Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Nghiên cứu phong tục Tang ma của người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La: Sự biến đổi và những giá trị nhân văn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 54 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................................3
PHẦN MỘT : MỞ ĐẦU.........................................................................................................................4
I. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................................4
1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................................................5
2.Mục đích nghiên cứu....................................................................................................................6
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu....................................................................................................6
3.1.Đối tượng nghiên cứu................................................................................................................6
3.2.Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................................6
4.Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................................7
5.Đóng góp của luận văn.................................................................................................................7
6.Cấu trúc của luận văn...................................................................................................................7
PHẦN HAI: NỘI DUNG..........................................................................................................................8
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI THÁI Ở TỈNH SƠN LA VÀ NGƯỜI THÁI ĐEN HUYỆN THUẬN
CHÂU, TỈNH SƠN LA.............................................................................................................................8
1.1.Nguồn gốc của người Thái.........................................................................................................8
1.2.Người Thái ở Sơn La................................................................................................................10
1.3.Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La. 10
1.4.Người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La..................................................................12
1.4.1.Điều kiện kinh tế...................................................................................................................12
1.4.2.Điều kiện văn hóa, xã hội......................................................................................................13
Tiểu kết Chương I:.............................................................................................................................21
CHƯƠNG II :.......................................................................................................................................22
HÀNH TRÌNH TANG MA CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA.......................22
2.1.Tổ chức đám tang....................................................................................................................22
2.1.1. Khâu chuẩn bị......................................................................................................................22
2.1.2. Các nghi thức trong đám tang.............................................................................................25
2.2. Dựng nhà mồ..........................................................................................................................32
TIỂU KẾT CHƯƠNG II:........................................................................................................................35


CHƯƠNG III: TANG MA CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA: SỰ BIẾN ĐỔI
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN VĂN.........................................................................................................37
3.1.Biến đổi trong nghi lễ tang ma.................................................................................................37

1


3.2. Giá trị nhân văn trong nghi lễ tang ma của người Thái đen ở huyện Thuận Châu..................41
TIỂU KẾT CHƯƠNG III........................................................................................................................46
PHẦN BA :KẾT LUẬN..........................................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................49
PHẦN BỐN: PHỤ LỤC.........................................................................................................................50
A/ TƯ LIỆU CHỮ VIẾT.....................................................................................................................50
B/TƯ LIỆU HÌNH ẢNH.....................................................................................................................50

2


LỜI CẢM ƠN
Không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ
,giúp đỡ dù ít hay nhiều ,dù trực tiếp hay gián tiếp của những người xung
quanh.Trong những ngày làm bài tiểu luận này ,em đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm ,giúp đỡ của cô giáo và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất ,em xin gửi đến cô giáo T.s Nguyễn
Phương Thảo – Khoa Du Lịch –Sư Phạm – Trường Đại Học Công Nghiệp Hà
Nội đã dùng trí thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý
báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua .Và đặc biệt trong kì
này,cô đã tổ chức cho chúng em được tiếp cận với môn học mà theo em là rất
hữu ích đối với chuyên ngành của chúng em.
Em xin chân thành cảm ơn cô đã tận tình hướng dẫn chúng em trong

những buổi trên lớp . Nếu không có những lời hướng dẫn ,dạy bảo của cô thì
em nghĩ bài nghiên cứu này của em rất khó có thể hoàn thiện được.Một lần
nữa em xin chân thành cảm ơn cô.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các bạn trong lớp đã giúp đỡ em trong quá
trình hoàn thành bài tiểu luận này,các bạn đã động viên,,chỉ những lỗi sai và
giúp em trong quá trình tìm tài liệu.
Do vốn kiến thức không đủ sâu và kinh nghiệm làm bài chưa có nên
không tránh khỏi những thiếu sót ,em mong muốn nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu của cô và các bạn cùng lớp để kiến thức và kĩ năng của em
được hoàn thiện hơn nữa.Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Hoàng Thị Hường

3


PHẦN MỘT : MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài

Con người sinh ra, lớn lên rồi già đi. Không ai tránh được vòng quy luật
"Sinh - Lão - Bệnh - Tử" và đến một lúc nào đó phải lìa cõi trần. Đó là lẽ sinh
tử, là quy luật tự nhiên và khi con người chết đi thì việc làm tang ma là một
việc hệ trọng trong chu kỳ đời người trên cõi trần gian. Mỗi quốc gia, mỗi tộc
người có cách thức tổ chức nghi lễ tang ma khác nhau như địa táng, hỏa táng,
thiên táng, thủy táng...
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có những phong tục
tập quán riêng góp phần hình thành nên tính đa dạng của văn hoá Việt Nam.
Việc gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hoá đa dạng đó là điều hết sức quan
trọng đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chính vì thế, trong văn kiện Đại
hội XI của Đảng đã có những định hướng quan trọng về phát triển văn hoá

“Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển”.
Người Thái là một trong những dân tộc có nền văn hóa đặc sắc trong
cộng đồng các dân tộc ở nước ta. Người Thái có nhiều nhóm, nhiều nhánh,
trong đó có nhánh Thái Đen huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La còn lưu giữ
được những phong tục tập quán, sinh hoạt cộng đồng, từ ăn, mặc, ở cho đến
đời sống tín ngưỡng, tâm linh mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Đặc biệt
là phong tục tang ma thể hiện được tính nhân văn sâu sắc, phản ánh đầy đủ
những giá trị văn hóa tộc người bao gồm: đời sống văn hóa tâm linh gắn với
con người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, mối quan hệ và tình cảm của
người sống với người chết, gia đình với dòng họ, cộng đồng, tộc người này với
cộng đồng tộc người khác...Ngoài ra nó còn phản ánh đời sống văn hóa hàng

4


ngày của đồng bào như nhà cửa, trang phục, đồ ăn, thức uống...
Hiện nay, bối cảnh xã hội mới phần nào đã tác động đến các hoạt động
nghi lễ cổ truyền nói chung và nghi lễ tang ma của tộc Thái đen ở huyện
Thuận Châu, tỉnh Sơn La nói riêng làm cho không ít nét văn hóa, nghi lễ ở đây
đã và đang biến đổi.
Và với đề tài này em muốn được tìm hiểu rõ hơn về nghi lễ tang ma của
dân tộc Thái đen để thấy được phong tục truyền thống trong tang ma của họ
cũng như sự biến đổi của nét văn hóa truyền thống này.
1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Văn hóa của người Thái trong đó có tang ma là một chủ đề nghiên cứu

rất rộng và thu hút nhiều nhà nghiên cứu, trong đó nổi bật là các công trình
nghiên cứu như: Cuốn sách Luật tục Thái ở Việt Nam, Cầm Trọng, Ngô Đức
Thịnh, Nxb Văn hóa dân tộc (1999) đã tập trung vào các phong tục tập quán đã
trở thành luật lệ của bản mường mà tất cả mọi người đều phải tuân theo và
thực hiện trong sinh hoạt hàng ngày như cưới hỏi, tang ma, cúng bái.. .Nghiên
cứu về Phong tục tang lễ của người Thái đen xưa kia, tác giả Lường Vương
Trung (2011), Nxb Thanh niên đã mô tả khá chi tiết về một đám tang từ khi
chuẩn bị cho đến các nghi thức hành lễ của người Thái ở Sơn La. Tác giả
Nguyễn Đăng Duy trong Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam
(2004), Nxb Văn hóa dân tộc đề cập một cách toàn diện về đời sống văn hoá
sản xuất, văn hóa tổ chức đời sống, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của
người Thái. Tác phẩm Mỹ thuật dân tộc Thái ở Việt Nam, của Phan Ngọc
Khuê (2004), Nxb Mỹ thuật quan tâm đến các hình thức trang trí nhà mồ của
người dân tộc Thái.
Qua các tác phẩm trên, em thấy hầu hết các tác giả đã đề cập, nghiên
cứu về nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến lịch sử, xã hội cũng như
truyền thống văn hóa dân tộc Thái song không nhiều bài viết đề cập riêng đến
tang ma của người Thái đen và người Thái đen ở huyện Thuận Châu, Tỉnh Sơn
La. Dân tộc Thái có nhiều nhóm, nhiều ngành, cư trú ở nhiều địa bàn khác

