyệt sách báo, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan được tung hoành hơn. Nhờ ảnh
hưởng của Đảng, của sách báo Mác xít, của phong trào quần chúng khắp nơi, những
tác phẩm của ông đạt chất lượng cao hơn trước. Chúng như những chiếc gai nhọn
đối với nhà cầm quyền. Thời kỳ ông viết sung sức chưa từng thấy, với hơn 80
truyện ngắn, trong đó có khoảng 30 truyện đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân.

Ông đưa vào tác phẩm của mình từ cuộc sống Âu hóa lố lăng “Cô Kếu gái tân thời”,
đến tệ quan lại tham nhũng “Công dụng của cái miệng”; “Người thứ ba”. Từ cuộc
sống vương giả của những kẻ ăn trên ngồi chốc như “Phành phạch”;“Quyền chủ”
đến cuộc sống cùng cực của kiếp đi ở “Thằng Quýt”; “Thanh!Dạ”. Từ đề tài xã hội
này, ông đã nhanh chóng chuyển sang đề tài chính trị, không những ông tố cáo tệ
tham nhũng, thói dâm ô đểu cáng “Thằng ăn cướp”; “Đồng hào có ma”; “Nạn ô
tô”; “Nạn râu”…mà còn vạch trần những thủ đoạn chính trị lừa bịp và cơ hội của
bọn quan lại triều đình như “Biểu tình”; “Chiến tuyến bình”, những thủ đoạn mua
bán, tranh giành lá phiếu của bọn nghị viên (Trần Thiện – Lê Văn Hà). Đặc biệt ông
đã chĩa mũi nhọn đả kích vào một số chính sách của bọn thực dân Pháp: Từ sự xâm
lấn từng bước khá nguy hiểm của chính quyền thực dân “Người vợ lẽ bạn tôi” đến
những chủ trương cực kỳ vô lý và ngu xuẩn đối với trẻ con không nơi nương tựa
như “Giá ai cho cháu một hào”. Từ những thủ đoạn tuyên truyền ầm ĩ cho tên vua
bù nhìn bán nước “Đào kép mới” đến những cuộc vận động cho phong trào thể thao
một cách bịp bợm, giả dối của tên thống sứ Chatet “Tinh thần thể dục”.
Thời kỳ này ông viết nhiều tiểu thuyết, truyện dài: “Ông chủ”; “Bà
chủ”(1935), “Cô giáo Minh” (1936), “Cô làm công” (1936), “Bước đường cùng”
(1938) và “Cái thủ lợn” (1939). “Bước đường cùng” được được sáng tác trong
vòng 16 ngày trước khi tác giả ra “an trí” ở đảo Trà Cổ. Tác phẩm viết về tình cảnh
người nông dân vì thất học, u mê, tăm tối nên bị địa chủ dùng thủ đoạn để cướp nhà,
cướp ruộng và bị đẩy vào cuộc sống bần cùng. Bọn địa chủ thì gian ác, hách dịch,
đứa nào cũng dựa vào thế quan, thế Tây để bóc lột nhân dân thậm tệ, nhưng cuối
cùng những người nông dân cũng giác ngộ, họ biết đoàn kết chống lại địa chủ. Tác
phẩm có tính tư tưởng cao, nội dung hiện thực sâu sắc nên vừa ra đời một thời gian

9


ngắn thì bị chính quyền thực dân cấm. Rút cuộc 5000 cuốn “Bước đường cùng”
vẫn được tiêu thụ hết. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn đã xây dựng

