Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Chủ trương của Đảng trong vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.87 KB, 22 trang )

Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

1.
1.1.

Lý thuyết
Khái niệm vấn đề xã hội
Các vấn đề xã hội là một phạm trù to lớn bao gồm nhiều lĩnh vực như: việc làm,
thu nhập, bình đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
sức khỏe, cung ứng dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số
và kế hoạch hóa gia đình,…

1.2.

Vấn đề việc làm
Theo bộ Luật lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc
hội thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994 thì việc làm được định nghĩa như sau:
"Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm ".
Việc làm có vai trò to lớn và hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và nền kinh
tế.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân
mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc
làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân,
thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng
nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..), vào
những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn
hoá thấp,..). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi,
nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến
thức, trình độ vốn có.
Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì


vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt
khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó
1


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội , không tạo
ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và
trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người
lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm
bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì
vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin
của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội.
Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo
là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị.
Việc làm là vấn đề hết sức nhức nhối hiện nay.
Tình trạng thiếu việc làm nói chung và cử nhân thất nghiệp nhiều nói riêng đã từng
khiến dư luận “choáng”. Theo TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn
đề xã hội của Quốc hội, cho biết: Đến thời điểm 31-12-2014, dân số cả nước là
90,7 triệu người, trong đó có 54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động. Cả nước
đã có khoảng 1,2 triệu lao động thiếu việc làm (tỉ lệ 2,45%, trong đó khu vực thành
thị là 1,18% và nông thôn là 3,01%) và gần 1 triệu lao động thất nghiệp chiếm
2,08%; trong số này khu vực thành thị là 3,43% và nông thôn là 1,47%. Vậy, số
việc làm tạo ra dù tăng nhưng không theo kịp số người có nhu cầu tìm việc.
1.3.

Vấn đề nghiên cứu
Từ ngày đất nước ta có sự đổi mới về kinh tế, chuyển từ kinh tế tập trung sang cơ

chế thị trường nhiều thành phần, tự do hoạt động và hạch toán nên đất nước cũng
có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu về
kinh tế cũng như xã hội. Nhưng xét đến tính hai mặt của vấn đề thì cơ chế thị
trường bên cạnh những mặt được thì cũng còn những mặt chưa được : Một trong
những mặt chưa được đó là những mặt đó là tình trạng sinh viên ra trường thất
nghiệp ngày càng tăng, vấn đề xã hội mà gần như không có trong nền kinh tế bao
cấp.
Đất nước muốn phát triển thì phải đi lên từ lao động, mà sinh viên là lực lượng lao
động trẻ, năng động, dồi dào và được đào tạo. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất
quan trọng cần được sử dụng một cách hợp lý hiệu quả. Tình trạng sinh viên thất
nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
2


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

Vấn đề này là mối quan tâm sâu sắc đối với chúng em, những sinh viên đã sắp đi
hết nửa chặng đường của năm 3 đại học. Đó cũng chính là lí do khiến chúng em
chọn đề tài: “Chủ trương của Đảng trong vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam
hiện nay. Liên hệ với vấn đề việc làm của sinh viên Thương mại nói chung và sinh
viên khoa Marketing nói riêng sau khi ra trường.”
2.
2.1.

Nội dung chủ trương của Đảng trong giải quyết các vấn đề việc làm
Thời kỳ trước đổi mới .
2.1.1. Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội.
2.1.1.1. Giai đoạn 1945-1954
- Ngay sau Cách mạng Tháng Tám và trong năm thực hiện nhiệm vụ kháng
chiến , kiến quốc ,chính sách xã hội của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu làm

cho dân có ăn, làm cho dân có mặc , làm cho dân có chỗ ở , làm cho dân
được học hành . Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn , người đủ ăn
thì khá giàu , người giàu thì giàu thêm . Chủ trương này đã nhanh chóng đi
vào cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực .
- Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có chủ trương và hướng dẫn để các
tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của
chính mình như : chính sách gia tăng sản xuất, chủ trương tiết kiệm , đồng
cam cộng khổ; khuyến khích tự do sản xuất; kinh doanh thực hiện chính
sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ …
2.1.1.2. Giai đoạn 1955- 1975.
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình CNXH kiểu cũ ( kế hoạch
hóa tập trung) và trong hoàn cảnh có chiến tranh.
- Chế độ phân phối ( phân phối cho sản xuất : phân chia các yếu tố sản xuất
cho các ngành sản xuất và phân chia cho tiêu dùng : phân chia sản phẩm
cho các cá nhân tiêu dùng ) thực chất theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng .
- Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao
cấp tràn lan dựa vào viện trợ từ bên ngoài.
Nhận xét: Trong chiến tranh do Đảng và Nhà nước có đường lối phù hợp
nên chúng ta đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vùng lên đánh
bại kẻ thù xâm lược thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng đi lên CNXH.
2.1.1.3. Giai đoạn 1975- 1985.
Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung ,
quan liêu, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế , xã hội nghiêm
trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.
Nhận xét: Trong hòa bình, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến các vấn
đề XH, KT,VH nhằm nâng cao đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh
thần.
3



Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại



2.1.2. Đánh giá việc thực hiên đường lối .
2.1.2.1. Thành tựu:
Chính sách xã hội trong 9 năm kháng chiến , kiến quốc , tiếp sau đó là thời
bao cấp suốt 30 năm đã bảo đảm được sự ổn định của xã hội và đạt được
nhiều thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực : văn hóa, giáo
dục , y tế, lối sống, đạo đức , kỉ cương và an ninh xã hội , hoàn thành nghĩa
vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
2.1.2.2. Ý nghĩa
Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội trong điều kiện chiến
tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển.
2.1.2.3. Hạn chế
- Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể
trong cách giải quyết các vấn đề xã hội.
- Chế độ phân phối trên thực tế là bình quân cao bằng không khuyến khích
những đơn vị cá nhân làm tốt, làm giỏi...
- Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát
triển về nhiều mặt.
Trước đổi mới, việc thủ tiêu các hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
xác lập chế độ công hữu một cách nóng vội đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất, đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng, từ đó không đủ các điều kiện để giải
quyết các vấn đề xã hội; Cơ chế “bao cấp” đã không huy động được các nguồn lực
trong xã hội (ngoài Nhà nước) để giải quyết các vấn đề xã hội; Việc thiết lập hệ
thống “Thị trường có tổ chức”, phân phối kết quả sản xuất theo biện pháp hành
chính, tạo sự bình đẳng về lợi ích của người lao động, tạo kẽ hở để tầng lớp đặc
quyền kiếm lợi bất chính; Việc thực hiện phương thức phân phối “bình quân chủ

nghĩa” tách rời lao động với kết quả lao động, nảy sinh sự lười biếng, ỷ lại, làm suy
giảm tích cực sáng tạo của nguồn nhân lực. Đó là một trong những nhóm nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội thời kỳ trước đổi mới.
2.1.2.4. Nguyên nhân:
- Đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách kinh tế,
chính trị
- Đồng thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp.
2.2. Trong thời kì đổi mới
2.2.1. Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) lần đầu tiên nâng các
vấn đề xã hội lên tầm "Chính sách xã hội", đặt rõ tầm quan trọng của chính sách
4


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

-

-

-





xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho
rằng: “ Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã
hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế.’’

Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế , chính sách xã hội có ảnh hưởng trực
tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.
Đây là sự đổi mới tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể
đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính
sách kinh tế với chính sách xã hội. Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài,
phù hợp với yêu cầu khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ. Có
thể kể đến là :
Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số.
Đảm bảo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu. Nhà
nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người lao động tự tạo ra việc
làm.
Ban hành và thực hiện Luật lao động
Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân. Từng bước xây dựng chính
sách bảo trợ xã hội XHCN đối với toàn dân, theo phương châm “nhà nước và nhân
dân cùng làm.
Xoá bỏ quan liêu bao cấp không chỉ với lĩnh vực đời sống mà còn với lĩnh vực sản
xuất, phân phối nguồn lực, trao quyền tự chủ cho xí nghiệp quốc doanh hạch toán
kinh doanh, khắc phục tình trạng “lãi giả - lỗ thật”.
Tại đại hội lần thứ VII (24-27/6/1991)
Đảng ta đã chính thức khẳng định một số quan điểm chỉ đạo việc phát triển hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể là: Mục tiêu
của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm
phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để
thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Có thể kể đến như: việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế mới, như: xác lập
nguyên tắc chi trả tiền lương, tiền công theo kết quả lao động là chủ yếu; xây dựng
quỹ bảo hiểm xã hội chung của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế; xác
định giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi thành phần
kinh tế...

Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) chủ trương hệ thống chính sách xã hội phải
được hoạch định theo những quan điểm sau:

5


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại
-

-


-





Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển.
Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn
khâu phân phối kết quả sản xuất , ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình .
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói , giảm nghèo.
Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá.tốt Phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc uống nước nhớ nguồn , đền ơn đáp nghĩa , nhân
hậu , thủy chung.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001):
Chủ trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá
xã hội.

Thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất.
Tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội. Coi
trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công bằng trong
thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế.
Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, động viên toàn xã hội tham gia giải
quyết các vấn đề xã hội.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4/2006): trong khi khẳng định những thành tựu đạt
được là cơ bản, đồng thời cũng chỉ rõ những hạn chế trong việc tổ chức thực hiện
một số chính sách xã hội như: Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc,
nguy cơ nghèo còn lớn; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các
tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra; nhu cầu về việc làm ở
thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt; tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều
hướng tăng...
Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội X đề ra chủ trương “Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng buớc và từng chính sách phát triển”.
Những vấn đề xã hội đã được Đại hội Đảng lần thứ X nhận thức và giải quyết toàn
diện cả ở góc độ mục tiêu và hệ thống giải pháp trong tổng thể các chính sách phát
triển, mà ở đó con người thực sự là trung tâm, là động lực và mục tiêu của phát
triển xã hội bền vững.
Đại hội lần thứ XI (12-19/1/2011)
Đại hội nhận xét đánh giá những công tác thực hiện sau đại hội X và tiếp tục nhấn
mạnh quan điểm:” Mở rộng nhân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con
người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”

6


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

Đại hội đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động’’. Giải quyết vấn

đề lao động – việc làm phải đi đôi với cơ cấu lại nguồn lực lao động cả nước, phục
vụ tốt yêu cầu từng bước tái cấu trúc lại nền kinh tế theo mô hình năng suất cao,
tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp
cơ bản và hữu hiệu.
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp,
bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Cụ thể
là: thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động,
xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công; khắc phục tình trạng bất hợp lý với người
lao động làm thuê trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và kể cả một
số doanh nghiệp trong nước như hiện nay, người lao động phải được quyền hưởng
lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về
chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Hai là, phê chuẩn và thực hiện các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
liên quan đến thị trường lao động nước ta, đặc biệt là nước ta hiện nay đã là thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế.
Ba là, phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ để nhanh chóng tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động vào sản
suất. Phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp. Phát triển kinh tế
trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp. Đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch
vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công
mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu để tận dụng lao
động dư thừa và lao động có ngành nghề truyền thống của nước ta. Trên cơ sở đó
tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất
khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.
Bốn là, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình độ
cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, nhất là ở khu vực
nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu
du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động đang có nhu cầu thu hút mạnh. Tập trung xử
lý lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển đổi ngành
nghề cho họ. Khắc phục tình trạng "đóng băng” trong đổi mới cơ cấu lao động làm