5


nhau như Điện Biên, Sơn La, Lai Châu,… nên đề tài này cũng có một ý nghĩa
trong việc hiểu biết thêm về nét văn hóa đa sắc màu của tộc người Thái ở Việt
Nam.
2.Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu tìm hiểu về đám tang của người Thái đen ở huyện Thuận
Châu, tỉnh Sơn La em hy vọng sẽ hiểu được rõ hơn những giá trị văn hóa vật

thể và phi vật thể của dân tộc Thái đen thể hiện trong đám tang.
Tìm hiểu đám tang của người Thái đen để thấy được các sắc thái riêng
và sự biến đổi của nó trong đời sống xã hội hiện nay, nhằm xác định những giá
trị đặc sắc của nó và góp phần làm phong phú thêm sự đa dạng của môi trường
văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Qua đám tang, em muốn tìm hiểu các nghi thức hành lễ mang t ính nhân
văn, tính cộng đồng mà nó thể hiện trong đám tang của người Thái.
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu

Tiểu luận này xác định đối tượng nghiên cứu chính là tang lễ của người
Thái đen huyện Thuận Châu, Tỉnh Sơn La với tất cả những thành tố văn hóa
liên quan như: Hành trình của một đám tang; mục đích , ý nghĩa của các nghi
lễ; thành phần tham gia; các khía cạnh về kinh tế, xã hội, mạng lưới xã hội
cũng như các chiều cạnh biến đổi của đám tang.
3.2.Phạm vi nghiên cứu

Luận văn được thực hiện chính trong phạm vi địa bàn là huyện Thuận
Châu, Tỉnh Sơn La - nơi cư trú chủ yếu của nhóm Thái Đen. Ngoài ra, để có
được một số sự so sánh hoặc đối chứng cần thiết, em muốn mở rộng phạm vi
nghiên cứu của mình ra một vài vùng lân cận hoặc với một vài tộc người khác
để làm nổi bật lên nét độc đáo của nhóm người này.

6


4.Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:
Tổng hợp và phân tích các nguồn tài liệu đã công bố: Với các nguồn tài

liệu về người Thái ở Việt Nam nói chung, người Thái đen nói riêng và các tư
liệu lịch sử, văn hóa, xã hội tại địa phương để có được những hiểu biết khái
quát và cơ bản về tộc/nhóm người này cũng như địa bàn nghiên cứu.
Ngoài ra, bài viết của em còn sử dụng các phương pháp so sánh, đối
chiếu với một vài vùng lân cận hay một vài dân tộc khác để làm nổi bật chủ đề
trên.

5.Đóng góp của luận văn

Qua bài viết này chúng ta hiểu rõ hơn phần nào phong tục tập quán của
người Thái nói chung và của người Thái đen nói riêng để từ đó chúng ta biết
tôn trọng, giữ gìn và phát huy phong tục truyền thống của họ. Làm được điều
đó chúng ta đã góp phần vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc Việt
Nam nói chung.

6.Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Tổng quan về người Thái ở tỉnh Sơn La và người Thái đen ở
huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Chương 2. Hành trình tang ma của người Thái đen ở huyện Thuận Châu,
tỉnh Sơn La.
Chương 3. Tang ma của người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn
La: Sự biến đổi và những giá trị nhân văn.

7


PHẦN HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI THÁI Ở TỈNH SƠN LA VÀ

NGƯỜI THÁI ĐEN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA.
1.1.Nguồn gốc của người Thái

Theo kết quả số liệu tổng điều tra dân số ngày 1/4/2001 của Tổng cục thống
kê, dân tộc Thái có 1.328.752 người, là dân tộc có dân số đông thứ 3 ở Việt
Nam, có mặt khắp cả nước. Sơn La 485.507 người, Nghệ An 200,132 người,
Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803
người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người,
Đắk Nông 10,311 người.
Người Thái tự gọi họ là “Côn Tay” hoặc “Côn Thay” và còn có những
tên gọi khác như: Tay Thanh, Man Thanh, Tay mười, Hàng Tang, Tay Dọ.
Người Thái ở Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Nghệ An) vẫn chiếm số
đông nhất. Cho đến nay chúng ta biết đến ba ngành Thái chính là Thái Đen
(Tay Đăm), Thái Trắng (Tay Đơn hoặc Khao) và Thái Đỏ (Tay Đeng) Người
Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai) là con cháu của
người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Qua các tư liệu về người Thái đã ghi lại: Từ lâu đời quê hương người
Thái nằm trong một vùng rộng lớn thuộc khu vực Xíp - xoong - păn - na
(mười hai cánh đồng) ở Vân Nam, Trung Quốc, khu Mường Ôm, Mường Ai
(thuộc các châu Tùng Lăng, Hoàng Nham), khu mường Bỏ té (thuộc miền Tây
Nam Vân Nam, Thượng Lào giáp Điện Biên) và Mường Thanh (Điện Biên).
Họ đã trải qua các đợt thiên di lớn và rồi có mặt đông đúc ở miền Tây Bắc
Việt Nam.
Ở phía Bắc, ngành Thái trắng sau khi làm chủ được vùng thung lũng
Mường Lay đã theo dọc Sông Đà xuống Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Mường
Chiến (Mường La) và nhập vào cánh đồng Phù Yên hoà với người Mường.
Khoảng thế kỉ XI - XII người Thái thuộc ngành Thái đen do hai tù
trưởng Tạo Ngần, Tạo Xuông dẫn đầu đã đi từ Mường Ôm, Mường Ai qua