được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình theo yêu cầu của chủ
nghĩa hiện thực. Đề tài của tiểu thuyết ảnh hưởng nhiều của sách báo đảng Cộng
Sản bấy giờ và đã gây được tiếng vang lớn trong kỳ mặt trận Dân chủ.
Sang những năm dại chiến thế giới II, Nguyễn Công Hoan mất phương
hướng và bế tắc. Từ con đường chủ nghĩa hiện thực ông đi chệch hướng sang con
đường chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ. Vốn chịu ít nhiều tư tưởng phong kiến, ông đã
viết một số tiểu thuyết có khuynh hướng phục cổ, tiêu biểu là “Thanh đạm” (1942).
Tác phẩm đề cao Nho giáo, phong tục và sinh hoạt phong kiến cổ xưa. “Thanh đạm”
bị lên án gay gắt làm cho Nguyễn Công Hoan trở nên bi quan, chán nản.
Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nhà văn vui mừng, hồ hởi mặc áo
lính, làm công tác văn hóa trong quân đội và dần có cơ hội trở lại viết văn. Ông
sáng tác nhiều truyện dài, nhiều tiểu thuyết xã hội như: “Tranh tối tranh sáng”
(1950); “Hỗn canh hỗn cư” (1961); “Đống rác cũ” (1963)…ngoài ra ông còn viết
nghiên cứu về Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…viết bài cho phát thanh, tham
gia vào việc biên soạn từ điển, ngữ pháp tiếng Việt của viện Ngôn ngữ. Đặc biệt,
ông viết được nhiều tập hồi ký chân thực và có giá trị: “Đời viết văn của tôi”; “Nhớ
gì ghi nấy”… “Đời viết văn của tôi” viết năm 1971, cuốn hồi ký này ghi lại các sự
kiện 60 năm văn học nước nhà, từ những bước đầu của ngành báo chí xuất bản.
Cuốn sách giới thiệu nhiểu nhà văn, nhà nghiên cứu, trong hoàn cảnh nước ta trước
đây các ngành bảo tồn, bảo tàng, xã hội học, dân tộc học chưa phát triển thì đây là
tài liệu rất tốt cho giúp cho các thế hệ sau dựng lại bức tranh chân thật về một thời
kỳ lịch sử đã qua đồng thời cũng cho họ những chi tiết chính xác về cái xã hội tù
túng, quằn quại dưới ách thực dân phong kiến. Mặt khác, cuốn hồi ký này để lại cho
các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu thế hệ sau nhiều tri thức quý báu về nghề
văn cũng nhưu kinh nghiệm viết văn của ông. Cuốn sách được đánh giá là “một
cuốn cẩm nang văn học” đối với “những hậu duệ văn học” [51/30].
Là nhà văn viết khỏe, với trên nửa thế kỉ sáng tác, Nguyễn Công Hoan sáng
tác tác trên 200 truyện ngắn, hơn 30 truyện dài và các thể loại khác, ông xứng đáng

10



là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nếu
như Ngô Tất Tố tập trung viết về người nông dân, Vũ Trọng Phụng đả kích vào giai
cấp Tư sản, thì đóng góp chủ yếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là xây dựng
thành công một phong trào châm biếm, đả kích các kiểu quan lại và địa chủ cường
hào ở nông thôn và thành thị.
Nguyễn Công Hoan viết nhiều thể loại khác nhau: Tiểu thuyết, truyện ngắn,
truyện dài, ký…nhưng ông sống trong độc giả và khẳng định mình trên văn đàn dân
tộc chính là thể loại truyện ngắn. Các nhà nghiên cứu Trúc Hà, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Hiếu công nhận: “Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan
chỉ ở trong truyện ngắn”[13]. Nhà văn cũng thừa nhận: “Trong quãng đời hoạt
động về văn học trước cách mạng của tôi, tôi đặt nhiều công phu vào viết truyện
ngắn [25/207].
Những tập truyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc ta là những
truyện ngắn lịch sử đã xuất hiện từ đời Trần, đời Lê. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVI,
truyện ngắn dân tộc đã phát triển phong phú và có nhiều kiểu, nhiều màu sắc khác
nhau. Với “Thánh Tông di thảo” và “Truền kỳ mạn lục”, những đặc điểm truyền
thống của truyện ngắn Việt Nam đã hình thành trọn vẹn. Đến thời kỳ cận đại, những
tác phẩm văn xuôi đã chuẩn bị tích cực cho chủ nghĩa hiện thực phê phán ra đời sau
những năm 1930. Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết và
kịch của Trọng Khiêm, Hồ Biểu Chánh, Vũ Đình Long, Nam Xương…bản thân nó
chưa phải là những tác phẩm hiện thực phê phán theo ý nghĩa chính xác, đầy đủ của
thuật ngữ đó. Trong lĩnh vực truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên có
công khai phá con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đi vào thế giới
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển
lãm phong phú và nhiều màu vẻ về nhũng cảnh ngộ, những con người đang khóc,
đang cười, những niềm vui, nỗi cay đắng buồn đau như là lẽ thường. Truyện ngắn
của ông sinh động, hấp dẫn với nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ nghệ thuật
kết cấu truyện gọn, chặt chẽ đến cách xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính đưa