ảnh hưởng tới sự phát triển đa dạng và chiều sâu của nền kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công sang đơn vị tự chủ,
tự chịu trách nhiệm và thực hiện chế độ hợp đồng lao động để lao động khu vực
7


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

này có điều kiện tham gia vào thị trường lao động trong nước và ngoài nước, nâng
cao hiệu quả của lao động.
Năm là, mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Đây là một trong
những thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Vì vậy phải tập
trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông
thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu
cầu thu hút lao động cho các ngành nghề sản xuất.
Sáu là, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình
độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Cần mở rộng đào tạo và đào
tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Có như vậy
mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động trong những năm tới. .
Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng nhu cầu lao
động của thị trường (đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất) tạo
khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khỏe tốt, có kỹ
thuật, tác phong công nghiệp, có văn hóa ... cho thị trường trong nước và thị trường
ngoài nước.
Bảy là, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của
tư nhân và quốc tế. Áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành
thị trường phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống
dạy nghề kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các

trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố cũng phải có trường
dạy nghề; các quận và huyện cũng cần có các trung tâm dạy nghề; cổ phần hóa các
cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập để giảm chi phí
ngân sách cho Nhà nước. Đa dạng hóa các kênh giao dịch trên thị trường lao động
bằng thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo,
đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực
tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao động
theo đúng quy định của pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị
trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các
thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung và cho cả xuất khẩu lao động để
giúp người lao động tìm kiếm việc làm thuận lợi nhất.


Nhìn tổng thể, kể từ năm 1986 đến nay, tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giải quyết các vấn đề xã hội đã có những bước phát triển mới: Từ chỗ không đặt
8


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

-

-

-

-

-


-

đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác với chính
sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội; Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát hiện. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã
dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần
kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có
sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi
đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là
cần thiết cho sự phát triển.
2.2.2. Đánh giá sự thực hiện đường lối
Sau 20 năm đổi mới chính sách xã hội, nhận thức về vấn đề phát triển xã hội của
Đảng và nhân dân ta đã có những thay đổi quan trọng:
Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào nhà nước và tập thể, trông chờ vào viện trợ đã
chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng
lớp dân cư.
Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung trừu tượng, thi
hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tê là bình quân –
cào bằng đã từng bước chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực
khác vào sản xuất – kinh doanh và thông qua phúc lợi lao động xã hội. Nhờ vậy
công bằng xã hội được thể hieennj ngày một rõ hơn.
Từ chô không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ
tương tác với chính sách kinh tế đã đi đên sthongs nhất chính sách kinh tế với
chính sách xã hội.
Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển
trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao
động đều tham gia tạo việc làm.
Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo đã đi đến khuyến khích mọi

người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một
bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát trển
Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ còn có
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đên quan
niệm cần thiết xây dựng một cộng đòng xã hội đa dạng, trông đó có các giai cấp,
tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần
xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh.
9


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại


-


-

3.
3.1.

Qua hơn 20 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển xã hội đã đạt nhiều thành tựu. Một xã
hội mở đang dần dần hình thành với những con người, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, không chấp nhận đói nghèo, lạc hậu, biết làm giàu, biết cạnh
tranh và hành động vì cộng đồng, vì tổ quốc. Cách thức quản ý dân chủ cởi mở
hơn, đề cao pháp luật hơn.
Bên cạnh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đã xuất hiện
ngày càng đông đảo các doanh nhân, tiểu chủ, chủ trang trại và các nhóm xã hội
khác phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh”.
Đã coi phát triển giáo dục và dạo tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách

hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế:
Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. Chất lượng dân số còn thấp đang là cản trở đói
với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề việc làm
rất bức xúc và nan giải.
Sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại.
Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, gây hiệt hại lớn về an sinh xã hôị.
Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng thêm, tài nguyên bị khai thác bừa bãi
và tàn phá.
Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa
được bảo đảm.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là:
Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chaỵ theo số lượng
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững xã hội.
Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế – xã hội.
Thực trạng sinh viên sau khi ra trường
Thực trạng sinh viên Thương mại sau khi ra trường
3.1.1. Giới thiệu trường Đại học Thương mại
Trường Đại học Thương mại (tên tiếng anh là Vietnam University of Commerce,
tên giao dịch viết tắt là VCU) là trường đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và
Đào tạo Việt Nam, là thành viên của Hiệp hội trường đại học Việt Nam (VUZ),
Hiệp hội các trường đại học Châu Á&Thái Bình Dương, của Viện nghiên cứu kinh
tế-quản lý Pháp ngữ (CEDIMES), của Tổ chức các Trường đại học sử dụng tiếng
Pháp (AUF) với sứ mạng: Xây dựng và phát triển Trường Đại học Thương mại trở
10


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại


thành trường đại học đa ngành tiên tiến trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại
(bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại các hoạt động
đầu tư và sở hữu trí tuệ) của Việt Nam có uy tín trong khu vực và trên thế giới; một
trung tâm giáo dục có chất lượng và không ngừng được cải tiến với phương pháp
đào tạo liên tục được đổi mới và hoàn thiện; một trung tâm đầu ngành trong nghiên
cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và cung ứng dịch vụ đào tạo có uy tín về
thương mại, du lịch, dịch vụ và hội nhập kinh tế quốc tế; một trung tâm văn hoá
nhằm cung cấp cho xã hội những cán bộ có trình độ đại học, sau đại học đủ phẩm
chất chính trị, đạo đức, văn hoá và năng lực nghề nghiệp thích ứng với điều kiện
môi trường đang thay đổi và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế của đất nước.
3.1.2.