8



Mường Lò - Luông (nay là Mường Là thuộc Vân Nam) vào Tây Bắc. Đầu tiên
tới Mường Lò (Nghĩa Lộ), họ đã khai khẩn Mường Lò và tập trung người Thái
ở đây do Tạo Lò đứng đầu. Đến đời con Tạo Lò là Lạng Chượng đã dùng lực
lượng quân sự phát triển thế lực lên Mường Chiên, Mường Trai, Ít Ong (vùng
tả ngạn sông Đà thuộc huyện Mường La), sau đó vượt Sông Đà tiến vào các
vùng Mường Bú, Mường La rồi Mường Muổi (Thuận Châu), Mường Quài
(Tuần Giáo) và cuối cùng Lạng Chượng đã dừng chân ở Mường Thanh (Điện
Biên). Cuộc di dân này kéo dài đến hai mươi năm. Những người Thái mới đến
đã cùng người đồng tộc và cư dân bản địa khác mở mang đất đai trên những
thung lũng thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, trở thành những cánh đồng tương
tự như ngày nay. Ở Mường Muổi (Thuận Châu) sau khi đã ổn định, một bộ
phận người Thái đen lại tiếp tục di cư qua Lào vào miền Tây Nghệ An, nay là
nhóm Tày Muổi.
Người Thái ở Tây Bắc tập trung dân số đông nên văn hóa của họ đóng
vai trò rất quan trọng đối với khu vực này và đó cũng là nền văn hóa còn lưu
giữ được nhiều những yếu tố truyền thống cổ xưa, ít bị pha trộn với các nền
văn hoá xung quanh.
Người Thái cùng cư trú với các tộc người Khơ Mú, La Hả, Kháng,
Mông, Mường, xinh Mun...Có 3 ngành: Thái đen, Thái trắng, Thái đỏ. Đông
nhất là ngành Thái đen. Người Thái đen tập trung ở các vùng Điện Biên, Tuần
Giáo (Tỉnh Điện Biên); Văn Chấn, Trạm Tấu, Thị xã Nghĩa Lộ (T ỉnh Yên
Bái); các huyện Thuận Châu, Mai Sơn, Mường La, Sông Mã, Sốp Cộp, Yên
Châu, Thành phố Sơn La (tỉnh Sơn La). Ngành Thái trắng cư trú tập trung ở
Mường Lay, Mường Nhé (tỉnh Điện Biên); Phong Thổ, Mường Tè, Than Uyên
(Tỉnh Lai Châu); Quỳnh Nhai, Ngọc Chiến - Mường La (tỉnh Sơn La). Ngành
Thái đỏ tập trung ở vùng Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên (tỉnh Sơn La); Các
huyện Đà Bắc, Mai Châu (tỉnh Hoà Bình) (theo văn bản của Nhà nước thì
người Thái ở vùng này được xếp vào nhóm Thái trắng, nhưng c hính họ tự

xưng mình là Tay đeng (Thái đỏ), hay Tay Éng, Tay Khoong - Từ Thanh Hoá
sang.

9


1.2.Người Thái ở Sơn La

Người Thái ở Sơn La gồm 4 ngành (chi) với 485.507 người,
chiếm 51,2% dân số toàn tỉnh.
Thái trắng cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường
La). Thái đen ở Thuận Châu, Mường La, Mai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc
biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng trên cả về tiếng nói, ăn
mặc, tập tục.
Chi (ngành) Thái ở Mộc Châu tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng). Ở Bắc Yên,
Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng), ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay
khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi
họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng
(người Eng), “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông
Pha Băng qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất Giao
Chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi
Xuân, La Hán vào Mường Mun (Lai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
1.3.Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Thuận
Châu tỉnh Sơn La.

Huyện Thuận Châu nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Sơn La trong vùng địa
hình có độ cao trung bình từ 800 - 810m, so với mặt nước biển, có diện tích tự

nhiên là 154.126 ha, nằm dọc trên đường Quốc lộ 6 ( Hà Nội-Hòa Bình-Sơn

La-Điện Biên ), cách thành phố Sơn La 34 km, cách huyện Tuần Giaos tỉnh
Điện Biên 52 km.
Toạ độ địa lý: 21012' đến 21041' vĩ độ bắc. 103020' đến 103059' kinh độ
đông. Phía Đông giáp huyện Mường La và thành phố Sơn La tỉnh Sơn La.
Phía Tây giáp huyện Điện Biên Đông, huyện Mường Áng và huyện Tuần
Giaos tỉnh Điện Biên. Phía Nam giáp huyện Mai Sơn và huyện Sông Mã tỉnh
Sơn La. Phía Bắc giáp huyện Quỳnh Nhai và huyện Mường La tỉnh Sơn La.
Thiên nhiên đã phú cho huyện Thuận Châu một nguồn tài nguyên thiên

10


nhiên phong phú. Về lâm sản, ở đây có trên 70 loài cây, nhiều loài đã được ghi

vào sách đỏ Việt Nam: đinh hương, săng lẻ, vàng tâm, dổi, kền kền, pơ mu...
Nhìn chung vùng này trước đây, chỉ cách đây khoảng hai mươi năm nhiều
cánh rừng vẫn chưa bị tàn phá, thảm thực vật còn dầy, động vật cũng phong
phú, nhất là các loài thuộc bộ móng guốc, gặm nhấm như lợn rừng, hươu, nai,
nhím, sóc cũng đã từng tồn tại ở đây

Khí hậu ở đây thuộc loại nhiệt đới ẩm, gió mùa. Nhiệt độ trung bình
trong năm vào khoảng 25 0C (cao nhất 360C, thấp nhấp 7,10C). Trong năm, khí
hậu ở đây phân thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa khí hậu nóng, nhiệt độ thường
từ 30 - 360C lại có gió nóng. Hàng năm, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 - 10.
Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 2.000 - 2.100 mm, thường gây lũ
đột ngột, xói mòn và rửa trôi m ạnh. Mùa khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến
tháng 4 năm sau, ít mưa, sông, suối khô cạn.
Dân số huyện Thuận Châu là 133.802 người với 29 đơn vị hành chính
trực thuộc, bao gồm thị trấn Thuận Châu ( huyện lỵ ) và 28 xã: Bản Lầm, Bó
Mười, Bon Phặng, Chiềng Bôm, Chiềng La, Chiềng Ly, Chiềng Ngàm,

Chiềng Pấc, Chiềng Pha, Co Mạ, Co Tòng, Liệp Tè, Long He, Muội Nọi,
Mường Bám, Mường É, Mường Khiêng, Nậm Lầu, Nong Lay, Pá Lông,
Phỏng Lái, Phỏng Lặng, Phỏng Lập, Púng Tra, Thôm Mòn, Tòng Cọ, Tòng
Lệnh.
Riêng dân tộc Thái đen tại huyện có số lượng đông nhất. Họ chung sống
với nhau tập trung thành những bản làng và tiểu khu đông đúc xen kẽ là một
số cư dân của các dân tộc khác đến làm ăn, buôn bán. Do người Thái có tập
quán ở nhà sàn và cũng thích nghi với cách sinh hoạt này, mỗi nhà đều có
khoảng đất rộng và ít khi có bờ rào ngăn cách giữa nhà này với nhà kia và
người Thái là một trong những cư dân đã sống tại đây rất lâu đời ở đây nên họ
đã lựa chọn cho mình những vị trí đẹp và thuận lợi cho đời sống và từ đó lập
bản lập mường. Đó là những nơi đồi núi thấp, gần sông, suối, có địa thế rộng
rãi, bằng phẳng thuận tiện cho việc canh tác, đi lại.. .Bên cạnh bộ máy hành
chính, mỗi bản đều có hệ thống chức dịch và được hưởng những quyền lợi và

11


các nghĩa vụ kèm theo.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người như
vậy là cơ sở hình thành bản sắc văn hóa, những luật tục, mang nhiều nét riêng
đặc thù từ ngàn đời nay của người dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
1.4.Người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La
1.4.1.Điều kiện kinh tế