đến một kết thúc bất ngờ làm nổi bật tiếng cười giễu cợt. Từ nghệ thuật xây dựng
nhân vật đặc sắc đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ và giọng điệu giản dị, trong sáng,

11


dễ hiểu. Đặc biệt ông rất thành công khi sử dụng thủ pháp trào phúng, gây cười
trong truyện ngắn của mình. Truyện ngắn của ông được viết dưới nhiều cung bậc
tình cảm. Có truyện ông viết ra để gây căm hờn (Sáng, chị phu mỏ), để làm kinh
tởm (Gói đồ nữ trang), để gợi lòng thương (Anh Sẩm; Cái vốn để sinh nhai), hoặc
để cười (Samandji). Có những truyện là tấn hài kịch (Ai khôn; Đàn bà là giống yếu;
Một tấm gương sáng), bi kịch (Bộ ba Chiếc quan tài), hoặc bi hài lẫn lộn (Thằng ăn
cắp; Hai thằng khốn nạn). Có những truyện xây dựng trên nguyên tắc tượng trưng
(Đào kép mới), lại có những truyện thực ra là sự nhạo lại cái gì xảy ra trong thực tế
(Cụ Chánh Bá mất giày; Báo hiếu). Đề tài thường xuyên thu hút nhà văn là quan hệ
giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Phanh phui bất công xã hội là lập trường tư
tưởng duy nhất ông chấp nhận.
Nhà văn sống hòa mình vào cuộc sống, lấy đề tài sáng tác từ giữa cuộc sống
lố lăng thời bấy giờ, nên tác phẩm của ông thường nhằm nâng cao năng lực nhận
thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Xã hội phong kiến nửa thực dân
ở Việt Nam trước 1945 đầy rẫy sự lừa bịp và khôi hài, thế nhưng kẻ thống trị luôn
tìm cách để che dấu bộ mặt thật của chúng. Cần phải phanh phui những mâu thuẫn
nội tại ấy. Một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (Đào kép mới; Tinh
thần thể dục; Chính sách thân dân…) đã đáp ứng được yêu cầu đó. Những truyện
ngắn này đã vạch ra những mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung
và hình thức để bật lên tiếng cười đả kích.
Cách mạng tháng Tám thành công, khi một loạt các nhà văn phải trăn trở “lột
xác”, “nhận đường” thì Nguyễn Công Hoan tuyệt nhiên không có hiện tượng đó.
Bạn đọc có thể đọc có thể đọc một truyện ngắn trong “Kiếp hồng nhan” viết năm
1920 với truyện “Chiếc xe lam” một trong những sáng tác sau cùng khi nhà văn vào

Sài Gòn giải phóng năm 1975 không hề thấy một khoảng cách thời gian. Nguyễn
Công Hoan không lúc nào cũ, đó là bí quyết của ông. Bí quyết ấy bắt nguồn từ chắt
lọc ý nghĩ, tư tưởng đời sống xã hội, từ việc sáng tác bằng tiếng nói hàng ngày ở xung
quanh của nhà văn. Vì vậy, ở Nguyễn Công Hoan tả chân, tả thực kia và Nguyễn
Công Hoan hiện thực sau này chỉ là rút kinh nghiệm hay thiếu sót bổ sung.

