TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
ĐỖ THỊ THU HẰNG
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC PHÁT TRIỂN
THỂ CHẤT CỦA TRẺ EM 5 6 TUỔI
TRƯỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ PHÚC YÊN VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
HÀ NỘI 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
ĐỖ THỊ THU HẰNG
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC PHÁT TRIỂN
THỂ CHẤT CỦA TRẺ EM 5 6 TUỔI
TRƯỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ PHÚC YÊN VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Người hướng dẫn khoa học
TS. LÊ TRƯỜNG SƠN CHẤN HẢI
HÀ NỘI 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là
:
Đỗ Thị Thu Hằng
Sinh viên: Lớp K36B Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu, số liệu được trình bày trong khóa luận là hoàn toàn trung
thực và độc lập với kết quả của tác giả khác.
Hà Nội
, ngày tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Đỗ Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương
1.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận xác định hướng nghiên cứu của đề tài
1.1.1. Vị trí, vai trò của GDMN trong hệ thống quốc dân
1.1.2. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDMN
1.1.3. Hệ thống giáo dục mầm non
1.2. Đặc điểm GDMN
1.2.1. Giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh
1.2.2.
Tổ chức cho trẻ ăn
1.2.3. Tổ chức cho trẻ ngủ
1.2.4.
Sự phát triển vận động cho trẻ
1.2.5.
Tổ chức chế độ sinh hoạt của trẻ ở trường mẫu giáo
1.3. GDTC cho trẻ em lứa tuổi mầm non
1.3.1. Chương trình GDTC cho trẻ mầm non
1.3.2. Tổ chức GDTC cho trẻ em 5 6 tuổi trường mầm non trên địa bàn
Thị xã Phúc Yên Vĩnh Phúc
1.4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu đề tài
Chương
2.
NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2. Các phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê
2.3. Tổ chức nghiên cứu
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
2.3.2. Đối tượng nghiên cứu
2.3.3. Địa điểm nghiên cứu
Chương
3.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đánh giá thực trạng năng lực phát triển thể chất của trẻ em 5 6 tuổi
trường mầm non Hoa Hồng Phúc Yên Vĩnh Phúc
3.1.1. Thực trạng tổ chức hoạt động GDTC của trường mầm non Hoa
Hồng Phúc Yên Vĩnh Phúc
3.1.2. Đánh giá năng lực phát triển thể chất của trẻ em 5 6 tuổi trường
mầm non Hoa Hồng Phúc Yên Vĩnh Phúc
3.2. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực phát triển thể chất cho trẻ
em 5 6 tuổi trường mầm non Hoa Hồng Phúc Yên Vĩnh Phúc
3.2.1. Cơ sở lựa chọn một số TCVĐ nhằm nâng cao năng lực phát triển
thể chất cho trẻ 5 6 tuổi trường mầm non Hoa Hồng
3.2.2. Kế hoạch tổ chức TN một số TCVĐ nhằm nâng cao năng lực phát
triển thể chất cho trẻ 5 6 tuổi trường mầm non Hoa Hồng
3.2.3. Tổ chức TN
3.2.4. Đánh giá kết quả TN
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Số bảng
TÊN BẢNG
biểu
Bảng 1.1
Tran
g
Bảng số liệu “Giáo dục mầm non” thống kê về số trường
6
mầm non trong những năm gần đây
Bảng 1.2
Bảng số liệu “giáo dục mầm non” thống kê về số trẻ trong
6
những năm gần đây
Bảng 1.3
Bảng số liệu “giáo dục mầm non” thống kê về số GVMN
7
trong những năm gần đây
Bảng 1.4
Bảng chế độ sinh hoạt của trẻ
12
Bảng 1.5
Nội dung giáo dục theo độ tuổi
15
Bảng 1.6
Nội dung tập luyện các kỹ năng vận động cơ bản và phát
17
triển các tố chất trong vận động cho trẻ 5 6 tuổi
Bảng 3.1
Thực trạng đội ngũ GV trường mầm non Hoa Hồng Phúc
31
Yên Vĩnh Phúc
Bảng 3.2
Kết quả phỏng vấn GV về lựa chọn một số TCVĐ nhằm
38
nâng cao năng lực phát triển thể chất cho trẻ mẫu giáo lớn
(n =25)
Bảng 3.3
Kế hoạch giảng dạy TCVĐ nhằm nâng cao năng lực phát
triển thể chất cho trẻ 5 6 tuổi trường mầm non Hoa
Hồng
42
Bảng 3.4
Kết quả kiểm tra trình độ thể lực theo tiêu chuẩn RLTT
44
của 2 nhóm ĐC (n = 10) và nhóm TN (n = 10) trước TN
Bảng 3.5
Kết quả kiểm tra trình độ thể lực theo tiêu chuẩn RLTT
của 2 nhóm ĐC (n = 10) và nhóm TN (n = 10) sau TN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐC
: Đối chứng.
