THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ CỦA
LOẠI HÌNH DU LỊCH MICE Ở VIỆT NAM
I. Tiềm năng phát triển du lịch MICE của Việt Nam
1. Lợi thế từ nguồn lực tự nhiên – lịch sử - văn hóa
Trên toàn cầu, hiện nay, hàng năm có tới 800 triệu người đi du lịch; 60% dòng du
khách hiện nay là có mục đích tìm hiểu những nền văn hóa khác lạ. Vì thế sản phẩm
quan trọng của du lịch là du lịch văn hóa. Sức hấp dẫn du khách là bản sắc văn hóa của
điểm đến và trình độ văn hóa của những nhà tổ chức du lịch chuyên nghiệp.
Việt Nam từ lâu đã được các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên khắp thế
giới công nhận là một quốc gia có nhiều danh lam thắng cảnh. Không chỉ nổi tiếng về
vẻ đẹp tự nhiên, Việt Nam còn được nhớ đến như là một trong những quốc gia luôn kế
thừa, gìn giữ và phát huy những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc với hàng loạt những
làng nghề truyền thống xuất hiện cách đây hàng trăm năm như Làng tranh Đông Hồ,
Làng gốm Phù Lãng, Làng gốm Bát Tràng hay các loại hình nghệ thuật độc đáo vẫn còn
được lưu truyền cho tới tận ngày hôm nay như Hát chèo, Hát bộ, Hát ả đào, Cải lương,
Nhã nhạc cung đình Huế v.v…
Có thể nói nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên đa dạng, phong phú là một lợi thế
đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của du lịch Việt Nam nói chung và dịch vụ du
lịch MICE nói riêng. Trải dài từ Bắc xuống Nam, các danh lam thắng cảnh nổi tiếng
như Phong Nha – Kẻ Bàng, Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An, Hồ Hoàn Kiếm, Cố đô
Huế, quần thể kiến trúc đền cổ của dân tộc Chăm tại Ninh Thuận, Bình Thuận hay Nha
Trang – Một trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới. Đặc biệt, Vịnh Hạ Long được UNESSCO
công nhận là kì quan thiên nhiên thế giới. Những vẻ đẹp do thiên nhiên ban tặng đó
càng hấp dẫn, lôi cuốn khách du lịch quốc tế.
2. Lợi thế từ sự đầu tư xây dựng CSHT – KT của Chính phủ Việt Nam
Theo nhận định của bà Võ Thị Thắng – Nguyên tổng cục trưởng TCDL trong Hội
nghị Tổng kết đầu tư CSHT – KT du lịch thời kì 2001 – 2005 thì vốn ngân sách để tập
trung cho sự phát triển CSHT – KT du lịch tại các tỉnh – Thành phố trong giai đoạn đã
đạt hiệu quả tương đối cao. Từ năm 2001, thực hiện chủ trương tập trung cho sự phát
triển du lịch theo công văn số 1095/CP-KTTH ngày 28/11/2000 về việc xây dựng các
khu du lịch, ngân sách nhà nước đã được bố trí hỗ trợ đâu tư cho CSHT-KT du lịch cho
các địa phương. Dù không phải là nguồn vốn lớn, nhưng nguồn vốn này giữ vai trò rất
quan trọng trong việc thu hút các nguồn lực khác.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà nước sẽ hỗ trợ vốn từ ngân sách để đầu tư
CSHT-KT du lịch cho các dự án thuộc khu du lịch đã được xác định tại chiến lược phát
triển du lịch Viêt Nam giai đoạn 2006-2010. Theo đó, Nhà nước sẽ hỗ trợ các địa
phương có khu du lịch xây dựng CSHT-KT như đường giao thông nối từ đường trục
chính đến các điểm, khu du lịch, cầu cảng, bến thuyền, bãi đỗ xe nhằm tạo điều kiện
thụận lợi để tiếp cận các địa điểm du lịch, các khu du lịch.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng qui định, đối với các địa phương thuộc các khu du
lịch quốc gia, mức hỗ trợ sẽ không quá 30 tỷ đồng/năm; đối với các địa phương thuộc
các khu du lịch chuyên đề thuộc địa bàn khó khăn, mức hỗ trợ không quá 25 tỷ
đồng/năm; đối với các địa phương có khu du lịch thuộc địa bàn khó khăn không quá 15
tỷ đồng/năm [24].
3. Khả năng nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ du lịch MICE của các doanh
nghiệp Việt Nam
Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam, mà thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm có điều kiện hơn bất kì
một thành phố nào để phát triển sản phẩm dịch vụ tổng hợp này vì có lợi thế là cửa ngõ
ra vào của cả nước,
khách du lịch sẽ đến thành phố Hồ Chí Minh trước khi tham quan vùng đất nào dù
xa hay gần.