12


Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng nền giáo dục phong kiến của người bác,
văn học dân gian qua giọng kể của bà, đặc biệt là những truyện tiếu lâm. Ông cũng
chịu ảnh hưởng nhiều của văn học Pháp, nhất là trong những năm học ở trường Sư
phạm, của văn Tản Đà, thơ Tú Xương… và báo chí đương thời. Do vậy, truyện
ngắn của ông có nhiều nét gần với gần với truyện cười dân gian nhưng văn lại khá
mới. Với bản tính thích khôi hài, lại sống trong thời buổi nhố nhăng nên truyện của
ông thường là những truyện hoạt kê – truyện bật lên những chuỗi cười rơi nước mắt.
Nhà nghiên cứu Xô Viết Niculin đã viết:“Chính trong loại truyện ngắn trào phúng
đó, thiên tài xuất sắc của nhà văn được nảy nở hết sức mạnh mẽ”[37/78].
Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Công Hoan đã đóng góp cho
nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm vừa đồ sộ, vừa đạt đến một nghệ
thuật khá điêu luyện.
Đến nay, nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết của ông đã được chuyển thể sang
sân khấu (Tắt lửa lòng), điện ảnh (Lá ngọc cành vàng) và được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới như: Nga, Bungari, Anbani, Đức, Cu ba, Ấn Độ, Pháp, Nhật
Bản…vinh dự lớn nhất mà nhà văn đạt được là năm 1996 ông được nhận giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1). Ở trong nước, theo thống kê
năm 1996 tổng số sách của ông đã xuất bản là 33 cuốn, trong đó có những cuốn 4
tập. Ông là một trong những nhà văn Việt Nam có tác phẩm in ở Nhà xuất bản Văn
học nhiều nhất, tổng số đầu sách được in lên tới 25 cuốn. Tác phẩm “Bước đường
cùng” của ông được xếp vào hàng những tác phẩm được in nhiều nhất (10 lần) với

con số kỷ lục trong một lần xuất bản (lên tới 20.100 bản năm 1962). Năm 1997
chuẩn bị 95 năm ngày sinh của nhà văn (1903 – 1998), Nhà xuất bản Văn nghệ trẻ
thành phố Hồ Chí Minh cho ra đời 9 cuốn tiểu thuyết với tên “Tủ sách Nguyễn
Công Hoan”. Có nhiều công trình khoa học ở trong nước và quốc tế nghiên cứu về
ông và tác phẩm của ông. Nguyễn Công Hoan thực sự trở thành một cây đại thụ
trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.1.2. Truyền thống gia đình.
Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn
Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang,

13


tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế.
Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu
thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp
quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này.
Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan
trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công
Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng
Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.
Truyền thống gia đình với Nguyễn Công Hoan có sự ảnh hưởng sâu sắc tới
sự nghiệp văn chương của nhà văn sau này. Có thể nói, tuổi ấu thơ của ông giống
như “kho tài liệu” quý giá cho ông khai thác dần dần về sau. “Nếu tờ giấy trắng
được nhuộm màu nào đầu tiên thì cái màu ấy là nền, nó rõ mãi và bền mãi. Thì
trong đời người ta những điều mắt thấy, tai nghe được và nhớ lâu nhất, tạo cho con
người một nền tảng về tư tưởng đối với sự việc, một khả năng làm cái gì sau này”
[25/53]. Cách nói đầy hình ảnh chứng minh cho con đường sáng tác của nhà văn,
đặc biệt trong những giai đoạn đầu. Đó là ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình và hoàn
cảnh xã hội thời đại Nguyễn Công Hoan.

