Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Nhà ở truyền thống của các cộng đồng người nam đảo ở việt nam những biến đổi và hướng bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.89 MB, 147 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ HẠNH

NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG
NGƢỜI NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM: NHỮNG BIẾN ĐỔI
VÀ HƢỚNG BẢO TỒN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ HẠNH

NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG
NGƢỜI NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM: NHỮNG BIẾN ĐỔI
VÀ HƢỚNG BẢO TỒN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 60310601

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Mai Ngọc Chừ


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân tôi. Những kết quả trong luận văn là kết quả lao động của
bản thân dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Mai Ngọc Chừ. Nội dung
trong bản luận văn này có sự tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin
được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang website theo danh mục
tài liệu tham khảo của luận văn.
Hà Nội, ngày 5 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS
Mai Ngọc Chừ là giáo viên hướng dẫn của tôi. Với lòng nhiệt tình và phương
pháp hướng dẫn đề tài hiệu quả, thầy đã hướng dẫn cho tôi hướng tiếp cận,
phương pháp nghiên cứu, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài đúng kế
hoạch.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô làm thủ thư tại Thư
viện Đại học Quốc Gia Hà Nội đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong quá tình tìm
kiếm tài liệu nghiên cứu.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là quý thầy cô Khoa Đông
Phương học đã hết lòng tạo điều kiện học tập, truyền đạt kiến thức và kỹ năng
cho tôi trong những năm học tập tại trường.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tất cả bạn bè, người thân, những người đã
luôn bên cạnh và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, để tôi có thể

hoàn thành khóa học thạc sĩ và luận văn này.
Mặc dù luận văn đã được hoàn thành với tất cả sự nỗ lực của bản thân
nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự cảm
thông và chỉ bảo từ quý thầy cô và độc giả.
Hà Nội, ngày 19 tháng 09 năm 2015
Học viên thực hiện
Đỗ Thị Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ............................................................ 6
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................... 7
7. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 8
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC TỘC NGƢỜI NAM ĐẢO Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................. 9
1.1. Nguồn gốc tộc người và sự phân bố dân cư ........................................... 9
1.1.1. Nguồn gốc tộc người ......................................................................... 9
1.1.2. Sự phân bố dân cư .......................................................................... 12
1.2. Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam 15
1.2.1Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 .............................. 15
1.2.2. Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 tới nay ................................. 25
1.3 Tiểu kết .................................................................................................. 30
Chƣơng 2. NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC TỘC NGƢỜI NAM
ĐẢO Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA CHÚNG .................. 32
2.1. Đại cương về các ngôi nhà ở truyền thống .......................................... 32

2.1.1. Nhà ở truyền thống của người Êđê ................................................. 32
2.1.2. Nhà ở truyền thống của người Chăm ............................................. 38
2.1.3. Nhà ở truyền thống của người Raglai ........................................... 40
2.1.4. Nhà ở truyền thống của người Jarai ............................................. 43
2.1.5. Nhà ở truyền thống của người Churu ............................................. 47


2.2. Những biến đổi của nhà ở truyền thống của các tộc người Nam Đảo ở
Việt Nam. ..................................................................................................... 49
2.2.1. Biến đổi về loại hình nhà ở ............................................................ 50
2.2.2. Những biến đổi về yếu tố vật chất và kết cấu kỹ thuật ................... 55
2.2.3. Những biến đổi về khuôn viên của ngôi nhà sàn truyền thống ...... 73
2.2.4. Biến đổi về vị thế của ngôi nhà sàn truyền thống trong văn hóa các
tộc người Nam Đảo. .................................................................................. 80
2.3. Tiểu kết ................................................................................................. 85
Chƣơng 3. NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỔI VÀ HƢỚNG BẢO TỒN ......... 87
3.1. Nguyên nhân của những biến đổi ........................................................... 87
3.1.1. Nguyên nhân từ sự thay đổi của điều kiện tự nhiên ...................... 87
3.1.2. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng tách hộ ....... 89
3.1.3. Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa với các tộc người khác trong khu
vực ............................................................................................................. 93
3.1.4. Tác động của các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước ............................................................................. 93
3.1.5. Sự xâm nhập và phát triển của đạo Tin lành trong xã hội các tộc
người Nam Đảo......................................................................................... 96
3.2. Phương hướng bảo tồn .......................................................................... 97
3.2.1. Hướng bảo tồn cho khu vực nhà ở truyền thống còn nguyên vẹn ...... 99
3.2.2. Hướng bảo tồn cho khu vực nhà truyền thống đang bị biến đổi . 101
3.2.3. Hướng bảo tồn cho khu vực nhà truyền thống đã bị biến đổi hoàn
toàn.......................................................................................................... 103