Với vai trò là một trung tâm kinh tế- thương mại, văn hóa, khoa học- kĩ thuật…và
là đầu mối giao thông quan trọng đối với trong nước và quốc tế. TP.HCM được tổ chức
Liên hiệp quốc xếp vào loại đô thị lớn nhất thế giới vào thế kỉ XXI. Với việc cải thiện
và tăng cường đầu tư CSHT-KT và các cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch, hiện nay
thành phố có một hệ thống khách sạn 4-5 sao đạt tiêu chuẩn quốc tế như: Sheraton,
Saigon Hotel & Tower, Caravelle, Daiwoo, New World, Renaissance, Riverside,
Majestic, Equatorial, Legend Saigon, Duxton, Rex v.v… có khả năng cung cấp các
phòng họp đạt tiêu chuẩn cao với sức chứa từ 300 đến 800 chỗ với các phương tiện,
trang thiết bị hiện đại phục vụ hội nghị, hội thảo như hệ thống âm thanh, thông tin liên
lạc, phiên dịch. Ngoài ra, hệ thống trung tâm thương mại Dimond Plaza, Vincom,
Parkson ở trung tâm thành phố rất thuận lợi chỉ việc mua sắm cũng như thăm quan,
nghỉ dưỡng trong vòng bán kính 200km từ trung tâm thành phố (bao gồm các vườn
quốc gia, các địa điểm du lịch sinh thái, các khu nghỉ dưỡng chất lượng cao dọc theo
các bãi biển v.v…) rất thuận tiện để tổ chức các tour du lịch khen thưởng, khích lệ cho
các đoàn du khách quốc tế.
Bên cạnh TP.HCM thì các trung tâm kinh tế- thương mại lớn trong cả nước như
Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ và các tỉnh, thành phố du lịch nổi tiếng như Sapa- Lạng
Sơn, Hội An- Quảng Nam, Vịnh Hạ Long- Quảng Ninh, Nha Trang- Khánh Hòa, Quy
Nhơn- Bình Định, Mũi Né- Phan Thiết, Phú Quốc- Kiên Giang cũng đã và đang nỗ lực
không ngừng trong việc nâng cao số lượng và cải thiện chất lượng phục vụ của các
khách sạn, các khu nghỉ dưỡng đạt chuẩn 3-5 sao nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của du khách du lịch MICE đến Việt Nam trong giai đoạn tới.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch MICE đều rất chú trọng phát triển và
nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng. Sở Du lịch Hà Nội cho biết nhìn
chung hệ thống cơ sở lưu trú thành phố tiếp tục khẳng định vị thế hàng đầu trong cả
nước, trong đó các khách sạn từ 3-5 sao có khả năng cạnh tranh được với khách sạn
trong khu vực về giá cả lẫn chất lượng. Ngoài ra, phương thức bán hàng qua mạng đã
được hầu hết các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn lớn áp dụng. Hơn thế, một số doanh
nghiệp còn chú trọng xây dựng những trang web chuyên đề cho từng loại thị trường.
Nếu việc quảng bá được thực hiện tốt thì thị trường du lịch Việt Nam cũng không thua
kém các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Singapore.
II. Tình hình thu hút khách du lịch quốc tế theo loại hình du lịch MICE ở Việt
Nam
Loại hình du lịch MICE đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1994. Tuy nhiên, du lịch
MICE chỉ thực sự nhận được sự quan tâm đầu tư từ phía nhà nước lẫn doanh nghiệp từ
năm 2000, và xuất hiện trên bản đồ du lịch MICE của thế giới kể từ sau sự kiện Việt
Nam tổ chức thành công Cuộc họp thượng đỉnh APEC 2006. Nhận ra được tiềm năng
phát triển rất lớn của loại hình du lịch này, Chính phủ Việt Nam cùng các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực du lịch đã mạnh dạn đầu tư mạnh mẽ vào du lịch MICE và xác
định đây là một trong những động lực phát triển chính của ngành du lịch Việt Nam
trong thời gian tới.
1. Hoạt động quảng bá du lịch quốc tế cho dịch vụ du lịch MICE của Việt Nam:
1.1. Sử dụng phương tiện truyền thông quốc tế
Trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ đã có những sự đầu tư đáng kể vào việc
quảng bá, giới thiệu du lịch Việt Nam trên các phương tiện truyền thông quốc tế. Trong
đó nổi bật nhất chính là việc quảng bá hình ảnh Việt Nam trên kênh truyền hình CNN -
kênh truyền hình uy tín của thế giới. Vào tháng 10/2007, đoạn phim 30 giây quảng bá
du lịch Việt Nam đã phát sóng định kỳ trên kênh truyền hình quốc tế CNN Châu Á.