Sinh ra và trưởng thành trong gia đình nhà quan, ông tự hào “về một dòng
dõi mà người ta gọi là thế phiệt. Từ xưa đến nay, vào đời nào cũng có người đỗ đại
khoa và làm quan to”. Lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan đến ở với bác là Nguyễn
Đạo Quán, đỗ phó bảng và làm đến chức tri phủ. Sáu tuổi học chữ Nho và mười
tuổi xoay sang học chữ Pháp.
Niềm tự hào về dòng dõi phần nào sinh ra “tính tự phụ, tự cao” ở cậu bé
Hoan ngay từ hồi cắp sách đến trường. Vốn thông minh, tinh nghịch, lại pha chút tự
cao về truyền thống gia đình, Nguyễn Công Hoan “trở nên một thằng học trò lười
biếng đọc sách, khinh thế ngạo vật, nhưng lại là người biết tự hào dân tộc, biết thù
ghét những gì làm tổn thương đến hào khí dân tộc”.
Khi thời thế đổi thay, Nho học không còn hợp thời, gia đình Nguyễn Công
Hoan rơi vào cảnh lẹt đẹt, nghèo túng. Người bất mãn với chế độ mới nhiều nhất là
cha ông - Nguyễn Đạo Khang. Đêm nào cha cũng kể chuyện quan Ta, quan Tây,

14


chuyện về những ông huyện…Câu chuyện kể thấm đẫm tâm trạng của người cha lỗi
thời, bị lép vế, muốn trút hết nỗi hằn học đối với thời cuộc đã khắc vào thói quen
của Nguyễn Công Hoan một nếp “thích biết chuyện quan trường, thích biết chuyện
quanh công đường và trong tư thất”. Vì thế ngay từ thuở thiếu thời, trong lập
trường của Nguyễn Công Hoan đã biết “chia ranh giới giữa cái gì là đáng trọng và
cái gì đáng khinh, giữa người đáng thương và kẻ đáng ghét”.
Mặt khác, sống trong gia đình quan tri phủ, hàng ngày cậu bé Hoan được
chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt. “Tôi ngắm anh nho bóp nặn người dân khờ
khạo. Tôi lắng nghe thầy lục sự xúc xiểm, dọa nạt người chất phác đến đưa đơn
kiện. Tôi nhìn thấy nét mặt họ thay đổi ra sao khi họ vừa được tiền của người dân
nghèo khó. Và tôi còn được nghe thấy sau buổi hầu, họ chế nhạo, chửi sau lưng
những người ngốc nghếch tin mà mất tiền cho họ”. Quãng đời đó có ảnh hưởng
không nhỏ đến lập trường sáng tác sau này của nhà văn. Ông lắng nghe để mà hiểu

dần và từ đó biết suy nghĩ, trăn trở trước số phận của những con người thấp cổ bé
họng, biết “Tây là thế nào, quan ta, tổng lý, lính tráng đối với dân đen ra sao?”.
Từ hiện thực của cuộc sống gia đình đến những câu chuyện ngoài cổng chòi
và trong sân công đường đã tác động vào thế giới quan nhà văn tạo ra một cái nhìn
bi quan. Trong “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Công Hoan tổng kết; “Tóm lại cuộc
đời của tôi, sống dưới chế độ phong kiến và đế quốc, với những ảnh hưởng giáo dục
của truyền thống gia đình, của nhà trường, của xã hội, với những điều mắt thấy, tai
nghe của tôi trong quá trình làm công chức của thực dân, với những phen may mắn,
lo âu, đã tạo cho tôi thành một con người bi quan đối với thời cục, hằn học đối với
chế độ, hoài nghi đối với nhân tâm, sinh ra cho tôi cái tính nghịch ngợm, ranh
mãnh, khinh thế ngạo vật, làm cho tôi thói quen hay đùa bỡn, hay chế nhạo chua
chát” [25/99]. Ông đã “ dùng óc để học trong cuốn thiên nhiên xã hội Việt Nam”
viết lên cảnh huống, tâm trạng của những con người sống trong xã hội ấy chứ không
phải ở một thế giới nào xa xôi.
Cùng với vốn sống được tích lũy trong quãng đời từ 10 đến 20 tuổi, lòng yêu
văn học có ở Nguyễn Công Hoan ngay từ hồi còn “nói ngọng”. Khi còn nhỏ, ông
thuộc những phương ngôn, tục ngữ,ca dao do bà nội truyền lại. Lúc đến trường, qua