Vấn đề việc làm của sinh viên thương mại sau khi ra trường

Hiện nay, nhiều sinh viên dù đang ngồi trên ghế giảng đường nhưng hết sức lo lắng
về tình hình thất nghiệp. Theo báo cáo điều tra lao động, hiện nay, cả nước
có 857.000 người thất nghiệp và 1,3 triệu người thiếu việc làm. Con số này tăng
nhiều so với các thời điểm trước, và chắc chắn con số thực tế còn lớn hơn nhiều so
với thống kê. Hơn 60% sinh viên ra trường không có việc làm hoặc phải làm
những công việc tạm thời, không đúng với chuyên ngành. Thực trạng này tạo nên
những tâm lý tiêu cực cho nhiều sinh viên, thậm chí cả những học sinh chuẩn bị tốt
nghiệp đại học cũng mang tâm lý lo lắng luôn đặt câu hỏi: Kết quả học tập sẽ như
thế nào? Ra trường sẽ đi đâu về đâu?
Đi tìm hiểu về tỷ lệ sinh viên thất nghiệp 5 năm gần đây, tại phiên giải trình của
Chính phủ ngày 24/4/2015, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận đã nói :
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, trong những năm gần đây, quy mô đào tạo trình độ
ĐH, CĐ gần như ổn định hoặc giảm nhẹ.
Thống kê thực tế cho thấy trong giai đoạn 2011 - 2014, chỉ tiêu tuyển sinh chính
quy của các trường ĐH, CĐ đã giảm bình quân 2,5%/năm, hệ vừa học vừa làm

giảm bình quân 18%/năm.
Về số sinh viên tốt nghiệp: Tổng số người tốt nghiệp có trình độ ĐH, CĐ năm
2011 là 318.400 người; năm 2012 là 402.300 người; năm 2013 là 425.200 người.

11


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

Trong giai đoạn 2011 - 2014, số lao động trình độ ĐH, CĐ có việc làm tăng lên
qua các năm, so sánh năm 2014 với năm 2010, tỷ lệ lao động trình độ ĐH, CĐ có
việc làm tăng 38%.
Tuy nhiên, theo ông Luận, số lao động trình độ ĐH, CĐ trong độ tuổi lao động thất
nghiệp trong thời gian qua tăng cao hơn so với số tốt nghiệp và số có việc làm; số
lao động trình độ ĐH, CĐ thất nghiệp năm 2014 so với 2010 tăng 103%.
Trên cơ sở báo cáo của hơn 100 trường ĐH, CĐ, trung cấp chuyên nghiệp cho
thấy, giai đoạn 2010 - 2014, trung bình tỉ lệ SV tốt nghiệp sau 3 tháng có việc làm
đạt khoảng 60%. Trong đó, có những cơ sở giáo dục đạt tỷ lệ này cao hơn, khoảng
80 - 90%.
Trong khi, một năm theo thống kê, cả nước có hơn 900000 sinh viên từ các trường
Đại học, cao đẳng ra trường và con số này đang tăng lên hàng ngày. Những
số liệu ở trên có thể thấy rõ rằng nguồn lao động được đào tạo đang ngày càng
tăng lên. Đây cũng là một thách thức không nhỏ trong vấn đề tìm việc làm. Có
khoảng 63% sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm và trong số sinh viên
ra trường kiếm được việc làm thì lại có nhiều sinh viên không làm đúng chuyên
ngành mình được học. Với số lượng sinh viên ra trường ngày càng lớn như hiện
nay thì cơ hội việc làm ngày càng trở nên khó khăn.
Nhóm đã điều tra 230 sinh viên đã tốt nghiệp từ khoa 42 đến 47 và thu được số liệu
như sau:


Có thể thấy so với con số sinh viên thất nghiệp toàn quốc thì tỷ lệ sinh viên
Thương mại đã tốt nghiệp không có việc làm thấp hơn rất nhiều. Điều này phản
ánh chất lượng sinh viên cũng như chất lượng đào tạo của trường đại học Thương
mại rất cao so với mặt bằng chung của ngành.
3.2.

Thực trạng sinh viên ngành Marketing sau khi ra trường
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, kinh doanh
đình trệ, các doanh nghiệp phải tìm đủ mọi cách để sản phẩm/dịch vụ của họ làm
ra phải có thương hiệu và chỗ đứng trong lòng khách hàng. Đây là cơ hội cho
ngành Marketing phát triển. Như nhu cầu năng lực của ngành này không chỉ đến từ
12