Đoạn phim này đã được phát sóng liên tiếp đến hết ngày 13/1/2008 vừa qua. Hãng
CNN đã dành giờ vàng vào buổi sáng và buổi chiều đề quảng cáo cho du lịch Việt Nam
trên các kênh của CNN ở Châu Á như Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản… Đoạn phim
này do nhóm làm phim chuyên nghiệp của CNN được thực hiện với kỹ thuật hiện đại,
trong đó hình ảnh đất nước Việt Nam với bề dày văn hóa lịch sử, con người thân thiện,
hiếu khách ẩm thực, nghệ thuật, cảnh quan thiên nhiên phong phú được thể hiện sống
động. Để thực hiện và phát sóng đoạn phim này, Chính phủ đã chi gần 4,7 tỷ đồng,
tương đương 290,750 USD nhằm tăng cường hơn nữa việc thu hút DKQT đến Việt
Nam [13]
Một sự kiện quan trọng khác trong năm 2007 chính là việc hình ảnh Việt Nam,
trong đó chủ yếu là vịnh Hạ Long được phát sóng miễn phí liên tục trong hai tuần trên
kênh truyền hình Fashion TV- kênh truyền hình đứng thứ 2 trên thế giới với 1,4 tỉ người
theo dõi hàng ngày. Chương trình này do Công ty du lịch Saigontourist và Fashion TV
phối hợp thực hiện. Các chương trình sẽ được thu hình và chia ra phát sóng thành nhiều
clip, mỗi clip có độ dài trung bình 3 phút trên kênh Fashion TV,
Đồng thời, trên phụ trương đặc biệt kèm theo của tạp chí Paris Match, một trong
những tạp chí danh tiếng nhất của Pháp đã dành 8 trang có tiêu đề “Không thể nào bỏ
qua Việt Nam”, nhân dịp thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Cộng hòa Pháp
từ 29/9 đến 3/10 năm 2007. Ngày 3/10/2007, tuần báo nổi tiếng của Mỹ Wall Street
Journal cũng đã có 4 chuyên trang quảng cáo đặc biệt về đất nước Việt Nam [13].
Trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã có Website quảng bá du lịch Việt Nam của
TCDL Việt Nam với 5 ngôn ngữ khác nhau, trong đó có phần giới thiệu về hình thức du
lịch MICE cũng như các đường link gắn kết với website của các công ty du lịch lữ hành
nổi tiếng, các vùng du lịch trọng điểm trong cả nước, Ngoài ra Câu lạc bộ MICE Việt
Nam cũng có một website khá chuyên nghiệp bằng hai ngôn ngữ Anh - Việt giới thiệu
hoạt động du lịch MICE tại Việt Nam, trong website còn có các đường link dẫn đến
website các thành viên câu lạc bộ như Hãng hàng không Việt Nam - Vietnam Airlines,
Saigontourist..
Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố du lịch nổi tiếng như Hà Nội, Quảng Nam, Vịnh
Hạ Long, Nha Trang- Khánh Hòa, TP.HCM, Bà Rịa- Vũng Tàu đều xây dựng những
website riêng nhằm quảng bá, giới thiệu về ngành du lịch của tỉnh, thành phố. Trong đó
website cua Sở Du lịch Hà Nội và TP.HCM đặc biệt quan tâm đến MICE vì đây là hai
điểm nổi bật thu hút khách MICE hiện nay.
Các công ty du lịch lữ hành, cung cấp dịch vụ MICE như website của Hanoi
Tourist, BenThanh Tourist, Viettravel và Fiditourist v.v…đã bắt đầu có những bài viết,
chuyên mục riêng biệt về du lịch MICE như một cách thể hiện quan tâm, đầu tư của
công ty vào loại hình này khi mà du lịch MICE mang đến cho họ những nguồn thu
không nhỏ. Ưu điểm của hầu hết các website quảng bá, giới thiệu du lịch Việt Nam là
đều có từ 2 ngôn ngữ cơ sở trở lên, giúp cho các DKQT thuận lợi hơn trong việc tìm
kiếm thông tin.
Tuy nhiên, hoạt động quảng bá du lịch MICE của các công ty kinh doanh trong
lĩnh vực này còn thiếu tính sáng tạo và chưa tích cực. Các tập đoàn, công ty hoặc
DKQT muốn tìm kiếm những thông tin cần thiết về du lịch MICE tại Việt Nam thường
gặp nhiều hạn chế do hầu hết các website du lịch ở nước ta chưa đăng ký trên các công
cụ tìm kiếm internet phổ biến trên thế giới, cũng như các website được thiết kế thiếu
chuyên nghiệp, hình ảnh kém sinh động, không tạo nên sự thu hút đối với người truy
cập, không được cập nhật thường xuyên và hạn chế ngôn ngữ sử dụng.