15


lời giảng của thầy, ông hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, trần Tế Xương. Ông nói: “được nhập tâm những văn thơ hay, tôi
chịu ảnh hưởng của các bậc tiền nhân không nhỏ”.
Những năm đầu thế kỉ XX, khi báo chí xuất hiện, Nguyễn Công Hoan chăm
chú theo dõi những mẩu văn, những bài dịch từ sách Hán, sách Pháp, đặc biệt quan
tâm đến mục “Từ phú thi ca”, “Đoản thiên tiểu thuyết” bởi đó là văn sáng tác…
Lòng yêu gia đình, yêu văn học đã giúp ông nhìn cuộc đời không khô khan, trừu
tượng mà là cái nhìn của một tâm hồn thi sĩ “nghĩa là không nhìn bằng đôi mắt bình
thường những việc xảy ra một cách thẳng đuỗn, khô khan, mộc mạc, thật thà mà nhìn

bằng óc, bằng tim, vào những khía cạnh tiếng nói, trông thấy cả linh hồn sự việc”.
Vốn thông minh, tinh nghịch lại có hiếu hài hước của một tâm hồn yêu văn
chương cộng với thái độ bi quan của người bị coi là lỗi thời, tạo cho một cậu bé một
“thói quen hay đùa bỡn, hay chế nhạo chua chát”.Thuở thiếu thời Nguyễn Công
Hoan đã say sưa với những màn kịch tự biên, tự diễn. Ban đầu chỉ là “những câu nói
nhảm để chế giễu ông thầy bói, thầy cúng phỏng theo truyện tiếu lâm nhằm mục đích
gây cười sặc sụa chứ không có nghĩa lí gì”, nhưng về sau, ông “tìm những thói xấu
của những người xung quanh để làm đề tài, dựng nên kịch để chế nhạo” [25/66].
Có thể nói, tuổi ấu thơ của Nguyễn Công Hoan đã ấn định một điểm nhìn nghệ
thuật, chi phối hầu hết quá trình sáng tác của nhà văn cả trước và sau cách mạng.
1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ.
1.2.1. Đặc điểm về địa lý.
Trấn Sơn Nam hay xứ Sơn Nam hay là vùng đất phía nam Thăng Long từ thời
nhà Lê sơ đến nhà Nguyễn. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, bản đồ Việt Nam có 13
xứ (sau từ triều Tây Sơn đổi sang gọi là trấn). Đến đây, các vùng đất quanh Hà Nội
trở thành tứ trấn gồm: vùng núi phía tây được gọi là trấn Sơn Tây (hay xứ Đoài),
vùng núi phía nam Hà Nội được gọi là trấn Sơn Nam, vùng ven biển phía đông
được gọi là trấn Hải Đông (hay xứ Đông), vùng phía bắc Hà Nội được gọi là trấn
Kinh Bắc.
Ngày nay của trấn Sơn Nam là các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái
Bình và một phần các tỉnh Hưng Yên, Hà Nội (5 huyện phía nam).
1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội.

16


Trấn Sơn Nam là vùng đất phía Nam Thăng Long, từ thời Lê Sơ đến thời nhà
Nguyễn, bao gồm Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình và một phần Hưng
Yên, Hà Nội. Đó là miền đất của đồng bằng lúa nước chỉ thấp thoáng núi đá vôi ở
vùng Sơn Nam Thượng, còn vùng Sơn Nam Hạ hầu như không có núi. Văn hóa Sơn