3.3. Tiểu kết ............................................................................................... 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 112
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH ............................................................................... 119


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Đặc điểm cấu trúc nhà dài truyền thống của người Êđê .................... 32
Bảng 2.2: Bảng so sánh ngôi nhà dài truyền thống giữa những tầng lớp cư dân
Êđê ................................................................................................................... 37
Bảng 3.1: Thống kê số lượng bếp theo từng loại hình nhà ở của người Êđê...... 79
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Ngôi nhà sàn dài truyền thống của tộc người Êđê tại Bảo tàng dân tộc
học Hà Nội ...................................................................................................... 33
Hình 2. Nhà sàn truyền thống của người Chăm ở ấp Châu Giang ................. 39
Hình 3. Ngôi nhà sàn truyền thống của người Raglai tại huyện Khánh Sơn,
Khánh Hòa....................................................................................................... 41
Hình 4. Nhà của người Jarai tại Làng văn hóa - du lịch các dân tộc Việt Nam
......................................................................................................................... 45
Hình 5. Nhà sàn của người Churu hiện nay .................................................... 48
Hình 6: Những ngôi nhà sàn ngắn ngày nay của người Jarai ......................... 51
Hình 7: Tại một số buôn, thanh niên Êđê không còn thiết tha với việc làm nhà
sàn dài truyền thống ........................................................................................ 52
Hình 8: Kiểu nhà hiện đại của người Chăm ở ấp Phũm Soài ......................... 54
Hình 9. Nhà mái lá dần được thay thế bằng nhà mái ngói và mái tôn ............ 56
Hình 10: Người Churu được làm thêm một lớp gỗ ngăn cách với mái nhà để
chống nóng ...................................................................................................... 57
Hình 11: Mái nhà sàn truyền thống được buộc hoàn toàn bằng các loại dây
rừng ................................................................................................................. 58
Hình 12: Sự cố kết giữa bộ mái và khung nhà cũng hoàn toàn bằng dây rừng

......................................................................................................................... 59
Hình 13. Cột gỗ và cột bê tông được sử dụng để làm cột chống sàn ............. 60
Hình 14. Cột trụ không được đặt âm dưới đất mà đặt trên móng bê tông ...... 61


Hình 15 : Cách liên kết truyền thống giữa cột trụ gỗ với các cột gỗ ngang ... 62
Hình 16: Cột chiêng, cột trống trong nhà dài của người Êđê tại Bảo tàng dân
tộc học Hà Nội................................................................................................. 64
Hình 18: Gầm nhà sàn Churu biến mất, được xây bít tạo thành một tầng nhà
để sinh hoạt...................................................................................................... 66
Hình 19. Gầm sàn nhà người Chăm biến mất và được xây bịt kín để tạo thành
một tầng nhà để sinh hoạt................................................................................ 67
Hình 20. Vách nhà được làm bằng tôn ........................................................... 68
Hình 21. Gầm sàn nhà Jarai bị bịt kín và vách nhà làm bằng các tấm gỗ đóng
lại ..................................................................................................................... 69
Hình 22.Vách nhà của người Churu................................................................ 70
Hình 23. Cầu thang của người Churu ............................................................. 71
Hình 24. Cầu thang bằng gỗ đã được thay bằng cầu thang bê tông và kim loại
......................................................................................................................... 71
Hình 25. Bộ công cụ nghề mộc của người Kinh ............................................ 73
Hình 26. Khuôn viên các ngôi nhà có hàng rào ngăn cách ............................. 74
Hình 27: Các giantrong nhàngười Êđê không còn được phân chia rõ ràng như
trước kia........................................................................................................... 76
Hình 28: Bếp của người Raglai hiện nay ........................................................ 77
Hình 29: Bản vẽ cấu trúc mặt trái nhà ở người Chăm, An Giang ................ 119
Hình 30: Bản vẽ cấu trúc mặt phải nhà ở người Chăm, An Giang ............... 119
Hình 31: Bản vẽ cấu trúc bên trong ngôi nh à ở người Chăm, An ............... 120
Hình 32: Nhà ở người Chăm tỉnh An Giang ................................................. 120
Hình 33: Bản vẽ cấu trúc mặt phải nhà ở người Chăm, An Giang ............... 121
Hình 34: Bản vẽ cấu trúc mặt trái nhà ở người Chăm, An Giang ................ 121