Người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La là những cư dân
nông nghiệp. Ngành nghề chính là trồng lúa nước, lúa nếp, các thứ hoa màu;
chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá.. .đan lát, dệt thổ cẩm. Bên cạnh đó là một số
loại hình dịch vụ buôn bán nhỏ lẻ tập trung chủ yếu ở những nơi đông dân cư.
Người Thái đen là cư dân sinh sống lâu đời nhất ở đây, vì vậy ngay từ đầu đặt

chân đến mảnh đất này, người Thái đã tập trung đến việc khai phá ruộng đất ở
những thung lũng thành những cánh đồng rộng lớn.
Với bộ nông cụ làm ruộng như cày, mai, xẻng; các biện pháp kĩ thuật
liên hoàn (làm đất, làm mạ, gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch); đặc biệt là hệ
thống thuỷ lợi “dẫn thuỷ nhập điền” mương, phai, lái, lịn và cọn nước, cùng
với các nghi lễ tín ngưỡng liên quan. Qua nhiều thế hệ, người Thái đen đã đúc
kết và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Hiện nay, người Thái
đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã chuyển sang làm hai vụ lúa. Vụ
chiêm cấy tháng 2, thu hoạch tháng 5; vụ mùa cấy tháng 7 thu hoạch tháng 10.
Ngoài ra, họ còn làm nương rẫy, đó là lối canh tác “phát đốt, gieo trồng”.
Công cụ để làm nương rẫy chủ yếu là: dao, rìu, móc, khều, gậy chọc lỗ bọc sắt
hoặc không bịt sắt, nạo cuốc để làm cỏ, nhíp để gặt. Sản phẩm thu về là ngô,
khoai, sắn. Ngoài việc trồng trọt, người Thái đen ở đây cũng rất giỏi trong
việc chăn nuôi trâu, bò, lợn gà, cá ruộng... săn bắn muông thú, hái lượm lâm
thổ sản, rau, măng. đánh cá ở các sông suối. Do ý thức tự cung tự cấp này mà
họ hiểu rất rõ về vai trò của chăn nuôi, trồng trọt, hái lượm, săn bắt.trong cuộc
sống. Vì vậy, người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thường dùng
những thức ăn có sẵn như: rau rừng, thịt thú rừng (măng, nấm, thỏ, chim... ),

12


các loại côn trùng như: ong, trứng kiến, dế.hầu hết là họ thường dùng những
thứ mình trồng và kiếm được. Đến nay cuộc sống của người dân được phần
nào cải thiện nên thức ăn có phần phong phú hơn.
Các nghề thủ công cũng phát triển. Người phụ nữ Thái đen nơi đây có
tính cần cù, chịu thương chịu khó, đôi bàn tay khéo léo cùng với trí sáng tạo
dệt nên những tấm vải thổ cẩm theo các mô típ hoa văn hình thù chim, hoa cỏ,
cây cối rất tinh xảo. Họ đã làm ra nhiều sản phẩm nổi tiếng như: khăn piêu,
mặt chăn, mặt gối, túi thổ cẩm (Hình 1). Các chàng trai không những tài giỏi

về săn bắn, thiết kế dựng lên những nếp nhà sàn khang trang, thoáng mát mà
còn có tài đan lát các vật dụng trong gia đình rất đẹp như: ếp, bung, cóm khẩu,
tấm phên trải sàn nhà, chài, lưới.Bên cạnh đó do điều kiện địa hình tự nhiên
chạy dọc theo đường quốc lộ nên rất thuận lợi cho các loại hình dịch vụ ở đây
phát triển, hình thành nên các tiểu thương, các doanh nghiệp với các ngành,
nghề đa dạng, đời sống của nhân dân trong khoảng mười năm trở lại đây thay
đổi một cách rõ rệt.
1.4.2.Điều kiện văn hóa, xã hội

Nhà ở truyền thống
Nhà ở truyền thống của đồng bào dân tộc Thái đen nơi đây chủ yếu là
nhà sàn (loại nhà có mái mu rùa có hai đầu hồi). Phía trên mái nhà có Khau
Cút là hai thanh tre để chéo nhau. Những thanh tre hoặc gỗ, cũng được chia
nhiều kiểu dáng khác nhau, thể hiện các tầng lớp trong xã hội. Người giàu thì
luôn làm Khau Cút hình hoa thể hiện sự thanh tao và giàu có. Còn ngược lại
dân thường thì làm thanh gỗ vắt chéo và không có họa tiết gì. Còn những gia
đình mới ra ở riêng thì làm hình người phụ nữ mang bầu để cầu mong sự sinh
sôi nảy nở. Nguyên vật liệu để dựng ngôi nhà sàn thường được khai thác tại
chỗ, bằng những nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên như: tre, gỗ, nứa, lợp cỏ
gianh hay lá cọ (nay có nhiều nhà lợp mái ngói). Xưa kia phần lớn nhà sàn đều
là loại nhà cột chôn nên cây cột thường được chọn là loại gỗ có lõi tốt không
bị mối mọt. Kĩ thuật làm nhà rất thủ công bằng những công cụ đơn giản như:
dao, rìu (sau này có loại nhà vì kèo mới sử dụng đến cưa, đục, bào...). Điều

13


đặc biệt là ngôi nhà sàn truyền thống này hoàn toàn không dùng đinh sắt hay
dây thép mà chỉ dùng lạt mây, tre hay sợi dây rừng để buộc đòn tay làm mái.
Đặc biệt hơn đó là nhà sàn chỉ có số gian lẻ không những thế mà cả số

đòn tay, cầu thang lên xuống, số lượng cửa chính, cửa sổ, cả thanh chắn cửa sổ
cũng là số lẻ. Bởi lẽ đồng bào cho rằng con số lẻ là con số may mắn, là con số
phát triển cần phải thêm vào. Hai đầu hồi của nhà được đặt cầu thang, bên
(Quản) bẩy bậc là dành cho nam giới và khách tới chơi nhà, bên (Chan) chín
bậc là dành cho gia đình và phụ nữ.
Ngôi nhà sàn thường được chia làm ba tầng rõ rệt: tầng nền đất gầm sàn
(Lang) xưa họ thường ngăn để chăn nuôi gia súc, gia cầm, còn ngày nay họ chỉ
để củi hay đặt khung cửi. Tầng mặt sàn (Hạn Hươn) là không gian sinh hoạt
của gia đình và phần này được phân chia theo gian cho mỗi thành viên trong
gia đình. Ở phần mặt sàn sát với Chan đặt bếp dùng để nấu nướng, gian sát với
Quản là nơi đặt gian thờ cúng Hóng và nơi tiếp khách. Tầng ba trong ngôi nhà
sàn là phần gác trên quá giang Khứ Hươn phần này chủ yếu là để thóc lúa,
nhất là thóc giống và những đồ đun nấu trong nhà. Xưa kia đây cũng là nơi cất
giữ đồ đạc quý trong nhà như vàng bạc, nồi đồng, ninh đồ xôi chưa được dùng
đến.
Nhà ở của người Thái hay các dân tộc khác cũng vậy, nó là một trong
những nhu cầu cần thiết cho sinh hoạt gia đình, mang đậm tính văn hoá của
cộng đồng và nhà sàn cũng là giá trị văn hoá lâu đời của người Thái.(Hình 2)
Trang phục
Cũng như nhiều dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Thái đen thể hiện
rõ nhất bản sắc văn hóa tộc người . Một bộ trang phục nữ Thái gồm: áo ngắn
(Xửa Cỏm), áo dài (Xửa Chái và Xửa Luổng), váy (Xỉn), thắt lưng (Xải Cỏm),
khăn (Piêu), nón (Cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng
tay, xà tích...Xửa Cỏm (áo ngắn bó sát người có hàng cúc bướm) có thể may
bằng nhiều loại vải với màu sắc khác nhau. Chính hàng khuy bạc hay kim loại
đã làm cho Xửa Cỏm trở thành chiếc áo đặc trưng của bộ nữ phục Thái. Theo
quan niệm dân gian Thái, hai hàng cúc bạc trên hai vạt áo Xửa Cỏm là tượng