ĐHSP
: Đại học Sư phạm.
GD&ĐT
: Giáo dục và đào tạo.
GDMN
: Giáo dục mầm non.
GDTC
: Giáo dục thể chất.
GV
: Giáo viên.
GVMN
: Giáo viên mầm non.
RLTT
: Rèn luyện thân thể.
TCVĐ
: Trò chơi vận động.
TDTT
: Thể dục thể thao.
TN
: Thực nghiệm.
TW
: Trung Ương.
45
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một quốc gia có nền giáo dục phát triển là một quốc gia có nền kinh tế
phát triển hết sức hùng mạnh. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự
phát triển, đảm bảo xây dựng một thế hệ kế tiếp có đầy đủ những phẩm chất
về tri thức, năng lực, trình độ để phục vụ cho đất nước. Tại đại hội Đảng khóa
IX đã xác định:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo
dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người”
[9]. Vì vậy hiện nay giáo dục đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã
hội đặc biệt là GDMN.
GDMN không chỉ chiếm một vị trí vô cùng quan trọng mà nó còn là
khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân là bậc học đặt nền móng cho
sự phát triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tinh
thần:
…h
ình thành những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới XHCN
Việt Nam. Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của
cuộc sống là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong sự nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con
người chủ nhân tương lai của đất nước. Nếu ví rằng giáo dục con người là
cuộc chạy đua việt dã đầy khó khăn gian khổ thì GDMN chính là giai đoạn
khởi động, nếu khởi động tốt chắc chắn vận động viên sẽ đạt được thành tích
tốt. Việt Nam đang có một bước chuyển mình thay đổi hết sức mạnh mẽ trên
con đường đi lên xây dựng cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc.
Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em là công dân của xã hội, là
thế hệ tương lai của đất nước nên ngay từ thủa lọt lòng chúng ta cần chăm sóc
giáo dục trẻ thật chu đáo để trở thành hành trang vững chắc mà mỗi con người
cần phải có để bước vào cuộc sống xã hội. Và một yếu tố vô cùng quan trọng
không thể thiếu trong hành trang ấy là nhiệm vụ GDTC cho trẻ. Đặc biệt, giáo
GDTC cho trẻ càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi trong Nghị quyết số 46
NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới có ghi rõ: “
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi
con người và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp
xy dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện
bản chất tốt đẹp”
[11].
Do đó, GDTC cho trẻ em ở nước ta cần được tiến
hành một cách mạnh mẽ, toàn diện, cần được sự quan tâm của toàn xã hội, tạo
điều kiện cho trẻ được phát triển tốt nhất.
Đối với trẻ mầm non, khả năng tự nhận thức của trẻ còn hạn chế, do đó
cần hình thành ở trẻ những nhu cầu, thói quen đến việc thực hiện bài tập thể
chất hàng ngày, giáo dục lòng yêu thích rèn luyện thể dục sự hứng thú đến
việc luyện tập điều này sẽ giải quyết được những nhiệm vụ giáo dục trí tuệ,
đạo đức, thẩm mỹ và lao động cho trẻ mầm non sẽ tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho sự hoạt động của hệ thần kinh, cơ xương, giúp cho các quá trình
tâm lý như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy như quan sát, so sánh, tổng hợp,
khái quát. Ngoài ra còn củng cố ở trẻ những kiến thức không chỉ liên quan
đến GDTC, mà còn thu nhận được những kiến thức về sự vật, hiện tượng
xung quanh, những hiện tượng thiên nhiên và xã hội.
Cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch lạc, mất cân đối nên trẻ rất
dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động của môi trường sống nếu không được
chăm sóc giáo dục đúng đắn và có kế hoạch cụ thể sẽ rất dễ dẫn đến những
thiếu sót trong sự phát triển cơ thể trẻ mà không thể khắc phục được. Nhận
thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây đã đặc biệt
chú trọng đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn tình hình sức khỏe còn nhiều vấn đề
đáng lo ngại. Nhiều trẻ mắc bệnh còi xương, suy dinh dưỡng, các bệnh đường
hô hấp, các bệnh đường ruột…các điều kiện đảm bảo và chăm sóc sức khỏe
của trẻ còn nhiều thiếu thốn. Cơ sở vật chất ở các trường và gia đình còn quá
chật hẹp, chưa đảm bảo vệ sinh môi trường cho trẻ ảnh hưởng đến việc học
tập, sinh hoạt. Vì vậy, GDTC cho trẻ em ở nước ta cần được tiến hành một
cách mạnh mẽ toàn diện và cần được sự quan tâm ủng hộ của toàn xã hội, tạo
điều kiện cho trẻ được phát triển một cách tốt nhất.
Vì thế, là một GVMN tương lai, tôi rất quan tâm tới vấn đề phát triển
thể chất cho trẻ nên tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá năng lực phát
triển thể chất của trẻ em 5 6 tuổi trường mầm non trên địa bàn thị xã
Phúc Yên Vĩnh Phúc”.
❖
Mục đích nghiên cứu
Đánh giá năng lực phát triển thể chất của trẻ em 5 6 tuổi trường mầm
non trên địa bàn thị xã Phúc Yên Vĩnh Phúc, tìm ra nguyên nhân và trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực phát triển thể chất cho
trẻ mẫu giáo ở trường mầm non.
❖
Giả thuyết khoa học
Lựa chọn và sử dụng các bài tập thể chất có hiệu quả sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả phát triển thể chất cho trẻ em lứa tuổi mầm non, bổ xung thêm
nội dung GDTC cho trẻ em lứa tuổi mầm non.
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận xác định hướng nghiên cứu của đề tài
1.1.1. Vị trí, vai trò của GDMN trong hệ thống quốc dân
1.1.1.1. Giáo dục mầm non
GDMN thực hiên việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi.
GDMN gồm hai giai đoạn:
Trẻ ba tháng tuổi đến ba tuổi (nhà trẻ).
Trẻ từ ba tuổi đến sáu tuổi (trường mầm non).
1.1.1.2. Mục tiêu của GDMN
Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ vào học lớp một.
1.1.1.3. Chương trình GDMN
Chương trình GDMN thể hiện mục tiêu GDMN; cụ thể hóa các yêu cầu
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từng độ tuổi; quy định việc tổ chức
các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của trẻ em ở tuổi
mầm non.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành chương trình GDMN trên cơ sở thẩm
định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình GDMN.
1.1.2. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDMN
Phát triển GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều
kiện để phát huy nguồn nhân lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục là lực lượng
nòng cốt, có vai trò quan trọng [8].
Nhận thức được điều đó GDMN trong những năm gần đây luôn được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, định hướng xác định mục tiêu, nhiệm
vụ giáo dục học sinh lứa tuổi mầm non. Trong các Nghị quyết của Trung
ương Đảng 2011 2014 về nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục và đào tạo đã
nêu rõ: “…Kiên quyết giảm hợp lí nội dung chương trình học cho phù hợp với
tâm sinh lí của học sinh bậc học mầm non và bậc học phổ thông…” [8].