1.2. Tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến du lịch MICE
1.2.1. Tổ chức các sự kiện văn hóa, chính trị trong nước
Trong giai đoạn 2000-2010, Việt Nam đã tổ chức thành công 3 sự kiện quốc tế lớn
của khu vực và thế giới đó là SEAGAMES 22, ASEM 5 và Năm APEC Việt Nam với
hàng loạt các sự kiện lớn như Hội nghị cấp cao APEC, Hội nghị Bộ trưởng, Du lịch
APEC, Hội chợ du lịch APEC, Đại hội thể thao Châu Á trong nhà, Cuộc thi Hoa hậu
Hoàn Vũ v.v…Tất cả các sự kiện trên đều được bạn bè quốc tế đánh giá rất cao từ khâu
chuẩn bị cho đến khâu tổ chức, hậu cần và cũng chính những sự kiện này đã đóng góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời
tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là
du lịch MICE.
Năm 2003, Việt Nam đăng cai tổ chức SEAGAMES22- một đại hội thể thao lớn
nhất khu vực Đông Nam Á, được bạn bè các nước trong khu vực đánh giá cao về công
tác chuẩn bị, khả năng tổ chức và phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành liên quan. Chủ
tịch đoàn thể thao của tất cả các nước tham gia SEAGAMES 22 đều đánh giá đây là
một trong những kỳ đại hội thành công nhất, thân thiện nhất và công bằng nhất. Sự
thành công của đại hội thể thao lớn nhất khu vực, đồng thời đã tạo nên một nền tảng
vững chắc, thu hút được sự quan tâm của bạn bè quốc tế để Việt Nam có thể tổ chức
tiếp theo hàng loạt các sự kiện quốc tế khác trong những năm tiếp theo.
Đến năm 2004, một lần nữa Việt Nam lại tạo ra một ấn tượng tốt đẹp trong mắt
bạn bè quốc tế khi tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Á – Âu lần thứ 5, gọi tắt là
ASEM 5 diễn ra trong hai ngày 8 và 9 tháng 10/2004. Việc tổ chức thành công hội nghị
này không chỉ là sự khẳng định đường lối tích cực hội nhập quốc tế mà còn góp phần to
lớn trong việc tăng cường thu hút khách DLQT đến Việt Nam.
Một sự kiện quốc tế quan trọng khác không thể không nhắc đến trong giai đoạn
2000-2010 là việc Việt Nam được chọn là nước chủ nhà của Hội nghị Cấp cao APEC
lần thứ 14 diễn ra vào tháng 11 năm 2006. Năm APEC 2006 là sự kiện quốc tế lớn nhất
từ trước đến nay tổ chức tại Việt Nam, trong đó trọng tâm là Tuần lễ Cấp cao APEC
diễn ra từ ngày 12 đến 19-11-2006 tại Hà Nội. Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị
Cấp cao APEC 2006, Việt Nam trở thành tâm điểm của các phương tiện truyền thông
trên khắp thế giới. Đây vừa là vinh dự, niềm tự hào vừa là sự đóng góp lớn nhất của
Việt Nam trong tiến trình phát triển của APEC, đồng thời thể hiện sinh động hình ảnh
và vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam ở khu vực và thế giới. Ngoài ra, nước ta
còn là chủ nhà cho một số sự kiện quốc tế khác như Cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ 2008,
Đại hội thể thao châu Á trong nhà Asia Indoor Game 3 vào năm 2009, Diễn đàn du lịch
ASEAN 2009 (ATF-2009). Hình ảnh Việt Nam được giới truyền thông ca ngợi và đánh
giá cao trong công tác tổ chức cả về nội dung lẫn hậu cần.
Đối với ngành du lịch Việt Nam, sự kiện này mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng
trong việc đẩy mạnh sự phát triển của ngành du lịch trong nước, trong đó trọng tâm
chính là du lịch MICE – loại hình du lịch mà chính sự thành công của các sự kiện trên
đã chứng mình tiềm năng phát triển rất lớn của nó tại Việt Nam trong tương lai. Sau sự
kiện APEC 2006, ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch MICE nói riêng có
những bước phát triển mạnh mẽ, Trong năm 2007 thì số dự án đầu tư du lịch trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam đã lên tới 47 dự án với tổng số vốn hơn1,86 tỷ USD, tăng
19,57% so với năm 2006, trong đó hơn 50% là các dự án đầu tư xây dựng các khách sạn
cao cấp cũng như các trung tâm thương mại tầm cỡ quốc tế [14].