Nam cùng với văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Xứ Đoài hình thành bản sắc văn hóa Việt
truyền thống.
Trước hết, có thể nói trấn Sơn Nam là vùng đất phát tích đế vương. Những
anh hùng để lại dấu ấn lịch sử tiêu biểu nhất trên đất Sơn Nam là Đinh Bộ Lĩnh, Lý
Công Uẩn và Trần Hưng Đạo.
Trấn Sơn Nam còn là vùng đất văn chương, chữ nghĩa. Nhân kiệt Sơn Nam
còn phải kể đến những tên tuổi lừng lẫy thời xưa như Lương Thế Vinh, Nguyễn
Hiền, Lê Quý Đôn, Ngô Quang Bích, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… vang vọng thời
nay như Trần Huy Liệu, Nam Cao, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan… Đó không
chỉ là đất của đế vương mà còn là đất của chữ nghĩa, văn chương. Người có con
đường khoa bảng hanh thông nhất nước Việt cũng ở trấn Sơn Nam. Đó chính là
Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909). Thơ Nguyễn Khuyến diễn đạt
được hòa khí vời vợi của đất trời, đặc tả được sự mong manh, cô đơn của tâm hồn
con người trong không gian chật hẹp, hai mặt của cuộc đời. Thơ ông thanh thoát
ngôn từ mà trĩu nặng tâm tư, hình tượng gần gũi mà sang trọng, nhạc điệu bay bổng
vượt qua niêm luật hà khắc của thơ Đường.
Trấn Sơn Nam, bức thủy mặc hữu tình. Vùng đất Sơn Nam như bức thủy
mặc bát ngát châu thổ đồng bằng, chấm phá mấy hòn độc sơn vừa đủ tạo dáng non
nước hữu tình. Sơn Nam ôm trọn hạ lưu sông Hồng, sông Trà, sông Đáy… những
dòng sông nặng đỏ phù sa, hẹn hò cùng biển cả, sinh nở thêm làng quê, bờ bãi. Văn
hóa Sơn Nam không có bề dày thời gian như Xứ Đoài, Kinh Bắc nhưng thừa kế và
thăng hoa được tất cả tinh hoa, tâm linh hồn Việt. Sơn Nam là đất của hát chèo, hát
xẩm và rối nước. Sơn Nam có những kiến trúc đáng kể như tháp Phổ Minh, chùa
Keo, cố đô Hoa Lư, nhà thờ đá Kim Sơn… Sơn Nam có những làng nghề cổ nổi
danh thế giới như nghề bạc Đồng Xâm, nghề đúc đồng Lý Nhân… Cảnh quan Sơn
Nam không nhiều nhưng lại có những chốn du ngoạn thuộc hàng Nam thiên đệ nhất

17



như Hương Tích, Non Nước, Cúc Phương. Non nước hữu tình ấy đương nhiên cũng
là nơi nương náu, giao duyên của những cuộc tình thơ mộng.
Nguyễn Công Hoan được sinh thành trong gia đình trâm anh thế phiệt, cộng
với truyền thống văn hóa quê hương, một vùng đất đã hội tụ được những truyền
thống vô cùng quý báu của vùng đất địa linh nhân kiệt. Có lẽ những đặc điểm ấy đã
góp phần không nhỏ hình thành một phong cách sáng tác văn học mang đậm phong
cách Nguyễn Công Hoan.
Hơn nữa, Nguyễn Công Hoan sinh ra và trưởng thành trong hoàn cảnh đất
nước chịu cảnh nô lệ, xã hội thực dân nửa phong kiến. Chứng kiến những cảnh đời
trướng tai gai mắt, Nguyễn Công Hoan đã dành hết bút lực của mình để vạch trần
những thói hư tật xấu của xã hội đương thời, phát huy truyền thống yêu nước
thương dân của các bậc tiền nhân như Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến phong
cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.
Thế kỉ XIX, trấn Sơn Nam xuất hiện khá nhiều nhà thơ tên tuổi, để lại một
dấu ấn quan trong trong nền văn học nước nhà. Tiêu biểu như: Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương, Kép Trà…
Nguyễn Khuyến , người mở đầu cho dòng văn học trào phúng và Trần Tế
Xương là người đưa dòng văn học này đến đỉnh cao. Sự tiếp nối mạch nguồn từ
Nguyễn Khuyến đến Tú Xương của dòng văn học trào phúng là con đường của sự
rạn vỡ từ lí tưởng thẩm mĩ Nho giáo, đến sự khởi đầu của mĩ học hiện thực chủ
nghĩa. Có thể khẳng định rằng Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là hai nhà thơ có
hứng thú đặc biệt với thơ trào phúng. Họ là người đưa thơ trào phúng phát triển
thành một dòng nối tiếp không dứt, mở ra giai đoạn mới trong tiến trình phát triển
của nền văn học nước nhà, chuyển từ trung đại sang cận hiện đại, cầu nối đi đến văn
học hiện đại.
1.2.3.1. Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Khuyến sinh năm Ất Mùi (1835) ở Hoàng Xá, huyện Ý Yên, Nam
Định nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục tỉnh Hà