14



trưng cho sự kết hợp nam với nữ, tạo nên sự trường tồn của nòi giống. Phụ nữ
Thái còn mặc hai loại áo dài là (Xửa Chái) và (Xửa Luổng). Xửa Chái may
bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo
phủ quá đầu gối. Theo tục lệ, phụ nữ có chồng mới mặc Xửa Chái vào dịp cưới
xin, hội hè. (Xửa Luổng) là áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay
hoặc không có tay. Phụ nữ Thái từ khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành
cho bản thân khi về già và một dành biếu mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già
mặc áo Xửa Luổng lộn trái mặc vào ngày thường, chỉ khi chết mới mặc mặt
phải.
Nói về bộ trang phục nữ Thái đen không thể thiếu chiếc khăn piêu.
Chiếc khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự khéo
léo của mỗi cô gái. Khăn Piêu là đặc trưng của người dân tộc Thái với đường
nét tinh xảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ cùng màu sắc sặc
sỡ.
So với nữ phục thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái
tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần,
thắt lưng và các loại khăn. Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo
ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo
làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong
dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới,
áo được xẻ tà hai bên hông...Trang phục Thái phản ánh rõ nét đặc điểm của cư
dân nông nghiệp trồng trọt, sự chinh phục, tìm tòi các nguyên liệu trong thiên
nhiên để tạo ra trang phục đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống. Trang phục vượt
qua cả giá trị vật chất thuần túy của nó thể hiện lối sống, quan niệm thẩm mỹ,
đạo đức, tư tưởng xã hội, tín ngưỡng...( Hình 3.1 và Hình 3.2 )
Văn hoá gia đình và dòng họ
Gia đình người Thái đen bản Nà Lạn cũng như nhiều dân tộc khác, là
gia đình phụ hệ bao gồm ông, bà, cha, mẹ và con cái. Đó cũng là một đơn vị
kinh tế đồng thời một tế bào xã hội và là hiện tượng phổ biến hiện nay của

người Thái ở Sơn La. Khi hai cá thể nam nữ kết hợp thành một tổ hợp gia

15


đình, thì ở người Thái, cũng hình thành quan hệ ba chiều, trong đó, mỗi chiều
là một họ mà thực chất là một nhóm thân thuộc. Dòng họ giữ vai trò quan
trọng trong đời sống của gia đình.
Toàn bộ anh em trai cùng một cha, ông nội, cụ nội, hợp thành quan hệ
huyết thống gọi là Ải Noọng, xa hơn nữa thì có chung một tổ tiên gọi là Đẳm.
Tất cả anh em trai của vợ gọi là Lung Ta tức họ ngoại, họ của các ông
cậu
Tất cả các anh em cọc chèo hợp thành một nhóm gọi là Nhinh Sao hay
họ nhà trai.
Người Thái rất chú trọng đến việc dạy dỗ con cái. Con gái theo mẹ làm
nghề truyền thống của phụ nữ từ 8 đến 10 tuổi. Cũng ở tuổi này bắt đầu tập lao
động, làm nương dệt vải. Con trai làm các công việc đồng áng, lên rừng để khi
lớn lên các em vững trãi trong cuộc sống. đặc biệt sau khi lấy vợ, trong thời
gian ở rể , bố vợ có trách nhiệm dạy dỗ con rể lao động, làm những việc từ
mài dao đan gùi... đến các tập quán, lễ nghi trong ứng xử hàng ngày.
Tuy người Thái theo truyền thống phụ hệ nhưng trong mỗi gia đình, sự
bình đẳng, lấy tình thương yêu vợ chồng làm đầu vẫn là nét văn hoá nổi bật.
Huyết thống dòng cha của người Thái được thể hiện ở tín ngưỡng đặc biệt
quan trọng đó là thờ cúng tổ tiên, gọi là thờ Ma Nhà hay Ma Đẳm. Trong mỗi
cộng đồng cùng Đẳm đều thấy có một chiếc gươm thiêng Đáp Đẳm được
truyền từ đời này qua đời khác, theo dòng trưởng.
Cộng đồng người Thái cũng theo phong tục tập quán tôn trọng dòng họ
ông cậu Lung Ta được biểu hiện trong cách ứng xử hợp lý giữa họ nhà trai
Nhinh Sao với họ ông cậu Lung Ta này. Đó là khi bên Lung Ta có việc tang
ma thì bên Nhinh Sao phải có nghĩa vụ chia xẻ, đóng góp. Ngược lại, bên

Nhinh Sao dựng nhà mới, Lung Ta sẽ đến dựng cột thiêng, bỏ vào lỗ chôn cột
hoặc chân đá kê, vật thiêng bằng bạc để làm nền cho sự phát lộc. Lung Ta là
người dựng bếp chính cho ngôi nhà mới, rồi đặt ba ông đầu rau và nhóm bếp
lửa lần đầu tiên.
Tín ngưỡng, phong tục

16


Nói về phong tục tập quán, trong cái chung của người Thái thì mỗi
ngành lại có những đặc điểm riêng của mình. Người Thái trắng, Thái đỏ có tết
nguyên đán nhưng người Thái đen lại không có, bởi người Thái trắng và Thái
đỏ họ tính theo lịch âm lịch như người Kinh và người Hán, còn người Thái
đen lại tính theo lịch riêng của mình. Giữa lịch Thái đen và lịch âm lịch chênh
nhau rất đáng kể, ví dụ: Tháng 3 âm lịch lại là tháng 9 của lịch Thái đen; tháng
giêng của lịch Thái đen là tháng 7 âm lịch.. .Cho nên người Thái đen xưa kia
không có khái niệm về ăn tết nguyên đán. Những ngày tết nguyên đán, người
Thái đen cũng nghỉ ngơi, yến tiệc, vui chơi nhưng không phải là Tết mà là
tháng “Xên Hươn” (cúng nhà cuối năm).
Ở mỗi vùng, mỗi bản thường có các ông "Mo" hoặc “Po mự" để lo việc
xem ngày tốt, xấu cho những ai cónhu cầu như các ngày cưới vợ, gả chồng,
dựng nhà, lên nhà mới, tang ma. Các ông mo thường có cuốn sổ cổ làm căn cứ
cho việc tính toán lịch và chọn ngày, chọn giờ phục vụ cho dân khi có nhu cầu.
Người Thái khi tiến hành một công việc hệ trọng nào đấy thường quan
tâm đến một số ngày như vễn ók (ngày sinh), vễn tỗng (ngày cúng tổ), mự kảu
kôn (ngày bố mẹ mất), mự hùa đỏn (ngày đưa hồn bố mẹ lên nhà), mự xành
phãy pá (ngày thiêu xác bố, mẹ)...Những ngày này người ta tính theo ngày của
lịch Thái và không được tiến hành các công việc hệ trọng.
Mỗi ngành Thái có những đặc điểm riêng (kể cả tiếng nói và tên chỉ các
đồ vật) nhưng họ vẫn nghe được, hiểu được nhau. Giữa các ngành Thái họ

sống bên nhau rất gần gũi, chan hoà, không có sự tách biệt và rất tôn trọng
nhau.
Người Thái quan niệm chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
Hoả táng là tục lệ đã có từ ngàn xưa của người Thái đen ở một số vùng của
Tây Bắc và đặc biệt là ở huyện Thuận Châu. Họ tin rằng khi thi hài được “tắm
rửa” bằng lửa, linh hồn sẽ lên được mường trời, tiếp tục “sống” trong một thế
giới khác.
Người Thái nói chung và người Thái ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La
nói riêng không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người