1.2.2. Tham gia các sự kiện xúc tiến du lịch quốc tế
Trong giai đoạn 2000-2010, các doanh nghiệp Việt Nam đã phối hợp các ban
ngành, cơ quan chức năng thực hiện các sự kiện văn hóa, lễ hội đặc sắc như các kỳ
Festival Huế, Tuần văn hóa - du lịch Hội An năm 2000, Festival hoa Đà Lạt, Con đường
gốm sứ ở Hà Nội, Festival biển Nha Trang. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn phối
hợp với Chính phủ thực hiện các chương trình “Năm du lịch Việt Nam” được phát động
vào năm 2003 với các chương trình cụ thể như Năm du lịch Hạ Long 2005, Năm du
lịch Điện Biên Phủ 2006, Năm du lịch Nghệ An 2007, Năm du lịch Quảng Nam 2008
và Năm du lịch Tuyên Quang 2009 với chủ đề “Về thủ đô gió ngàn – Chiến khu Việt
Bắc” và gần đây là Chương trình đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (2010)…
Tất cả những chương trình trên đều tạo nên một nét văn hóa đặc trưng của du lịch
Việt Nam, đây là môt trong những yếu tố giúp Việt Nam trở thành sự lựa chọn của
nhiều DKQT, trong đó có khách du lịch MICE. Như đã đề cập trên, du khách MICE là
những người có thu nhập cao, có địa vị trong xã hội và mức chi tiêu trung bình vào các
hoạt động ngoài hội nghị cao. Vì vậy, việc tổ chức nhiều chương trình, lễ hội văn hóa
đặc sắc sẽ thu hút được sự chú ý của du khách MICE khi lựa chọn điểm đến, đồng thời
góp phần nâng cao hơn mức chi tiêu của du khách MICE và các dịch vụ và sản phẩm du
lịch gắn liền với các lễ hội này.
Trong giai đoạn 2000-2010, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch MICE đã tham
gia khá nhiều hội chợ DLQT danh tiếng, được tổ chức định kỳ hàng năm như WTM-
Anh, World Expo- Nhật Bản, ITB- Đức, CITM và BITTM tại Trung Quốc, Top Resa-
Pháp, các hội chợ tại Thái Lan, Singapore, Malaysia [11].
Đặc biệt là trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam cũng đã bắt đầu tham gia các hội
chợ chuyên đề du lịch MICE trong đó đáng chú ý nhất là các hội chợ MICE lớn trên thế
giới như IT&CMA lần thứ 11 (Incentive travel& Conventions, Meetings Asia), hội chợ
AIME 2004, hội chợ IMEX [15]. Thông qua việc tham gia hội chợ và các cuộc tiếp xúc
trực tiếp, lượng khách DLQT đến với Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Ngoài ra, đây cũng
là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch MICE tiến hành đánh
giá về các xu hướng du lịch MICE tại các thị trường trên thế giới này và những thay đổi
về nhu cầu của du khách MICE trên các thị trường khác nhau. Thông tin cụ thể về các
hội chợ trên được tóm tắt qua bảng sau:
Hội chợ IMEX T&CMA lần thứ 11 AME
Thời gian và địa
điểm
Tháng 5/2004 Tháng 1/2003 tại
Trung tâm Hội nghị
Impact, Bangkok,
Thái Lan
Tháng 2/2004 và
tháng 2/2009 tại
Merbourn, Úc
Mục đích tham dự - Trao đổi và cung
cấp thông tin và
tiềm năng phát triển
du lịch MICE nói
riêng
- Tìm kiếm các đối
tác vừa và nhỏ bên
cạnh việc củng cố
quan hệ với các đối
- tác truyền thống,
đẩy mạnh phát
triển MICE
- Tiếp nhận thông
tin, học hỏi kinh
nghiệm và ký kết
hợp tác với đối tác
- Đẩy mạnh hoạt
động quảng bá Việt
Nam như một điểm
đến hấp dẫn cho các
chương trình du lịch
kết hợp tổ chức hội
thảo, hội nghị.
Kết quả đạt được - Làm việc với trên
100 đối tác là các
nhà tổ chức MICE
chuyên nghiệp đến
từ Mỹ, Châu Úc,
Châu Á, Nam Mỹ -
Việt Nam được lựa
chọn là điểm đến ưa
chuộng nhất Châu
Á.