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

các công ty chuyên về truyền thông, tổ chức sự kiện, nghiên cứu thị trường, quảng
cáo…, mà còn đến từ tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam. Thực tế hiện nay, nhu
cầu tuyển nhân viên Marketing luôn ở mức "cung không đủ cầu", Marketing đang
thật sự là ngành “thời thượng”. Thống kê trực tuyến trên trang web về việc làm của
Vietnamworks.com cho thấy: Marketing là ngành có cầu nhân lực cao nhất hiện
nay. Cũng theo Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao
động TP.HCM, thì nhu cầu cần người làm Marketing là nóng nhất.
Hiện tại, thu nhập trung bình của nhân viên Marketing khoảng từ 10 triệu – 15
triệu đồng/tháng, Trưởng phòng/Giám đốc Marketing từ 25 triệu – 35 triệu/tháng,
thậm chí hơn thế nữa.
Việc áp dụng những kiến thức và kỹ năng marketing hiện đại vào hoạt động kinh
doanh, sẽ làm thay đổi bộ mặt của công ty, gia tăng niềm tin của khách hàng đối
với sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp. Do đó, nhu cầu nhân viên Marketing có
trình độ chuyên môn sâu, đủ khả năng làm việc trong mọi doanh nghiệp là đòi hỏi

bức bách ở Việt Nam. Tóm lại, Marketing đang là một ngành học mà nhiều bạn trẻ
đang mơ ước.
Theo thống kê, 49% bản tin tuyển người ở Việt Nam hiện nay dành cho những vị
trí thuộc lĩnh vực Marketing. Cơ hội thăng tiến ở nghề này là rất cao, có đến 30%
vị trí quản lý cao cấp trong doanh nghiệp được nắm giữ bởi những người từng ở
các vị trí khác nhau thuộc ngành Marketing.
Hàng năm, vài trường Đại học chỉ cho ra lò mấy trăm Cử nhân Marketing trong đó
có trường ĐH Thương Mại với chỉ tiêu ngành marketing đầu vào mỗi năm là 450
sinh viên và chỉ khoảng 1/3 trong số này có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu của
các công ty ở Việt Nam. Cơn sốt khan hiếm nhân lực ngành nghề đặc thù này ngày
càng tăng nhiệt. Nhiều doanh nghiệp đang tìm kiếm các chức danh: giám đốc
marketing, giám đốc thương hiệu, giám đốc bán hàng, giám đốc dịch vụ khách
hàng… trong vô vọng, bởi vì người làm marketing được đào tạo bài bản, có trình
độ ĐH, thì nguồn cung đạt chuẩn, có khả năng hoạch định chiến lược marketing,
lại quá hiếm hoi.
Nguyên nhân là do chương trình, nội dung đào tạo chuyên ngành Marketing chưa
bắt kịp trình độ quốc tế và yêu cầu hội nhập toàn cầu. Cũng cần nói thêm là nhiều
học sinh THPT cũng như các bậc phụ huynh ít hiểu biết sâu về ngành Marketing,
13


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

nên chưa thấy được tầm quan trọng của ngành này. Chính vì thế, số lượng được
đào tạo hàng năm, để trở thành chuyên viên marketing ở trong nước không nhiều.
Nhiều thí sinh và phụ huynh khi nhắc đến ngành này, thường nghĩ ngay đến hình
ảnh nhân viên đi chào hàng hay cái gì đó đại loại như quảng cáo. Thật ra, đây chỉ
là những việc rất nhỏ trong một hệ thống hoạt động mà chuyên viên marketing
phải đảm trách.
Để biết được tỷ lệ sinh viên ngành Marketing của trường Đại học Thương mại ra

trường có việc làm hay không và đúng chuyên ngành của mình hay không. Nhóm
chúng em đã tiến hành một cuộc điều tra nhỏ đối với sinh viên khoa Marketing các
khóa đã ra tốt nghiệp với mục đích tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến:




Tình trạng công việc hiện tại
Tính phù hợp giữa công việc với hoạt động đào tạo
Những vấn đề đặt ra mà sinh viên mới ra trường sẽ gặp phải
Kết quả điều tra có được 50 phản hồi từ các anh chị sinh viên đã tốt nghiệp ở các
khóa 45, 46 và 47. Nhóm thống kê số liệu như sau:
a, Tình trạng việc làm
Trong 50 sv:
-

45 sv có việc làm
2 sv không có việc làm
3 sv không đi làm do học tiếp, ở nhà phụ gia đình



Trong số 45 sinh viên (90%) có việc làm:
- 39 sv có việc sau 6 tháng
- 6 sv có việc sau 12 tháng


-

Xu hướng làm đúng ngành của sinh viên. Trong 45 người có việc làm:

31 người làm việc đúng ngành
14 người làm việc không đúng ngành
14


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

b, Tính phù hợp giữa công việc với hoạt động đào tạo
Trong 28 người làm đúng chuyên ngành, chúng tôi đã hỏi họ mức độ vận dụng của
kiến thức được đào tạo như sau:

Kết quả khảo sát cho thấy với những anh chị làm đúng nghề đánh giá cao kiến thức
đại cương và đặc biệt là kiến thức chuyên ngành.

c, Những vấn đề đặt ra mà sinh viên mới ra trường sẽ gặp phải





Làm việc ở đâu?
Có tới 32 người đã ở lại Hà Nội làm việc, 13 người về địa phương. Có thể nói Hà
Nội là nơi có cơ hội lớn để làm việc, đặc biệt là với một lĩnh vực mới như
Marketing.
Tìm việc từ kênh thông tin nào?
3 kênh tiêu biểu nhất đó là:
Chiếm đa số là tìm việc qua Internet
Tiếp theo là các mối quan hệ
Và số rất rất ít đó là tự lập nghiệp
Kỹ năng cần thiết để có việc làm là gì?


d, Với chuyên ngành marketing, bạn có thể làm việc ở bất cứ tổ chức hay doanh
nghiệp nào. Ví dụ: Trong các doanh nghiệp sản xuất, bạn có thể làm việc tại bộ
phận Nghiên cứu và phát triển, trong phòng thị trường (hay phòng kinh doanh,
phòng tiêu thụ), phòng tài chính kế toán; Trong mọi doanh nghiệp thương mại dịch
vụ như các công ty thương mại, các khách sạn, ngân hàng, công ty bảo hiểm, công
ty vận tải hàng không ... ; Trong các cơ quan, tổ chức “phi lợi nhuận” là các đơn vị
hành chính sự nghiệp, các tổ chức văn hoá - xã hội, các cơ quan chính quyền các
cấp ( marketing còn là công cụ hữu hiệu giúp các địa phương thu hút đầu tư, đặc
biệt là đầu tư nước ngoài,...)
15