Hình 35: Bản vẽ cấu trúc bên trong ngôi nhà ở người Chăm, An Giang ..... 122
Hình 36: Bản vẽ kết cấu tổng thể ngôi nhà người Chăm, An Giang ............ 122
Hình 37: Nhà ở người Chăm, An Giang ....................................................... 123


Hình 38: Bản vẽ kết cấu khung nhà ở người Chăm, Ninh Thuận................. 124
Hình 39: Bản vẽ kết cấu vách nhà ở người Chăm, Ninh Thuận ................... 125
Hình 40: Bản vẽ kết cấu mặt trước ngôi nhà ở người Chăm, Ninh Thuận ... 125
Hình 40: Hàng rào hiên cửa nhà ở người Chăm, Ninh Thuận ...................... 126
Hình 41: Vách và mái nhà người Chăm, Ninh Thuận .................................. 126
Hình 42: Kết cấu mái chống nóng nhà ở người Chăm, Ninh Thuận ............ 127
Hình 43: Bản vẽ kết cấu tổng thể nhà ở truyền thống người Êđê ................. 127
Hình 44: Bản vẽ mặt trước nhà người Êđê ................................................... 128
Hình 45: Bản vẽ kết cấu mặt dọc và mặt ngang nhà người Êđê ................... 128
Hình 46: Bản vẽ cấu trúc bên trong ngôi nhà ở người Êđê........................... 129
Hình 47: Cầu thang trước cửa nhà người Êđê............................................... 130
Hình 48: Kết cấu bên trong nhà người Êđê................................................... 131
Hình 49: Bản vẽ tổng thể nhà ở người Churu ............................................... 131
Hình 50: Kết cấu vách và máí nhà người Churu........................................... 132
Hình 51: Kết cấu vì kèo mái nhà ở người Churu .......................................... 132
Hình 52: Cấu trúc bên trong ngôi nhà ở người Churu .................................. 133
Hình 53: Nhà ở người Churu ........................................................................ 134
Hình 54: Kết cấu mái nhà người Churu ........................................................ 134
Hình 55: Bản vẽ kết cấu tổng thể nhà ở người Jarai ..................................... 135
Hình 56: Bản vẽ mặt trục đứng nhà ở người Jarai ........................................ 135
Hình 57: Cửa chính nhà người Jarai ............................................................. 136
Hình 58: Cầu thang sau nhà của người Jarai................................................. 136
Hình 59: Mặt trục đứng phía sau ngôi nhà ở người Raglai .......................... 137
Hình 59: Trục đứng trước nhà ở người Raglai.............................................. 137
Hình 60: Nhà ở người Raglai ........................................................................ 138

Hình 61: Cầu thang giữa của nhà người Raglai ............................................ 138


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo ngôn ngữ - văn hóa, các tộc người ở Việt Nam được xếp thành 8
nhóm khác nhau, trong đó có 5 tộc người thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo là
Chăm, Giarai, Êđê, Raglai và Churu. Những tộc người này thuộc loại hình
nhân chủng Indonesien, có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo Polynesien trong họ ngôn ngữ Nam Đảo, nên thường được gọi là cộng đồng
người Nam Đảo.
Hiện nay dân số của 5 tộc người này có trên 600 nghìn người, chiếm tỉ
lệ gần 1% dân số chung của Việt Nam và trên 0,23% tổng dân số các tộc
người Nam Đảo ở Đông Nam Á [53, tr.7]. Các tộc người Nam Đảo thường
sinh sống chủ yếu trên địa bàn rừng núi Nam Trường Sơn - Tây Nguyên và
đồng bằng ven biển Trung Bộ.
Trong số những yếu tố thuộc văn hóa vật chất của các tộc người Nam
Đảo, ngôi nhà luôn là một trong những đề tài nghiên cứu hấp dẫn, bởi vì các
kết quả nghiên cứu về ngôi nhà không chỉ cho thấy giá trị vật thể của nó, mà
còn góp phần làm sáng tỏ một số phong tục, tập quán, nghi lễ của các tộc
người Nam Đảo có liên quan và diễn ra trong ngôi nhà của họ.
Các nghiên cứu cho thấy, nhà ở truyền thống của các tộc người Nam
dảo chủ yếu là nhà sàn gỗ, nhưng theo thời gian trở lại đây ngôi nhà sàn
truyền thống đã bị biến đổi thành những ngôi nhà nửa sàn nửa trệt, hoặc nhà
trệt. Không chỉ bị biến đổi về chất liệu, kiểu dáng, vị thế của các ngôi nhà
truyền thống trong văn hóa của các tộc người Nam Đảo cũng đang dần bị biến
đổi. Vậy đâu là nguyên nhân của những sự biến đổi này? Đây là một vấn đề
khoa học thú vị, cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Từ những lý do trên, cùng với mong muốn được góp phần tìm hiểu sâu
hơn về ngôi nhà ở truyền thống và những biến đổi của chúng, đồng thời tìm ra