Nguồn: Tổng hợp thông tin từ website www.congdongdulich.com
2. Số lượng khách du lịch quốc tế của dịch vụ du lịch MICE ở Việt Nam
Trong giai đoạn 2000-2010 Việt Nam đã đón hàng triệu du khách quốc tế, được
thể hiện cụ thể qua thống kê sau của Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Hình 2.1: Lượng du khách quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 2000-2009
Nguồn: Tổng Cục Du Lịch 2010, Báo cáo thống kê 20010
Phân tích biểu đồ 2.1 ta thấy số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong
giai đoạn 2000-2010 đã tăng gần hai triệu người, đạt mức tăng trưởng bình quân 12%
năm, mặc dù có sụt giảm đột ngột vào năm 2009 do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Tuy nhiên, trong 3 tháng đầu năm 2010, lượng khách quốc tế đến Việt
Nam ước tính đạt 1.351.224 lượt, tăng 36,2% so với cùng kỳ năm 2009 (phụ lục số 1).
Các số liệu này đã nói lên sự phục hồi và phát triển khả quan của ngành du lịch nước
nhà trong suốt thời gian qua, đồng thời hứa hẹn một tương lai tươi sáng hơn khi Việt
Nam đang dần tự khẳng định mình như một “vẻ đẹp tiềm ẩn” trong mắt bạn bè thế giới.
Đối với du lịch MICE, mặc dù là địa điểm mới nổi so với các nước trong khu vực,
nhưng hoạt động du lịch MICE của nước ta đã thu hoạch được những thành công bước
đầu. Năm 2004, du lịch MICE Việt Nam đã xếp thứ 9 trong Top ten MICE 2004 trong
báo cáo của công ty nghiên cứu Synovate. Đáng kể nhất đó là nước ta đăng cai thành
công Hội nghị thượng đỉnh APEC (2006), qua đó khẳng định thực lực của hoạt động du
lịch này cả nước nhà, đưa MICE của Việt Nam lọt vào tầm ngắm của các nhà tổ chức
hội thảo- hội nghị trong khu vực và thế giới
Mặc dù chưa có một con số thống kê chính thức lượng du khách MICE đến Việt
Nam từ các cơ quan hữu quan trong nước, nhưng theo ước tính của các hiệp hội ngành
nghề trong nước và trên thế giới, từ 2005 đến 2009, Việt Nam đã đón số lượng khách
MICE như sau:
Hình 2.2: Biểu đồ ước tính lượng khách du lịch tới Việt Nam từ năm 2005 đến
2009
Nguồn: ICCA Statistics Report 2010, Outbound visitors all over the world 2009,
pages 56-59
Biểu đồ cho thấy tốc độ tăng trưởng trung bình của du lịch MICE Việt Nam là
27,5%. Năm 2006, trong số 3,6 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam, ước tính có đến
hơn 20% là khách du lịch MICE [2]; đặc biệt là trong hai tháng 11 và 12, tức là sau sự
kiện Việt Nam gia nhập WTO và được chọn là nước chủ nhà của Hội nghị thượng đỉnh
APEC 2006, các hợp đồng du lịch MICE liên tiếp đến với các công ty du lịch trong
nước, nâng lượng du khách MICE ước tính đến Việt Nam lên gần 720.000 khách, tăng
xấp xỉ 50% so với năm 2005. Vào năm 2007, MICE Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ
tăng trưởng là 30% với lượng khách ước tính đạt 940.000 khách. Mặc dù năm 2008 là
một năm tương đối khó khăn đối với nền kinh tế toàn cầu, nhưng số vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam không bị sụt giảm mà còn tăng lên, kéo theo đó là
số công ty nước ngoài đặt trụ sở tại Việt Nam tăng cao, số nhân công phát triển, và hệ
quả tất yếu là nhu cầu tìm đến loại hình du lịch MICE tăng cao [3], làm tổng số du
khách MICE đến Việt Nam tăng nhẹ lên 1.076.000 người, đạt tăng trưởng 14% so với
năm trước. Sang năm 2009, trái với dự đoán của Diễn đàn du lịch ASEAN 2009 (ATF)
rằng đây sẽ là một năm bùng nổ du lịch MICE của khu vực, số lượng du khách quốc tế
đến Việt Nam nói riêng và các nước trong khu vực nói chung đều đồng loạt giảm mạnh
như hệ quả tất yếu của cuộc khủng hoảng tài chính đang lan rộng trên quy mô toàn cầu.
Có thể nói đây là một tín hiệu đáng mừng vì ngành du lịch Việt Nam đang phát triển
đúng hướng.
Xét về mặt tỷ trọng, lượng du khách MICE chiếm khoảng 23% trong tổng lượng
khách du lịch đến Việt Nam trong 5 năm qua bất chấp những biến động bất lợi khách
quan của nền kinh tế thế giới. Điều này đã chứng tỏ du lịch MICE có một nội lực đáng
kể và tiềm năng to lớn. Do đó, các doanh nghiệp cần phải có kế hoạch đẩy mạnh hơn
nữa tốc độ phát triển và khai thác hiệu quả loại hình du lịch tiềm năng này trong giai
đoạn tới.