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

Hiện tại, do sự phát triển của môi trường kinh tế xã hội, tất cả các ngành, các
doanh nghiệp hay tổ chức đều có chỗ cho ứng cử viên chuyên ngành marketing.
Từ kết quả của cuộc điều tra nhỏ này, có thể thấy lượng sinh siên Marketing trường
Đại học Thương mại ra trường có việc làm là cao, nhưng tỷ lệ sinh viên làm đúng
ngành học của mình chưa nhiều dù cho ngành marketing có rất nhiều sự lựa chọn
nghề nghiệp. Phần đông sinh viên sau khi đi làm mới đánh giá cao và thấy được
tầm quan trọng của những kiến thức đại cương và đặc biệt là kiến thức chuyên môn
trong công việc.
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng mà theo nhóm, việc tìm hiểu nguyên nhân và
rút ra kinh nghiệm cho sinh viên năm 3 là rất cần thiết. Sau đây nhóm xin trình bày
một số hiểu biết của mình về vấn đề này.
3.3.







Nguyên nhân
3.3.1. Sinh viên khoa marketing hiện nay còn thụ động trong học tập
Làm thêm,
Dạy kèm,
Bán hàng
Tiếp thị
Sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình
( mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn
và đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo)
Dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi chương trình học đại học là những lý
do của một số sinh viên khoa marketing có điểm tích lũy thấp hay một số ít bị cảnh
cáo,buộc thôi học.
Trong giờ học còn có tư tưởng như:







Chuyện phát biểu là chuyện của ai đó chứ không phải của mình. Mình không phát
biểu thì sẽ có người khác phát biểu, thế thôi .
Không muốn là người đầu tiên. Đây là một tâm lý khá phổ biến bởi khi một người
nào đó đã giơ tay phát biểu và khi thầy cô tiếp tục hỏi về vấn đề đó thì có khá
nhiều người xung phong nhưng lại không giơ tay ngay từ đầu.
Không phát biểu không sao, vì thầy cô gọi mãi không ai xung phong thì sẽ gọi tên
bạn nào đó trong danh sách lớp.

Đi học mang tính chất có mặt để điểm danh.
16


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại


Và cuối cùng có lẽ chính là do sự thụ động, nhút nhát trong một bộ phận lớn sinh
viên hiện nay.
3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân từ gia đình: quan hệ cha mẹ với con cái lỏng lẻo,cha mẹ không có
nhiều thời gian cho con cái. Ở phương Tây, 18 tuổi tự lập. Ở Việt Nam, đa số sinh
viên vẫn phụ thuộc cha mẹ nhưng lại không muốn chịu sự quản lý của cha mẹ;
đồng thời cha mẹ quá chiều con, để cho con cái sống quá đầy đủ về mặt vật chất,
muốn gì cũng có rạo nên thói quen xấu. Cha mẹ có quan niệm sai lầm là con mình
đã lớn không cần phải quản.
Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài: là những sinh viên xa nhà không ai quản,
thiếu sự quan tâm chăm sóc cua bố mẹ, bước vào môi trường có nhiều cám dỗ
không lường trước được, dễ sa ngã học đòi bạn bè xấu. Một số sinh có cách sống
đơn độc, nhút nhát, khó gần…tuy nhiên lối sống nhút nhát này xảy ra rất ít đối với
sinh viên trường ĐHTM và đặc biệt là khoa Marketing.
Nguyên nhân ở khâu đào tạo: Công tác tổ chức hướng nghiệp cho sinh viên còn
quá sơ sài dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên đăng ký theo học ngành mình không
yêu thích và đam mê. Họ học cho có lệ, chẳng mấy mặn mà và chỉ dành một ít thời
gian cho các môn học. Điều dĩ nhiên là khi ra trường họ không có đủ kiến thức,
cũng chẳng có đủ kinh nghiệm và càng không thể phát huy năng lực của chính bản
thân mình. Do đó, sinh viên ra trường thất nghiệp hoặc làm công việc trái ngành,
làm các công việc chân tay cũng là hệ quả tất yếu.
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực
hành mà quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra còn do chương trình đào tạo ở các trường

vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
Nguyên nhân từ xã hội: lối sống tha hóa đạo đức còn do ảnh hưởng của cuộc sống
hiện đại, ngoài ra do cuộc sống trong cơn lốc của kinh tế thị trường, một số sinh
viên chạy theo cuộc sống vật chất, tiện nghi lao đầu vào dòng đời ngược xuôi: ăn
chơi,đua đòi…mà quên đi việc học hành, quên đi trách nhiệm của mình đối với bản
thân, gia đình và xã hội.
3.3.3.