1


những nét đặc sắc riêng trong văn hóa sinh hoạt của các tộc người Nam Đảo,
chúng tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Nhà ở truyền thống của các cộng
đồng người Nam Đảo ở Việt Nam: Những biến đổi và hướng bảo tồn”. Chúng
tôi tin rằng, đề tài nghiên cứu này không chỉ bổ sung thêm những hiểu biết về
văn hóa của các tộc người Nam Đảo ở nước ta, mà còn cung cấp thêm những
tư liệu để nhận diện rõ các giá trị văn hóa nhà ở truyền thống của các tộc
người Nam Đảo trước những biến đổi nhanh chóng của môi trường sinh thái
và môi trường xã hội trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu về các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam
Các nhà nghiên cứu phương Tây chú ý đến các cộng đồng tộc người
thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Đông Nam Á chủ yếu từ khi các đế
quốc phương Tây tiến hành xâm lược, đô hộ các quốc gia Đông Nam Á, trong
đó có Việt Nam. Những nghiên cứu của các nhà khoa học phương Tây thường
tập trung vào 3 lĩnh vực chính:
- Nguồn gốc của các tộc người Nam Đảo. Những công trình thuộc lĩnh
vực này có thể kể đến là Urheimal und Frahesle Wanderungen (Quê hương
ban đầu và cuộc thiên di sớm nhất của người Nam Đảo) của R. Heine
Geldern, Reflections on the new data of Southeast Asian Prehistory:
Austronesian origin and consequence (Suy nghĩ về những tư liệu mới của tiền
sử Đông Nam Á: Nguồn gốc và kết quả Nam Á) của W.G. Solheim II, …
- Ngôn ngữ của các tộc người Nam Đảo. Những công trình thuộc loại
này thường được công bố dưới hình thức các bài báo, chẳng hạn, ProtoMalaya – Polynesian reflexes in Rade, Jarai and Chru, trong “Studies in
Linguistics”, Vol. XVII, 1963 của Thomas M.D., Southeast Asian areal
features in Austronesian strata of Chamic languages, trong “Oceanic


2


Linguistics”, Vol. 13, No 1-2, 1974 của Lee E.W., Phonological units in
Cham (Các đơn vị âm vị học trong tiếng Chăm) trong “Anthropological
Linguistics” của Blood D.L., …
- Văn hóa – xã hội của các tộc người Nam Đảo. Có thể kể đến những
công trình như La Culture J’rai (Văn hóa Jarai), 1972 của Jacques Dournes,
Les Rhades: Une societe de droit maternel (Người Êđê: Một xã hội mẫu
quyền) của Anne De Hautecloque -Howe, …
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về các tộc người Nam Đảo được bắt đầu
từ góc độ của Dân tộc học và Nhân học. Có thể kể đến một số công trình tiêu
biểu như Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam đa tộc người của Đặng
Nghiêm Vạn (NXB ĐHQG TP HCM, 2009), Tộc người và văn hóa tộc người
của Ngô Văn Lệ (NXB ĐHQG TP HCM, 2004), Các dân tộc ở Đông Nam Á
(Nguyễn Duy Thiệu cb, NXB Văn hóa dân tộc, 1997), Các dân tộc ít người ở
Việt Nam (Các tỉnh phía Nam) (NXB KHXH, 1984), Dân tộc học đại cương
của Lê Sĩ Giáo, Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng (NXB Giáo
dục, 1997), v.v. Nhìn chung, trong những công trình nêu trên, nhóm tộc người
thuộc ngữ hệ Nam Đảo mới chỉ được đề cập đến một cách đại cương, sơ lược,
mang tính chất giới thiệu là chính.
Trong số những công trình giới thiệu đại cương về các tộc người Nam
Đảo ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là Lịch sử phát triển xã hội các tộc người Mã
Lai – Đa Đảo ở Việt Nam của Nguyễn Tuấn Triết (NXB KHXH, 2000).
2.2 Tình hình nghiên cứu về nhà ở của các tộc người Nam Đảo ở Việt
Nam
Trước đây việc giới thiệu về nhà ở của các tộc người Nam Đảo ở Việt
Nam được thực hiện rải rác trong một số cuốn sách giới thiệu chung về các
tộc người như Hỏi đáp về 54 dân tộc Việt Nam của Đặng Việt Thủy (NXB
Quân đội nhân dân, 2009), Tây Nguyên: Vùng đất và Con người của Đinh