18


Nam. Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng có truyền
thống học hành thi cử. Ông nội Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh,
cha là Nguyễn Tông Khải đỗ liền ba khoa tú tài, nhưng trượt cử nhân. Từ nhỏ
Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người chăm chỉ học hành giỏi giang. Năm mười bảy
tuổi ông đi thi Hương với cha nhưng không đậu, sau đó cha mất vì nhà nghèo nên
ông đã phải thôi học để đi dạy thuê kiếm tiền nuôi mẹ. Lúc bấy giờ có ông Nghè là
Vũ Văn Lý, người làng Vĩnh Trụ, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam thấy ông học giỏi
mà phải bỏ dở giữa chừng nên đã đem về nuôi và cho ăn học tiếp. Năm Giáp Tý
(1864), Nguyễn Khuyến đi thi Hương đậu giải nguyên trường thi Nam Định. Năm
sau Nguyễn Khuyến đi thi Hội không đỗ, ông ở lại Huế học trường Quốc Tử Giám để
chờ kỳ thi khác. Năm Tân Mùi (1871), Nguyễn Khuyến thi hội lần thứ hai, đỗ Hội
Nguyên sau đó vào thi đình, đỗ Đình Nguyên. Như thế là cả ba lần thi Hương, thi Hội,
thi Đình ông đều đỗ đầu nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ.
Nguyễn Khuyến, một nhà Nho, người ẩn dật cuối cùng trong văn học Nho
giáo. Vốn xuất thân từ dòng dõi Nho gia, lại có hơn ba mươi năm dùi mài kinh sử,
từng được bổ nhiệm vị trí tổng đốc Sơn- Hưng- Tuyên, khoảng trên dưới mười năm
làm quan hiển hách, đủ đưa ông đến đỉnh cao danh vọng. Vậy mà, ông Tam Nguyên
hay chữ, một nhà nho hiển đạt lại viết khá nhiều thơ trào phúng, trong khi bậc đại
nho luôn ghét kẻ xảo ngôn, ghét cạnh khóe, châm chọc. Quá trình lội ngược dòng
của cụ Tam Nguyên Yên Đổ được lí giải trong sự vận động nội tại mang tính quy
luật của ý thức hệ tư tưởng, của nguyên tắc phản ánh thực tại và sâu xa hơn là từ sự
vận động của văn học nhà nho đến văn học hiện thực chủ nghĩa.
Bất mãn với chế độ thực dân nửa phong kiến, ông cáo quan về với cảnh
điền viên, cư sĩ, Nguyễn Khuyến không đi theo con đường ẩn dật của nhà nho trước
thế kỉ XVIII mà rẽ sang ngả đường khác. Thời đại của Nguyễn Khuyến khác với
thời đại của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, khiến ông không thể yên tâm làm
một Đào Tiềm. Cuộc xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp phá vỡ sự yên ổn không

chỉ ở thành thị mà lan rộng ra cả những miền quê nghèo hẻo lánh. Mảnh đất nghèo
Bình Lục, nơi Vườn Bùi chốn cũ không thể giữ được nét bình yên trước làn sóng
của chủ nghĩa tư bản. Thực tế khiến Nguyễn Khuyến không thể yên tâm làm ẩn sĩ.

19


×