3. Mức chi tiêu của du khách MICE đến Việt Nam
Theo những thống kê tương đối mà tập đoàn Visa khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương công bố vào năm 2005 thì mức chi tiêu qua thẻ Visa của du khách quốc tế đến
Việt Nam trong qúy 4 năm 2005 là 1,4 tỷ đồng. Mức chi tiêu chủ yếu của khách quốc tế
đến Việt Nam khi sử dụng thẻ Visa chủ yếu dành cho các dịch vụ như chỗ ở 29%, mua
sắm 16%, đi lại 11%, ăn uống 7% và các hoạt động thể thao và giải trí là 4% [4]. Như
vậy du khách MICE chi tiêu nhiều hơn so với các du khách thông thường vì họ sử dụng
các dịch vụ cao cấp hơn. Sau đây là biểu đồ diễn tả mức chi tiêu của du khách MICE
qua các giai đoạn ở Việt Nam.
Hình 2.3: Mức chi tiêu trung bình của DKQT tại Việt Nam trong các giai đoạn
Nguồn: Tổng cục thống kê 2010, Cuộc điều tra về chi tiêu của khách du lịch Việt Nam
Ngoài ra, theo Cuộc điều tra về chi tiêu của khách du lịch ở Việt Nam do Tổng cục
thống kê tiến hành, mức chi tiêu trung bình của khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
trong giai đoạn 2001-2005 là 130USD/người/ngày, tăng 30% so với giai đoạn 1998-
2000 và tăng 62,5% so với giai đoạn 1995-1997. Trong giai đoạn 2006-2010, ước tính
mức chi tiêu trung bình này sẽ đạt 170USD/người/ngày, tăng 30% so với giai đoạn
2000-2005 [5].
Đối với loại hình du lịch MICE, số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam cho biết
mức chi tiêu trung bình của du khách MICE qua các năm như sau:
Hình 2.4: Biểu đồ mức chi tiêu trung bình của khách MICE qua các năm
Nguồn: ICCA Statistics Report, International Association Meetings Market, Country
and city rankings 2010 [6]
Phân tích biểu đồ 2.4 ta thấy nếu như vào năm 2003, mức chi tiêu trung bình của
du khách MICE dành cho các hoạt động ngoài hội nghị là 350USD thì năm 2004, mức
chi tiêu này là 403USD, tăng 15% so với năm 2003; và trong năm 2005 là 575 USD,
đẩy tốc độ tăng thường niên đến kỷ lục 42%. Hơn thế, theo kết quả khảo sát ICCA [6]
về hoạt động hội thảo, hội nghị của các nước trong giai đoạn 1999-2009, mức chi tiêu
của khách MICE tại Việt Nam cũng không ngừng tăng lên qua các năm 2006, 2007,
2008 và 2009.
Biểu đồ cho thấy trong suốt 4 năm 2007-2010, mức chi tiêu của du khách MICE
tại Việt Nam không ngừng gia tăng mặc dù có phần chậm lại trong năm 2008 do tác
động của cuộc khủng hoảng toàn cầu nhưng sau đó lại tăng nhẹ vào năm 2009 và tăng
mạnh vào năm 2010.
Tuy nhiên, bất chấp sự gia tăng liên tiếp trong nhiều năm, ngưỡng chi tiêu
900USD của khách quốc tế MICE tại Việt Nam vẫn còn nằm ở mức thấp so với các
nước khác trong khu vực. Vì vậy, có thể nói rằng khả năng nâng cao hơn nữa mức chi
tiêu trung bình của du khách quốc tế của loại hình dịch vụ MICE tại Việt Nam là rất
lớn. Nói cách khác, nguồn lợi từ loại hình MICE của nước ta vẫn còn trong giai đoạn
tiềm năng, chưa khai thác đầy đủ.
4. Tình hình cung cấp dịch vụ du lịch MICE của doanh nghiệp ở Việt Nam
4.1. Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ MICE
4.1.1. Loại hình doanh nghiệp cung cấp dịch vụ MICE
Các doanh nghiệp kinh doanh loại hình du lịch MICE phát triển mạnh, thích nghi
dần cơ chế và đạt được những thành tích nhất định. Tính đến nay nhà nước đã có hơn
11.0000 cơ sở kinh doanh lưu trú; 758 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, hơn 10.000 doanh
nghiệp lữ hành nội địa. Các doanh nghiệp kinh doanh loại hình du lịch MICE là các
doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, các công ty liên doanh và công ty trách
nhiệm hữu hạn.