Tư tưởng của Đảng và của Nhà nước về GDMN cũng được thể hiện rõ
trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đó là “… Đổi mới mạnh
mẽ GDMN và giáo dục phổ thông. Khẩn trương điều chỉnh, khắc phục tình
trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và sách giáo khoa
phổ thông bảo đảm tính khoa học, cơ bản, phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều
kiện cụ thể của Việt Nam…”, “… Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay
sang mô hình giáo dục mở mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt
đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học. Phát triển giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông và hệ thống hướng nghiệp, dạy nghề…”
[10].
Quan điểm chiến lược về GD&ĐT đến 2020 là thực hiện mục tiêu giáo
dục toàn diện ở tất cả các bậc học đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã khẳng định: Ở mọi bậc
học, cấp học, ngành học nhất thiết không thể coi nhẹ việc chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe cho học sinh, tạo mọi điều kiện cho các em được rèn luyện thông
qua các hoạt động, đặc biệt là hoạt động TDTT, để bản thân các em luôn có
trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội [3].
Nhà nước coi GDMN là một bậc học cần thiết và bắt buộc phải có
trong hệ thống giáo dục. Từ chỉ thị 53/CP của Hội Đồng Bộ Trưởng ngày 12
tháng 8 năm 1966 đã xác định mục tiêu của GDMN “Giáo dục mầm non tốt
sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Trong Nghị quyết số 14 NQ/TW ngày
11/1/1997 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: “… kết hợp các
biện pháp thể dục, khoa học và những biện pháp y học hiện đại để bảo vệ sức
khỏe và rèn luyện các cháu, làm cho thể chất của các cháu ngay từ bé đã được
nuôi dưỡng và phát triển tốt”.
1.1.3. Hệ thống giáo dục mầm non
Trong những năm gần đây việc đầu tư cho cơ sở vật chất cho GDMN
đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Đặc biệt hệ thống các
trường lớp mầm non đang được xây dựng, sửa chữa và xây dựng mới. Các
trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng đang từng bước
được bổ sung và hiện đại hóa cho phù hợp với yêu cầu giáo dục.
Theo số liệu của tổng cục thống kê từ năm 2007 2013 số trường
mầm non, số học sinh mầm non và số lượng GVMN tính đến hàng năm, được
thể hiện ở các bảng 1.1, 1.2, 1.3.
Bảng 1.1: Bảng số liệu “Giáo dục mầm non” thống kê về số trường
mầm non trong những năm gần đây (Nguồn tổng cục thống kê).
Năm
20072008 2008200
9
Trường
2009201
20102011 20112012 2012201
0
3
11.629
12.190
12.357
12.980
13.172
13.548
Nhà trẻ
58
43
41
39
28
34
Mẫu giáo
2.839
2.858
2.870
2.877
2.560
2.807
Mầm non
8.732
9.289
9.446
9.992
10.584
10.707
(cả nước)
Theo số liệu thống kê ở bảng 1.1 cho thấy số trường mầm non trong cả
nước tăng dần theo từng năm, năm học 2007 2008 cả nước có 8.732 trường
đến năm học 2012 2013 cả nước đã có 10.707 trường. Điều đó cho thấy
trong những năm gần đây việc đầu tư cho GDMN đang được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm. Đặc biệt các hệ thống trường lớp mầm non đang
được xây dựng và sửa chữa. Các trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc
giáo dục trẻ cũng đang từng bước được bổ sung và hiện đại hóa cho phù hợp
với yêu cầu giáo dục.
Bảng 1.2: Bảng số liệu “Giáo dục mầm non” thống kê về số trẻ
trong những năm gần đây (Nguồn tổng cục thống kê).
Năm
Trẻ em
(cả nước)
Nhà trẻ
2007200
2008200
2009201
2010201
8
9
0
1
3.195.731 3.305.391 3.409.823 3.599.663
508.694
494.766
508.190
528.869
Mẫu giáo 2.687.037 2.810.625 2.901.633 3.070.794
20112012 2012201
3
3.873.445
4.148.356
553.117
597.274
3.320.328
3.551.082
Quy mô của GDMN ngày càng tăng thu hút hầu hết các cháu trong độ
tuổi mầm non đến trường. Theo số liệu thống kê ở bảng 1.2 cho thấy số trẻ
mầm non trong cả nước tăng dần theo từng năm, năm học 2007 2008 ở nhà
trẻ cả nước có 508.694 trẻ đến năm học 2012 2013 cả nước đã có 597.274
trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo năm học 2007 2008 cả nước có 2.687.037 trẻ đến
năm học 2012 2013 cả nước đã có 3. 551.082 trẻ.