17


chết làm lễ chia của (bỏ mả), không có giỗ chạp hàng năm, trong tang ma có lễ
gọi hồn, dẫn hồn về mường trời.
Cũng như nhiều dân tộc khác, họ cũng có quan niệm về hồn, vía mà họ
gọi là Khuôn (Hồn). Bất kể cái gì được sinh ra và tồn tại trên trái đất đều có
hồn. Từ những núi non, cây cối, hòn đá đến các động vật nhỏ nhất, như con
kiến, con mọt đến những động vật to nhất như voi cũng có hồn, vía. Còn con
người thì quan niệm ở mỗi tộc người có thể khác nhau, nhưng nhìn chung tộc
người nào cũng có hồn và ít nhất mỗi con người cũng có từ ba hồn trở lên. Ví
dụ: Người Việt có ba hồn bảy vía hoặc bảy hồn chín vía. Người Mường tuy
không nói rõ bao nhiêu hồn vía, nhưng lễ cầu thọ hay còn gọi là vía mạnh
(Voái Sẳn) phải đi kiếm chín loại gai, múc nước ở chín vực suối, khe. để đặt
lên bàn cúng hồn, vía. Bày mâm cúng cũng phải lót chín lượt lá chuối. Người
Thái thì hoàn toàn khác và có thể là một tộc người có quan niệm nhiều hồn,
vía nhất: "Xam xíp khuôn mang nả, hả xíp khuôn mang lăng" (Ba mươi
hồn phía trước, năm mươi hồn phía sau). Như vậy, người Thái có tới 80 hồn.
Có một số vùng quan niệm một con người có tới 110 hồn “Hốc síp khuôn
mang nả, hả síp khuôn mang lăng” (Sáu mươi hồn phía trước, năm mươi

hồn phía sau). Mỗi bộ phận ở trên cơ thể con người đều có hồn riêng: hồn đầu,
hồn tai, hồn mắt, hồn lưỡi, răng, cổ, chân, tay, gan, phổi v.v...Tất cả các hồn
đó gộp lại thành hồn chung - “Hồn người”. Hồn Người còn gọi là Hồn
Chủhay Hồn Mình (Khuôn Chảu). Nếu đau mắt thì họ cho là hồn mắt bị xúc
phạm mà bỏ đi, hoặc ma nào đó dụ đi nên làm cho mắt bị đau.. .Tất cả các bộ
phận trên cơ thể con người mà bị đau thì có nghĩa là hồn đó bị xúc phạm hay
bị ma ám, ma dụ đi nên mới đau. Mỗi khi bị đau mà làm thuốc không khỏi thì
họ đi xem bói để tìm ma. Tìm được ma rồi họ mới tổ chức lễ cúng (Xên) để
xin và gọi hồn về.
Đối với một con người họ cho hồn, vía là quan trọng bậc nhất. Một con
người mà không có hồn thì người đó không thể sống và tồn tại được. Bởi hồn
là nhựa sống và là chỗ dựa tinh thần của thân xác. Giữa hồn và thân xác không
thể tách rời nhau được. Cho nên việc cầu hồn cúng vía là việc làm hết sức

18


quan trọng và cần thiết đối với họ. Ngày nay quan niệm này đã nhạt đi song họ
vẫn tin rằng linh hồn luôn tồn tại .
Đặc điểm ở người Thái Tây Bắc là không có Thần, Thánh mà chỉ gọi
chung là Ma (Phi): Ma cây đa (Phi Co Bả), ma núi, ma rừng (Phi Pu, Phi Pá),
ma sông, suối v.v.Và hồn cũng là một loại ma - Ma hồn (Phi Khuôn), vì hồn
cũng như các loại ma khác mắt thường không nhìn thấy được. Thờ cúng tổ tiên
là một phong tục thể hiện tình cảm và đạo lý truyền thống của người Việt Nam
nó I chung và người Thái Tây Bắc nói riêng. Đó là lòng thành kính biết ơn của
con cháu đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ đã khuất. Đây là một tín ngưỡng phổ
biến và nổi bật của các tộc người Việt Nam. Tục thờ cúng tổ tiên được thể hiện
qua các nghi lễ cụ thể ở từng tộc người. Đối với người Thái Tây Bắc, họ có nơi
thờ cúng tổ tiên cho toàn tông tộc, dòng họ hay gia đình. Đó có thể là một hòn
đá thiêng, một gốc cây, hay một khu rừng cấm...(ma họ) được thờ ở nơi thờ

dòng họ. Những gia đình trong một họ thờ và cúng họ mình (Xên Đẳm) vào
một dịp nào đó trong năm, cũng như kiêng không ăn thịt một con vật tổ nào
đó. Họ Quàng (Hoàng) không ăn thịt hổ, họ Lò không ăn thịt chim Tăng Lo,
họ Hà thờ chim bìm bịp ...Những người sống chung trong một gia đình thờ ma
nhà (Phi Hươn). Người trưởng gia có quyền thay mặt gia đình cúng ông bà, tổ
tiên, làm chủ lễ “Xên Hươn”. Trưởng gia nắm vận mệnh của gia đình.
Người Thái quan niệm tổ tiên của họ ở trên trời được các Then cai quản
thông qua hồn chúa đất. Hồn sống trên trời vài trăm năm và rồi chết lần thứ hai
trở thành Phi quay lại mặt đất thành kiến, sâu, bọ; sâu bọ chết đi biến thành thứ
rêu chuyên mọc những chỗ ẩm ướt...Với riêng nhánh người Thái đen lại quan
niệm, chết có thiêu xác mới lên được trời. Đây chính là nguồn gốc tục hỏa táng
của người Thái đen.
Người Thái thờ ma ngay cạnh Hóng - cạnh nơi ngủ của gia trưởng và cả
gia đình. Cứ mười ngày một lần làm lễ Pạt Tông - lễ cúng ma nhà (phải có cá
và rau làm đồ cúng). Ma nhà luôn bên cạnh gia đình và chăm sóc đến đời sống
gia đình. Với tổ tiên ở trên trời hay ở bãi tha ma, không ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống gia đình bằng ở Hóng nên các ma trên chỉ được mời về chứng