4.1.2. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp kinh doanh loại hình du lịch MICE
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nói chung và du lịch MICE nói riêng chủ
yếu huy động vốn từ chính phủ và các hỗ trợ đầu tư của nước ngoài. Từ năm 2001-2009
chính phủ đã cấp 4836 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư xây dựng các hạ tầng ở các khu du lịch
trọng điểm, cụ thể:
Bảng 2.1: Vốn ngân sách TW hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng năm 2001-2009
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Số vốn
(tỷ
đổng)
266 380 450 500 550 620 750 620 700
Nguồn: Tổng cục du lịch, “ lịch sử ngành”
Vốn đầu tư nhà nước dành cho ngành du lịch nói chung đa phần tăng dần qua các năm,
riêng năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên vốn đầu tư có
giảm giảm nhẹ còn hầu hết ở các năm đều giữ vững mức tăng trung bình 11%-13% một
năm. Bên cạnh nguồn vốn từ Trung ương, các doanh nghiệp cũng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài thông qua các dự án của FDI vào Việt Nam. Các con số được cụ thể như
sau:
Bảng 2.2: Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào ngành du lịch Việt Nam (2001-2009)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Số dự án 04 25 13 15 17 23 48 26 154
Số vốn
(triệu đô)
10,3 174,2 239 111,1 123,5 1.015 2.012 9.126 2.483
Nguồn: Tổng cục du lịch, “một số thành tựu của ngành du lịch”
Các dự án (FDI) chủ yếu là đầu tư vào xây dựng nâng cấp hệ thống khách sạn,
khu nghỉ mát cao cấp, tiếp đến là các dự án về xây dựng và phát triển các khu du lịch
mới, xây dựng trung tâm thương mại. Theo thống kê của bảng 2.2, số dự án tăng đều ở
các năm và tăng vọt vào năm 2007 nhưng sau đó giảm mạnh vào năm 2008 do cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên đến năm 2009, con số các dự án FDI đầu tư
vào lĩnh vực du lịch đã tăng vọt, một tín hiệu đáng mừng cho sự khởi sắc của ngành du
lịch.
4.2. Đầu tư của doanh nghiệp vào cơ sở hạ tầng
Xuất phát từ yêu cầu cao về cơ sở hạ tầng, các doanh nghiệp kinh doanh loại hình
du lịch MICE đã chú trọng đầu tư vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch.Theo báo cáo từ hệ thống các KS lớn trong cả nước thì giai đoạn
2000-2010, đặc biệt là 3 năm gần đây tình trạng thiếu phòng dành cho khách du lịch
MICE thường xuyên xảy ra. Chính từ thực trạng đó mà giai đoạn 2000-2010, nhiều KS,
khu nghỉ mát đạt chuẩn 3-5 sao đã nâng cấp và xây mới, nhằm mở rộng khả năng phục
vụ khách du lịch MICE. Sau đây là bảng thống kê số lượng khách sạn 3-5 sao qua các
năm:
Bảng 2.3: Số lượng các KS 3-5 sao tại Việt Nam qua các năm:
Hạng
Số lượng
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
5 sao 18 22 25 31 35
4 sao 48 56 79 88 95
3 sao 116 138 157 172 184
Tổng 182 216 261 291 314
Nguồn: Tổng cục du lịch, “chuyên trang tổng kết 50 năm phát triển du lịch” (2010)
Từ năm 2000 đến năm 2005, số phòng KS Việt Nam đã tăng 72%, đạt 95.700
phòng. Trong giai đoạn 2005-2010, các dự án đầu tư hàng triệu đô la trong và ngoài
nước đã giúp nâng cao số lượng các KS khả năng cung cấp dịch vụ MICE, đạt chuẩn từ
3 đến 5 sao một cách vượt bậc.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng cho du lịch MICE của nước ta
còn được đặc biệt mở rộng bằng việc xuất hiện các trung tâm hội thảo- triển lãm với
hàng chục phòng họp quy mô lớn, các phương tiện hiện đại phục vụ tác nghiệp báo chí,
khu liên hợp khách sạn…chuyên phục vụ các hoạt động MICE. Điển hình là các công
trình như:
Trung tâm tổ chức hội thảo – sự kiện & du lịch gọi tắt là trung tâm Cite thuộc Bến
Thành Tourist vào năm 2004
Trung tâm triển lãm và hội chợ Sài Gòn đã bắt đầu được khởi công 20/7/2004,
hoàn thành vào tháng 10/2005.
Trung tâm hội nghị quốc gia ở Hà Nội được hoàn thành vào tháng 10/2006.