Bảng 1.3: Bảng số liệu “Giáo giáo dục mầm non” thống kê về số
GVMN trong những năm gần đây (Nguồn tổng cục thống kê).
Năm
20072008 2008200
9
Giáo viên
2009201
20102011 20112012 2012201
0
3
172.978
183.443
195.852
211.225
229.724
244.478
Nhà trẻ
44.140
45.385
49.256
52.244
55.715
56.302
Mẫu giáo
128.838
138.058
146.596
158.981
174.009
188.176
(cả nước)
Hệ thống các trường khoa sư phạm mầm non trong những năm gần đây
đang từng bước được kiện toàn cho phù hợp với yêu cầu của nền giáo dục hội
nhập. Các chính sách chế độ cho GVMN cũng đang có sự quan tâm thích
đáng của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê ở bảng 1.3 cho thấy số
GVMN cả nước tăng dần theo từng năm học 2007 2008 ở nhà trẻ cả nước có
44.140 GV đến năm học 2012 2013 cả nước đã có 56.302 GV, ở mẫu giáo
năm học 2007 2008 cả nước có 128.838 GV đến năm học 2012 2013 cả
nước đã có 188.176 GV.
1.2. Đặc điểm GDMN
1.2.1. Giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh
Giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh là một nội dung không thể
thiếu được trong việc GDTC và hình thành nhân cách cho trẻ. Trong cuộc
sống và sinh hoạt hàng ngày, trẻ cần đến nhiều loại thói quen khác nhau. Đối
với trẻ mầm non, cần giáo dục một số loại kỹ xảo và thói quen vệ sinh sau:
Vệ sinh thân thể: Có thói quen tắm rửa và gìn giữ sạch sẽ thân thể
(mặt, mũi, đầu, tóc, chân, tay…). Không cho tay, đồ chơi hoặc bất kỳ một vật
lạ nào vào mồm, biết rửa tay, lau mặt, xúc miệng, biết dùng mùi xoa,…
Vệ sinh quần áo: Giữ gìn quần áo sạch sẽ, không quỳ, ngồi lê la nơi
sàn đất bẩn (chẳng hạn lúc chơi hay đi dạo ngoài trời),…
Vệ sinh ăn uống: Rửa tay trước khi ăn, không đánh rơi vãi thức ăn
trong khi ăn, không nói chuyện khi ăn,…
Vệ sinh môi trường: Đi vệ sinh đúng nơi quy định, không vứt rác
bừa bãi, không làm bẩn môi trường…
Ở lứa tuổi này, hệ thần kinh trung ương có tính mềm dẻo cao nhất với
phản ứng của toàn bộ các tế bào giúp hình thành tốt những phản xạ có điều
kiện, và do sự lặp lại thường xuyên hàng ngày mà hình thành được kỹ xảo và
thói quen. Để hình thành tốt kỹ xảo và thói quen văn hóa vệ sinh cần phải:
Sắp xếp các thao tác tạo nên hành động theo một thứ tự nhất định, hợp
lý.
Lập kế hoạch thứ tự các hành động.
Từng bước giúp trẻ nhận thức được ý nghĩa và sự hợp lý của các thao
tác, các hành động văn hóa vệ sinh từ đó hình thành nhu cầu về thói quen
văn hóa vệ sinh.
Người lớn phải thực hiện mẫu mực tất cả những yêu cầu văn hóa vệ
sinh trước trẻ và nhắc nhở trẻ làm như người lớn.
Phối hợp với gia đình để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được vận
dụng, củng cố những kỹ năng đó ở gia đình để nhanh chóng hình thành nhu
cầu thói quen văn hóa vệ sinh.