19


giám vui chơi trong các dịp gia đình có “đại sự” như cưới xin, ma chay, lên
nhà mới...Cơm cúng trong các dịp trên thường là cơm lam, thịt chim, thịt ếch,
cá đĩa rau hay đĩa măng.
Đối với người Thái, chết chưa phải là hết, thể xác và linh hồn vẫn còn
hằng lui tới với gia đình. Người Thái quan niệm, thế giới người sống ra sao thì
thế giới cõi chết cũng vậy. Do đó, người chết cũng cần phải có vốn liếng để
bắt đầu cuộc sống mới. Do vậy, trong nghi lễ tang ma của người Thái mới có
tục chia của cho người chết.
Ngày mất của bậc bề trên nhất trong họ sẽ được chọn để làm ngày giỗ

chung cho cả dòng họ, Đối với người Thái, thờ cúng tổ tiên thông qua các dịp
làm Hóng (Dệt Hóng). Nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Thái không thực
hiện vào ngày giỗ như của người Việt. Trong những ngày này mọi người phải
giữ yên lặng, không được làm nói to, không được bật loa, đài to. Phận dâu
hoặc con gái đã đi lấy chồng thì không được làm cơm cúng, kiêng đi lại gần
chỗ thờ cúng.
Nghi lễ làm Hóng thường được tổ chức mỗi năm một lần. Trong ngày
làm Hóng, con cháu bao giờ cũng về tề tựu đông đủ để làm lễ cúng ông bà tổ
tiên. Sau lễ cúng, gia chủ sẽ mời bà con con dân bản tham dự bữa cơm thân
mật để hưởng những lễ vật được sử dụng trong lễ cúng. Tục thờ cúng tổ tiên
được phản ánh trong các truyện kể dân gian của người Thái chưa phản ánh
trực tiếp đến nghi lễ thờ cúng mà mới chỉ đề cập đến các hình thức thờ cúng
của người dân. Thờ cúng tổ tiên là cách thể hiện lòng thành kính đối với ông
bà, cha mẹ và những người đã khuất, cũng là biểu hiện của đạo lý “uống nước
nhớ nguồn” của đồng bào Thái.
Đối với những gia đình duy tâm hoặc có người hay ốm đau thì họ
thường làm thêm một ban thờ nhỏ ngoài nhà để thờ cúng ma đói ma khát, ma
lang thang. Vào những ngày mùng một, ngày rằm, hay khi trong nhà có người
ốm đau họ thường thắp hương, bày hoa quả, bánh kẹo để cúng các ma với hi
vọng những hồn ma sẽ không quấy rầy gia đình, phù hộ cho gia đình được
mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi.

20


Tiểu kết Chương I:
Người Thái đen cư trú đại đa số ở vùng Tây Bắc, vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa với hai mùa rõ rệt, mùa đông khô hạn, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều.
Đặc điểm khi hậu và đất đai rừng núi đã định hình nên những phương thức sản
xuất truyền thống: Lúa ruộng, lúa nương, săn bắn, hái lượm. Trong đời sống

văn hóa, người Thái đen giữ được nhiều nét văn hoá truyền thống: ngôn ngữ,
chữ viết, trang phục, nghệ thuật, phong tục tập quán...Người Thái quan niệm
rằng vạn vật hữu linh, đối với người Thái, chết chưa phải là hết, thể xác và
linh hồn vẫn còn tồn tại. Họ cho rằng, thế giới người sống ra sao thì thế giới
của người chết cũng vậy mọi vật đều có linh hồn và có thần linh cai quản cho
nên mỗi khi gặp khó khăn họ thường làm lễ để cúng khấn kêu gọi các vị thần
linh giúp đỡ. Chính vì vậy cuộc sống của người Thái đều gắn liền với những
nghi thức cúng bái, cầu xin thần linh cho con người khoẻ mạnh, mùa màng bội
thu, vật nuôi sinh sôi đầy đàn không bị dịch bệnh.
Huyện Thuận Châu thuộc địa bàn vùng núi cao miền Tây Bắc, nơi
người Thái đen chiếm số dân đông nhất. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên rất
đa dạng, những đặc điểm tự nhiên này đã tạo nên những dấu ấn đậm nét trong
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân ở đây, nhất là dân tộc Thái
đen. Do sống cùng người Kinh và một số dân tộc khác cho nên ít nhiều họ
cũng bị ảnh hưởng về một số chiều cạnh kinh tế, văn hóa, cùng với yếu tố môi
trường, khí hậu người Thái đen nơi đây luôn dâng lên các vị thần linh, tổ tiên
dòng họ và tất cả những người có công khai phá ra bản mường những lễ vật là
thành quả lao động của họ như: lúa, gạo, trâu, lợn, gà, rau, quả...để tỏ lòng
thành biết ơn, lòng kính trọng, tin tưởng vào sức mạnh và sự phù trợ của đấng
thần linh luôn che chở cho con người thoát khỏi mọi sự đe doạ của bệnh tật,
đói rét, thiên tai khắc nghiệt và cầu cho mùa màng bội thu.

21


CHƯƠNG II :
HÀNH TRÌNH TANG MA CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN HUYỆN THUẬN
CHÂU, TỈNH SƠN LA
Con người sinh ra, lớn lên, già và chết (sinh, lão, bệnh, tử) trong đó chết
và mai táng là một thủ tục quan trọng, phải thực hiện nhiều công đoạn nhất

trong các phong tục của người Thái...Hoả táng là tục lệ đã có từ ngàn xưa của
người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Sau khi một người qua đời
thì công tác chuẩn bị cho đám tang là bước đầu tiên, tiếp theo là các nghi lễ,
cuối cùng là an táng. Nghi lễ tang ma và các tập tục liên quan đến tang ma của
người Thái đen ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La là một trong những nét văn
hoá của dân tộc, phản ánh quan niệm về tôn giáo tín ngưỡng, tập quán địa
phương và mối quan hệ giữa con người với con người. Em sẽ miêu tả đám
tang theo trình tự thời gian từ khi mất cho tới khi dựng xong nhà mồ cho người
mất và lễ mời người vong hồn mất về nhập vào gia tiên.
2.1.Tổ chức đám tang
2.1.1. Khâu chuẩn bị

Khi trong nhà có người hấp hối sắp tắt thở, người nhà phải gọi trưởng
tộc đến chủ trì, chọn một nhóm dâu, rể đến túc trực, anh em họ hàng đến tập
trung nghe xem người chuẩn bị chết có thể căn dặn được con cháu điều gì
không và theo dõi xem nhịp thở của người sắp mất thế nào.
Sau khi tắt thở, người thân vuốt mắt và đỡ cằm thi hài để khỏi mắt mở,
miệng há... khu vực người chết nằm được quây lại bằng một tấm ri đô bằng
vải.
Người chết được tắm rửa bằng nước thơm và thay quần áo. Nước thơm
dùng để tắm cho người chết thường được đun lên với một ít hoa - lá thơm có
trong gia đình như: hoa bưởi, củ sả, lá hương nhu...Người Thái cho rằng dùng
nước tắm có mùi thơm dịu sẽ có tác dụng khử các mùi hôi tanh cho cơ thể

22


người chết, như thế khi về "Mường Trời" sẽ được sạch sẽ, thơm tho. Việc tắm
rửa cho người chết phải được thực hiện trước khi liệm, do đó nước tắm cần
được chuẩn bị nhanh chóng trước khi thi thể bị lạnh cứng. Nước tắm đun cho