Nguyên nhân chủ quan

17


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

Hiện nay kinh tế đất nước đang ở trong giai đoạn khó khăn. Tỷ lệ các bạn sinh viên
mới ra trường không xin được việc hoặc đi làm trái ngành chiếm một tỷ lệ khá cao.
Vậy ngoài những nguyên nhân khách quan thì những nguyên nhân chủ quan nào
khiến các bạn sinh viên mới ra trường khó được tuyển dụng.
Bị động khi tìm việc
Các bạn sinh viên mới ra trường thường bị động để đi tìm việc. Thường thì các bạn
có suy nghĩ dựa dẫm hoặc ỷ lại vào bố mẹ, người thân, tận dụng các mối quan hệ
của bố mẹ xin việc cho hoặc chờ đợi một công ty, cơ quan nào đó tìm đến mình.
=> Lời khuyên cho các bạn là hãy chủ động tìm việc. Trong thời đại công nghệ số
và phát triển như hiện nay thì các công ty, cơ quan và doanh nghiệp luôn đề cao
tính năng động, cạnh tranh lành mạnh của các ứng viên.
Dựa dẫm vào mạng internet thái quá
Chúng ta không thể phủ nhận tính năng và hữu ích của internet, nhất là trong thời
buổi @ như hiện nay. Tuy nhiên bạn không nên phụ thuộc vào internet một cách
thái quá. Một cuộc khảo sát gần đây nhóm lấy thông tin trên mạng cho biết 57%

người được phỏng vấn nói họ tìm được công việc hiện tại là nhờ vào các mối quan
hệ. “Có hàng ngàn ứng viên nộp hồ sơ trên mạng vào cùng một vị trị ứng tuyển,
nếu bạn muốn có cơ hội lọt vào danh sách phỏng vấn của nhà tuyển dụng, điều
quan trọng là bạn phải bằng cách nào đó tạo được ấn tượng riêng cho bản CV của
mình hoặc có một vài kết nối với công ty”, bà Brand Karsh, chủ tịch công ty
JobBound, gợi ý.
Không thiết lập mối quan hệ
Như đã nói, các mối quan hệ là một trong những nguồn tiềm năng giúp bạn tìm
được công việc như mong muốn. Đó có thể là mối quan hệ của bố mẹ, anh chị em,
thầy cô, bạn bè, người quen… Hãy tận dụng tối đa những quan hệ này, đồng thời
xây dựng, tạo thêm những mối quan hệ mới, bạn sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn.
Sơ yếu lý lịch không ấn tượng
Bạn sẽ sớm bị loại nếu gửi đi bản sơ yếu lý lịch trong đó liệt kê một cách khô khan
bằng cấp, danh sách các khóa học, những công việc bạn đã từng làm, những kinh
nghiệm bạn đã tích lũy được… Thay vào đó, hãy cho nhà tuyển dụng biết những
18


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

khả năng nổi trội của bạn so với những ứng viên khác, bạn có thể mang lại lợi ích
gì cho họ nếu như bạn được tuyển dụng…
Lý tưởng hóa công việc
Khi mới ra trường, bạn là một người có kiến thức nhưng lại thiếu kinh nghiệm,
trong khi công việc ở những vị trí quan trọng với mức lương hấp dẫn đòi hỏi phải
có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này. Vì vậy bạn đừng nên kỳ vọng quá cao và
lý tưởng hóa công việc, ví dụ như đừng đòi hỏi rằng bạn phải ngay lập tức được
làm trưởng phòng hoặc trưởng nhóm trong một công ty lớn, điều đó là rất hoang
đường. Hãy chấp nhận vị trí khởi nghiệp là một nhân viên bình thường, sau đó trải
qua quá trình làm việc thực tế, tích

Xem thường buổi phỏng vấn.
Nếu bạn được lọt vào vòng phỏng vấn, hãy chuẩn bị thật kỹ về kiến thức, trình độ,
ngoại hình, phong cách ứng xử của mình để nhà tuyển dụng thấy rằng bạn là một
người thật chuyên nghiệp trong công việc, một nhân viên đầy tiềm năng, hứa hẹn
sẽ đem đến cho công ty những đóng góp mới, thành công mới. Đến buổi phỏng
vấn với trang phục như đi học hoặc đi chơi, nói năng thiếu chững chạc… bạn chỉ
có một kết quả là bị loại.
Không có kinh nghiệm làm việc thực tế.
Bất cứ một cơ quan, doanh nghiệp nào cũng mong muốn tuyển dụng được những
người có kinh nghiệm làm việc, vì thế hồ sơ xin việc của bạn cũng sẵn sàng bị loại
nếu như không đáp ứng được yêu cầu đó, cho dù bạn có sở hữu một tấm bằng đáng
mơ ước! Rất nhiều bạn sinh viên than thở rằng: “Nộp hồ sơ chỗ nào cũng đòi hỏi
kinh nghiệm, mà một sinh viên mới ra trường thì lấy đâu ra kinh nghiệm?”.
Nếu như những ngày còn học ĐH, bạn chưa kịp tích lũy kinh nghiệm thực tế để tạo
lợi thế khi đi xin việc thì bạn vẫn còn kịp làm điều đó sau khi ra trường đấy! quan
trọng là bạn phải tự tạo cho mình lòng quyết tâm và chấp nhận hy sinh thời gian,
công sức với những nỗ lực thực sự. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên
cứu và Phân tích chính sách thuộc Trường ĐH KHXHNV (ĐH Quốc gia Hà Nội),
có tới 26,2% cử nhân được khảo sát chưa hoặc không tìm được việc làm. Trong số
này, có tới 58,2% không biết xin việc ở đâu, 42% còn lại cho hay bị nhà tuyển
dụng từ chối do không đáp ứng được yêu cầu. TS Đào Thanh Trường, Phó Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích chính sách, cho biết ngay cả những cử
19


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

3.4.

nhân đã đi làm cũng gặp không ít thách thức, khi 61% nói mình thiếu kỹ năng làm

việc, 42% thiếu kinh nghiệm và có tới 32% thiếu kiến thức chuyên môn.
Bài học kinh nghiệm
Là sinh viên năm 3 khoa Marketing Đại học Thương mại, bạn sẽ làm gì, định
hướng như thế nào để sau khi ra trường có được việc làm và làm đúng nghề?
3.4.1.