1.2.2.
Tổ chức cho trẻ ăn
Ăn uống là một nhu cầu không thể thiếu được đối với mỗi con người.
Để giúp cơ thể phát triển tốt, đảm bảo sự phát triển bình thường của các cơ
quan và hệ cơ quan trong cơ thể cần tổ chức chế độ ăn uống hợp lý cho trẻ.
Hàng ngày, cần cho trẻ ăn đủ chất, đủ lượng và đặc biệt phải đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm cho trẻ.
Chế độ ăn uống hợp lí được xây dựng trên cơ sở mức năng lượng cần
thiết ở độ tuổi (quy ra calo) sự kết hợp các thành phần thức ăn theo cấu tạo
các thành phần hóa học (protit, lipit, glucid, muối khoáng và vitamin) sự đa
dạng của các loại thức ăn và cách nấu nướng.
Để tổ chức bữa ăn cho trẻ tốt cần thực hiện đầy đủ các yêu cầu sau:
Phòng ăn sạch sẽ, thoáng mát. Bàn ghế sắp xếp thuận tiện cho trẻ ngồi
xuống và đứng lên.
Bàn ăn, bát đĩa phù hợp với lứa tuổi và được xếp đặt có thẩm mỹ.
Trước khi ăn khoảng nửa giờ, cần kết thúc các buổi dạo, các trò chơi
kích thích. Thời gian này cần các trò chơi, các giờ học yên tĩnh. Tránh gây ra
những kích thích thần kinh tạo ra nhiều ấn tượng.
Cho trẻ rửa tay, rửa mặt trước khi ăn. Khi ngồi vào bàn được ăn ngay
không phải chờ đợi lâu.
Hình thành cho trẻ các kỹ xảo ăn có văn hóa: không ăn vội vàng, nhai
kĩ. Lấy thức ăn từng ít một. Cầm thìa, bát, đũa đúng động tác, nhai nhỏ nhẹ,
ngậm miệng không phát ra tiếng. Với trẻ lớn cần phải có các kỹ xảo sử dụng
các đồ dùng nhà bếp, có kỹ năng tự phục vụ.
Quá trình tổ chức cho trẻ ăn GV cần quan sát và phát hiện nguyên nhân
trẻ ăn không ngon và đưa ra biện pháp khắc phục:
Bình thường, với bữa ăn tổ chức đúng đắn trẻ ăn uống tự giác, vui vẻ
và ngon lành. Song có nhiều trường hợp trẻ ghê sợ bữa ăn, có thái độ chống
đối hay ăn uống uể oải. Khi ấy, nếu dùng phương pháp ép buộc, thậm chí dỗ
dành, khen ngợi đều là không đúng và gây tác hại, gây ra tâm lí tiêu cực với
bữa ăn.
Cần tìm hiểu nguyên nhân làm cho trẻ ăn không ngon miệng, thậm chí
ghê sợ bữa ăn để từ đó đưa ra cách khắc phục hợp lí có thể là:
+ Do thức ăn khô, khó nuốt.
+ Do tình trạng sức khỏe không bình thường.
+ Do thức ăn lạ với trẻ, không thích hợp với trẻ vì gia đình chưa bao
giờ cho ăn.
+ Do trẻ được nuông chiều ở nhà, khi ăn bao giờ cũng quen dỗ dành.
Từ các nguyên nhân trên mà các nhà giáo dục đưa ra biện pháp khắc phục tích
cực nhất cho trẻ.
1.2.3. Tổ chức cho trẻ ngủ
Giấc ngủ của trẻ có ý nghĩa to lớn trong việc phục hồi khả năng làm
việc của các tế bào thần kinh. Một giấc ngủ sâu, đủ độ dài là phương tiện cơ
bản để ngăn ngừa tình trạng quá mệt mỏi của hệ thần kinh và cơ thể. Trẻ nhỏ
thường ngủ nhiều hơn người lớn bởi hệ thần kinh của trẻ còn yếu, dễ mệt mỏi.