đến khi có thể nhúng tay thấy ấm là được. Người ta thả hoa vào nước, cầm
nhành hoa nhúng nước, vảy trên đầu, lên mặt và khắp thân thể người vừa mất.
Sau đấy lấy khăn mới hay xé vuông vải trắng làm khăn, nhúng nước ấm, lau
rửa mặt mũi, mình mẩy, chân tay thật sạch sẽ. Rồi lấy lược, thường là lược
bằng sừng trâu chải tóc, nếu người có búi tóc thì búi lại cho thật gọn đẹp.
Người cầm hoa vừa vảy nước và vừa nói “Người đã bỏ đời, đã lìa sống, hãy
tắm nước hoa biến thành người lành, chải đầu thành người hay người mới lên
với tổ tiên”.
Sau khi được gội đầu, chải, búi tóc và thay quần áo, người mất được
mặc đồ cẩn thận. Đối với nhà nghèo, đồ thay là những bộ quần áo hàng ngày
còn tốt, đối với gia đình giàu có thì đồ thay là đồ mới, với những người cao
tuổi hoặc chết do bệnh tật lâu ngày thì đồ thay là đồ mới đã được chuẩn bị từ
trước.
Việc tắm rửa, thay đồ cho đến khâm liệm chỉ những người ruột thịt cùng với
họ hàng thân cận mới được làm còn các bậc dâu, rể và người ngoài không
được tham gia. Thông thường người bố mất việc tắm rửa là con trai, hoặc em
trai, cháu trai còn mẹ mất thì việc tắm rửa sẽ là con gái, em gái, cháu gái..
.Người vừa mất được đặt xuống đệm mới, thay trang phục mới (xửa luổng),
dùng thắt lưng bằng tơ lụa để thắt (Xải Cỏm), không được dùng thắt lưng bằng
các chất liệu khác. Chiếc áo dài mặc ngoài phải là màu đen, những áo dài màu
khác đều mặc lồng bên trong. Đặt hai bàn tay người chết úp lên bụng. Chẻ lạt
nhỏ tròn, vót nhọn đầu mà khâu liền các mép vải liệm quanh thi hài với nhau,

tiếp theo lấy vuông vải trắng và vuông vải Khuýt (Thổ Cẩm) chập vào nhau
phủ lên mặt người mất. Trường hợp chồng chết thì vợ lấy khăn Piêu mới gấp
tư gối đầu, nếu có thì cả khăn piêu của con dâu. Trường hợp người vợ chết thì
lấy khăn Piêu của con dâu hoặc cháu dâu tặng, nếu không có thì lấy Piêu của
người chết gối đầu (ngoài chiếc đội đầu). Người ta cho một số đồng bạc trắng

23



vào miệng, vào tay và khâu vào cổ áo cho người chết. Nếu gia đình có điều
kiện có thể khâu lên mảnh vải căng trên cây nêu (Co Cao) cho người chết hoa
tai và vòng tay bằng bạc, làm như vậy để khi lên trời họ sẽ có chút tiền để tiêu.
Lược dùng để chải đầu khi tắm rửa được chặt đôi ra, một nửa đặt vào gối, cạnh
đầu thi hài, một nửa để vợ hay chồng giữ lại cho đến khi chết thì cho vào liệm
theo như thế, vợ hay chồng cắt ít tóc cho vào cùng nửa chiếc lược. Sau khi đã
thao tác xong các việc trên, người chết được đắp chăn mới, không trùm đầu,
chỉ đắp từ cổ xuống. Tiếp theo, lấy chiếc màn của vợ chồng đang dùng (nếu
góa bụa hay chưa vợ chưa chồng lấy màn bản thân đang nằm) chập hai quai
lại, căng theo dọc dưới xà để trùm kín thi hài. Khi khâm liệm (Cộn Pang) phải
có hai mảnh thổ cẩm lót dọc hai bên sườn của người mất, quần áo buộc dọc
thân. Việc khâm liệm được thực hiện dưới một chiếc xà nhà nếu là đàn ông
trong gia đình thì thi hài được đặt dưới xà nhà gian tiếp giáp với gian để bàn
thờ, phụ nữ và con trẻ ở những gian tiếp theo. Người ta khâm liệm cho người
chết dưới xà ngang giữa hai cột cái trong nhà, (gọi là cột Xau Hẹ). Theo quan
niệm của người Thái đen, ma nhà trú ngụ trên xà ngang đó, khâm liệm ở đây
để ma nhà biết mà đi. Trường hợp chồng đã mất, vợ trở thành chủ gia đình thì
cũng được khâm liệm tại chỗ dưới xà bên gian thờ gia tiên như ông chủ. Nếu
trường hợp con cái chết, ai nằm gian nào thì được khâm liệm dưới xà gian đó.
Trên mái nhà đối diện với nơi đặt người chết, người ta thường dỡ một viên
ngói hoặc lấy ngọn giáo chọc thủng, dựng một cành tre nối ra chỗ thủng đó.
Dưới gầm sàn nơi liệm người chết, người ta dùng đinh đóng xuống. Làm như
vậy, người Thái đen cho rằng họ đã mở cửa đất, cửa trời báo với trời gia đình
có người thân qua đời và mở cửa cho người chết về với tổ tiên.
Chuẩn bị y phục tang lễ
Sau khi thực hiện nghi thức Tức xong, cần có ngay là y phục tang lễ cho
những người ruột thịt mặc và khăn tang cho những người họ hàng đội. Quần áo
tang lễ Xuổng Xửa Tộc dành cho vợ hay chồng cùng các con của người chết

và đội khăn tang Khăn lón, con gái, con dâu, cháu trai, cháu gái, chị dâu, em

24


dâu, chị gái, em gái... và những người trong dòng họ dự tang lễ đều đội khăn
tang Khăn Lón, riêng Lung Ta đội khăn Khuýt.
Trong đám tang của người Thái đen, họ hàng gần xa với tang chủ chia
làm hai loại. Một loại được mang khăn tang Bả hua đón và một loại không
mang khăn tang Bả hua đăm những người mang khăn tang Bả hua đón cũng
chia làm hai loại (Nhinh Sao) anh em bên nội đeo khăn tang trắng, (Lung Ta)
anh em bên ngoại đeo khăn tang đỏ.
Khươi Cốc mặc áo dài đen, quần trắng, vấn khăn dài đen và vuông vải
trắng gấp dài, phủ qua đỉnh đầu, cài hai đầu vào vành khăn đen, đeo túi trắng dây vắt qua ngực, dùng ba chiếc dây lưng màu: một dây thắt trong, hai dây thắt
đai ngoài, đeo thanh kiếm ngang lưng. Vợ của Khươi Cốc gọi là Nàng Khươi
Cốc: mặc bộ váy áo dài đen, đội lồng hai khăn - khăn trắng trong, khăn piêu
đen ngoài, dùng một dây lưng màu. Cả Khươi Cốc và Nàng Khươi Cốc đều ăn
vận những thứ của tang chủ giao khi Mai Khươi Cốc.
-

Chuẩn bị một quan tài tạm (còn gọi là choong )
Việc làm Choong khá đơn giản, gia đình tang chủ chuẩn bị sẵn gỗ, tre

cho những người đến Khửn Lông làm. Khác với các dân tộc khác, quan tài của
người Thái đen có tục hỏa táng chỉ đóng sơ sài bằng các tấm ván mỏng ghép
vào nhau, có nơi chỉ đan bằng tre với hình thức thô sơ, tạm bợ bởi vì khi thực
hiện việc hỏa táng, người ta thường đốt theo thi hài.
2.1.2. Các nghi thức trong đám tang

Nghi thức Tức và Phăn Hóng (báo với trời và hàng xóm nhà có

người mất)
Sau khi khâm liệm xong, người thân gào khóc gọi hồn một hồi rồi tất cả
trở lại không khí im lặng để bình tĩnh chuẩn bị mọi công việc. Người Thái đen
quan niệm rằng khóc lúc này người chết sẽ vương vấn phần hồn và không ra đi
thanh thản được... Sau khi đã tiến hành xong xuôi những công việc trên thì tiếp
đến công việc chuẩn bị nghi lễ Tức

25


×