“Hãy sống và làm việc bằng cả trái tim và niềm đam mê của bản thân”

Bạn có thể làm hết mình vì một công việc mà bạn không hề thích thú?
Bạn có thể học tốt một chuyên ngành mà bạn không thích nó?
Chắc chắn là không!
Khi được học ngành nghề bạn yêu thích, làm công việc bạn đam mê, bạn luôn suy
nghĩ lạc quan và tích cực trong mọi tình huống. Chính thái độ tích cực sẽ giúp bạn
vượt qua mọi khó khăn thử thách để đạt được mục tiêu đề ra và có được kết quả
tốt. Tình yêu Marketing sẽ khiến bạn tự hào hơn bao giờ hết về công việc đang
làm, dù đó là bán hàng qua mạng hay thiết kế những dự án lớn, bạn cũng sẽ làm
việc chăm chỉ, tập trung hết mình cho công việc.
Với niềm đam mê, bạn không những làm tốt công việc hiện tại mà còn luôn nỗ lực
đưa ra những ý tưởng mới để cải tiến kết quả công việc. Chính tinh thần cầu tiến,
ham học hỏi này giúp bạn phát triển và thăng tiến nhanh hơn trên con đường đã
chọn. Thành công là được làm công việc mình yêu thích mỗi ngày và cảm thấy hài
lòng về kết quả mình đạt được. Nhưng trước hết, bạn phải chọn đúng được nghề
mà bạn thật sự yêu thích.
3.4.2.

Hãy chủ động

Có rất nhiều bạn có suy nghĩ ra trường rồi mới đi tìm việc. Thực ra các bạn hoàn
toàn đúng. Năm 3 tìm việc làm gì? Cũng đâu có đi làm được. Nhưng đó mới chính
là điểm khiến bạn khác biệt với những sinh viên khác. Từ năm 3 hãy lên các trang

như Vietnamwork, Jobstreet, Careerbuidler tạo tài khoản rồi chọn công việc bạn
muốn. Bạn có thể chọn sales, marketing, dịch vụ khách hàng. Mỗi ngày hãy dành
vài phút sơ qua các tin tuyển dụng đó. Giả sử khi đọc tin tuyển dụng bạn nhận thấy
mặt bằng chung các công ty yêu cầu điểm GPA là 7.0 thì hãy xem lại hiện tại bạn
có đáp ứng được không? Nếu không thì bạn còn 1 năm để làm điều đó. Hoặc đăng
20


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

ký các chương trình quản trị viên tập sự (management trainee) tất nhiên bạn chỉ
đọc thông tin và thử điền vào đơn tuyển dụng các chương trình đó bạn sẽ nhận ra
mình thiếu gì.
Nếu bạn biết được điều đó từ năm 3. Bạn sẽ có thời gian để chuẩn bị xem mình còn
thiếu thứ gì và có kết hoạch bổ sung. Hãy đọc tin tuyển dụng mỗi ngày, đừng đợi
ra trường rồi mới đọc lúc đó bạn không quay về học lại được đâu.
3.4.3.

Ngoại ngữ-Tiếng Anh

Hãy tập trung vào kỹ năng nói vì đó là cái cơ bản khi bạn đi phỏng vấn. Sau khi đi
làm thì kỹ năng viết lại cực kỳ quan trọng. Nếu cảm thấy việc viết khó quá thì bạn
hãy luyện từ từ nhưng hãy luyện viết email nhé vì khi đi làm không chỉ viết báo
cáo mấy chục trang bằng tiếng Anh, mà còn viết email cho khách hàng. Sinh viên
ĐH Thương Mại mình ít người có thể đọc và nói tiếng Anh tốt, nhưng viết mới là
vấn đề bạn gặp khó khăn khi đi làm. Hơn nữa nếu có thể thi được bằng Ielts trước
khi ra trường thì cơ hội việc làm sẽ mở rộng hơn rất nhiều.
3.4.4.

Khả năng chuyên môn


Bạn đừng nghĩ do là sinh viên nên nhà tuyển dụng không cần bạn có chuyên môn,
thực ra cái họ cần là những thứ bạn đã học. Ở Thương Mại nếu bạn học kỹ các
môn chuyên ngành marketing như Truyền thông marketing, Chiến lược thương
hiệu, Quảng cáo và xúc tiến thương mại,... thì khi đi phỏng vấn và đi làm áp dụng
rất nhiều. Các bạn đừng chủ quan là học ở trường chỉ là lý thuyết, đi làm ít khi áp
dụng, đó là bạn chưa thật sự làm đúng vị trí chuyên về marketing. Nếu bạn muốn
làm chuyên về marketing thì phải thuộc hết các chiến lược và định nghĩa. Khi đi
làm sếp chỉ nói bạn là “với sản phẩm này dùng chiến lược A, cái này dùng B, cái
kia dùng C” đó là cái anh ấy chỉ bạn, còn ABC là gì thì bạn đã được học.
3.4.5.

Đi thực tập

Đi thực tập chính là bước bạn làm quen với công việc sau này. Có thể những công
việc bạn được làm chỉ là sai vặt rất nhàm chán nhưng đó là do bạn không tự chủ
động thôi. Đừng ngồi chờ ai phân công việc cho bạn, hãy hỏi và hỏi mỗi ngày. Bắt
họ đưa việc cho làm vậy bạn mới không phí thời gian đi thực tập.

21


Lê Thị Thảo K49C5 – Đại Học Thương Mại

Còn rất nhiều điều bạn cần phải học và trải nghiệm, nhưng cứ yên tâm đi. Nếu
bạn chuẩn bị đủ trước khi ra trường, bạn sẽ thành công!

22




×