Chính vì vậy, chúng ta cần tổ chức cho trẻ ngủ thật tốt để giúp trẻ khôi phục
lại trạng thái bình thường của các tế bào thần kinh nhằm củng cố và tăng
cường sức khoẻ cho trẻ.
Một phương tiện cơ bản để tạo ra nhu cầu cần ngủ ở trẻ một cách đúng
đắn là việc tạo ra một chế độ ngày đêm thích hợp với lứa tuổi và những đặc
điểm cá nhân trẻ. Muốn vậy cần tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ
ngủ nhanh, ngủ sâu vào những giờ giấc đã quy định cho giấc ngủ. Cụ thể:
Cần tạo ra trạng thái yên tĩnh cần thiết trước giờ ngủ, không có những
hoạt động kích thích mạnh hưng phấn cho trẻ, không làm ồn, không để ánh
sáng chói chiếu vào phòng ngủ, phòng ngủ không khí phải thoáng.
Cho trẻ ngủ đúng giờ tạo ra phản xạ có điều kiện thuận lợi cho việc
rèn luyện thói quen ngủ nhanh, ngủ ngon giấc.
Không nên có những hình thức giao tiếp gây xúc cảm tiêu cực cho trẻ
và tạo ra hưng phấn cao ở vùng vỏ đại não.
Chăm sóc giấc ngủ cho trẻ: cho trẻ ngủ với thái độ ân cần, nằm đúng
tư thế, giúp đỡ riêng cho các trẻ yếu.
Gắn những công việc chuẩn bị đi ngủ với việc phát triển tính độc lập
ngày càng cao ở các độ tuổi.
Cho trẻ ngủ và thức dậy theo nhóm mà không nên cho trẻ dậy đồng
loạt. tốt nhất là rèn luyện cho trẻ tự mình thức dậy trong vòng 30 45 phút.
Cần có sự phối hợp giữa trường mẫu giáo và gia đình để tổ chức cho
trẻ ngủ buổi tối ở gia đình tốt.
1.2.4.
Sự phát triển vận động cho trẻ
Vận động là nhu cầu tự nhiên của cơ thể, đặc biệt có ý nghĩa hết sức
quantrọng đối với sự phát triển thể chất của trẻ mẫu giáo. Vận động làm cho
các cơ
bắp và toàn bộ cơ thể hoạt động, làm tăng cường sự hoạt động của hệ
hô hấp, tuần hoàn, tăng cường sự trao đổi chất và sức khoẻ cho trẻ. Sự phát
triển vận động được thực hiện thông qua nhiều hình thức phong phú phù hợp
với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo như: TCVĐ, thể dục buổi sáng, các
tiết học thể dục, dạo chơi, lao động.
Trong các TCVĐ, trong các tiết học thể dục, vận động khi đi dạo trẻ
được giáo dục nhiều phẩm chất quý giá: sự định hướng trong không gian,
nhanh nhẹn chính xác, vận động khéo léo, mở rộng quan hệ trong tập thể.
Sự phát triển vận động gắn chặt với sự phát triển toàn bộ cơ thể và tâm
lí của trẻ. Bởi vậy khi lập chương trình GDTC nhằm phát triển vận động cần
dựa trên những cơ sở sau:
Ưu tiên lựa chọn các bài tập, trò chơi hoạt động lao động có tác dụng
chung đến cơ thể và động viên nhiều cơ bắp tham gia.
Chọn các bài tập, trò chơi gây hứng thú và đồng thời đặt ra trước trẻ
một nhiệm vụ vừa sức.
Tăng cường các nhóm cơ bắp còn non yếu về mặt sinh lí và giáo dục
tư thế đúng.
Giáo dục kĩ năng vận động và vận động trong tập thể.
Các TCVĐ, trò chơi thể thao là hình thức hoạt động hấp dấn trẻ em và
các tác động giáo dục nhiều vận động cơ bản và sự phối hợp các vận động ấy.
Các TCVĐ rất phong phú và đa dạng được lựa chọn trong chương trình phù
hợp với từng độ tuổi. Với trẻ nhỏ trò chơi bao gồm các vận động đơn giản với
các luật chơi đơn giản. Với các trẻ lớn thì nội dung vận động và luật chơi
phức tạp hơn đòi hỏi các em phải hiểu điều kiện chơi, vận động chính xác và
đúng luật chơi.
Bài tập thể dục có tác dụng tốt đến hoạt động sinh lí cơ thể. Cơ bắp
được vận động thích hợp sẽ tăng cường quá trình trao đổi chất, tăng cường sự
làm việc các cơ quan bên trong hoạt động của hệ tim mạch, hô hấp. Đặc biệt
sự làm việc toàn vẹn của các tế bào thần kinh của não được tăng cường sẽ có
tác động trở lại đối với toàn bộ vận động và hoạt động của các cơ quan.
1.2.5.
Tổ chức chế độ sinh hoạt của trẻ ở trường mẫu giáo
Chế độ sinh hoạt là điều kiện quan trọng để GDTC cho trẻ có kết quả.
Chế độ sinh hoạt là sự luân phiên rõ ràng và hợp lý các dạng hoạt động và
nghỉ ngơi của trẻ trong một ngày, nhằm thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về ăn, ngủ,
vệ sinh cá nhân, hoạt động và nghỉ ngơi của trẻ theo lứa tuổi, đảm bảo trạng
thái cân bằng của hệ thần kinh, giúp cơ thể phát triển tốt.
Chế độ sinh hoạt có ý nghĩa giáo dục đối với trẻ. Do sự lặp lại thường
xuyên các thao tác, các hoạt động trong thời gian nhất định và theo một trình
tự nhất định làm cho trẻ nắm được những sinh hoạt hợp lí, những kỹ năng văn
hóa vệ sinh và hoạt động.
Chế độ sinh hoạt ở trường mẫu giáo được xây dựng trên cơ sở những
đặc điểm sinh lí, tâm lí của trẻ, trên cơ sở những nhiệm vụ giáo dục và điều
kiện sinh hoạt quyết định. Cụ thể:
Chế độ sinh hoạt phải phù hợp lứa tuổi. Đây là yêu cầu cơ bản của
việc xây dựng chế độ sinh hoạt cần căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi của hoạt
động thần kinh cao cấp, giới hạn làm việc của tế bào thần kinh vỏ não để định
thời gian hoạt động, ngủ cho trẻ ở các nhiệm vụ giáo dục.
Chế độ sinh hoạt phải được cố định. Khi chế độ sinh hoạt đã được xác
lập một cách khoa học thì cần phải thực hiện một cách cố định.
Việc thực hiện chế độ sinh hoạt không nên quá cứng nhắc, với mỗi trẻ
cần có sự linh hoạt thích đáng. Có thể xê dịch thời gian biểu ở mức độ cần
thiết. Chẳng hạn, khi trẻ đang quá ham chơi và mệt mỏi, thì có thể kéo dài giờ
chơi chút ít, một trẻ cần ngủ sớm hay dậy sớm cũng được khi chúng có yêu
cầu.
Chế độ sinh hoạt của trẻ được chương trình chăm sóc giáo dục trẻ do
Bộ GD&ĐT ban hành được trình bày tại bảng 1.4.
Bảng 1.4: Bảng chế độ sinh hoạt của trẻ
Thời gian
T
T
1
MG
Nội dung
bé
MG nhỡ MG lớn
1h15
1h15
1h
2
Đón trẻ, chơi tự do, thể dục sáng, điểm
danh
Các tiết học
30ph
1h
1h20
3
Hoạt động ngoài trời
50ph
30ph
30ph
4
Trò chơi sáng tạo
50ph
50ph
50ph
5
Vệ sinh ăn trưa
1h
50ph
40ph
6
Ngủ trưa
2h50
2h50
2h40ph
7
Vệ sinh, vận động nhẹ, ăn quà chiều
50ph
40ph
30ph
8
Sinh hoạt chiều (nêu gương bé ngoan
50ph
1h
1h10
1h20
1h20
1h20
chiều thứ 7)
9
Hoạt động tự chọn, vệ sinh trả trẻ