3


Văn Thiên, Nguyễn Trung Minh (NXB Quân đội nhân dân, 2010), Các dân
tộc ít người ở Việt Nam – Các tỉnh phía Nam (NXB KHXH, 1984), … Có rất
ít công trình bàn riêng về nhà ở của nhóm tộc người Nam Đảo. Giới thiệu
tương đối đầy đủ và tổng quan về nhà ở của nhóm tộc người Nam Đảo ở Việt
Nam là công trình của Chu Quang Trứ: Kiến trúc dân gian truyền thống Việt
Nam (NXB Mỹ Thuật, 2003). Tuy nhiên trong tác phẩm này, tác giả chủ yếu
giới thiệu rất vắn tắt về nhà rông Jarai, nhà dài Êđê và nhà sàn Chăm. Hơn
nữa đây là tác phẩm giới thiệu toàn bộ kiến trúc dân gian truyền thống Việt
Nam cho nên số trang viết về nhà ở của các tộc gười Nam Đảo không nhiều.
Đi sâu vào nhà ở của từng tộc người, có 3 công trình về nhà ở của
người Chăm, đó là Nhà người Chăm của Nguyễn Văn Luận (Văn hóa tập san,
1975), Nhà người Chăm của Lê Huy Đại (NXB Thế Giới, 2005) và Nhà ở của
người Chăm Ninh Thuận: Truyền thống và biến đổi do Lê Huy Đại làm chủ
biên (NXB KHXH, 2011). Đây là những công trình khảo sát nhà ở của người
Chăm, nhất là Chăm Ninh Thuận, một cách khá toàn diện.
Hai công trình khảo cứu chuyên sâu về văn hóa cư trú của người Êđê
được thực hiện vào năm 1942 đều bởi hai nhà khoa học phương Tây, đó là
L’habitation Rhadé, les rites et les techniques của Maurice A. (B.I.I.E.H, vol
5, fasc 1) và L’habitation Rhadé của Ner M. (C.E.F.E.O, supplément 2). Với
các tộc người Churu, Raglai, Jarai chưa có những công trình nghiên cứu
chuyên sâu được xuất bản về nhà ở truyền thống của họ.
Ngoài những cuốn sách và các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí
khoa học, gần đây đã có một số khóa luận, luận văn, luận án đề cập đến nhà ở
truyền thống của từng tộc người Nam Đảo ở Việt Nam chẳng hạn: Nguyễn
Thị Thu Hà (2014), Kĩ thuật dựng nhà và cấu trúc ngôi nhà ở truyền thống
của người Churu ở huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, Khóa luận tốt nghiệp

Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia

4


Hà Nội) [16]. Đinh Thị Minh Nguyệt (2014), Những biến đổi của ngôi nhà ở
truyền thống của người Jarai và phương hướng bảo tồn (Khảo sát tại huyện
Phú Thiện, tỉnh Gia Lai), Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) [33]. Trương Thị
Bảo Ngọc (2014), Kĩ thuật dựng nhà và cấu trúc ngôi nhà ở truyền thống của
người Jarai ở huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai, Khóa luận tốt nghiệp Đại học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)
[32]. Phan Thu Hà (2014), Những biến đổi của ngôi nhà ở truyền thống của
người Churu và phương hướng bảo tồn (Khảo sát tại huyện Đức Trọng, tỉnh
Lâm Đồng), Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) [17]. Hạ Thị Xuân Khoa (2014), Kĩ
thuật dựng nhà và cấu trúc ngôi nhà truyền thống của người Chăm ở An
Giang, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) [25]. Cao Thị Minh Châu (2014),
Những biến đổi của ngôi nhà ở truyền thống của người Chăm và phương
hướng bảo tồn (Khảo sát tại An Giang), Khóa luận tốt nghiệp Đại học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)
[5]. Hoàng Ánh Vân (2014), Những biến đổi của ngôi nhà ở truyền thống của
người Raglai và phương hướng bảo tồn (Khảo sát tại huyện Khánh Sơn, tỉnh
Khánh Hòa), Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) [59]. Tăng Việt Hương (2013), Văn
hóa cư trú của người Êđê ở Tây Nguyên: Trường hợp nhà dài, Luận văn Thạc
sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM [22]. Nguyễn Thị
Nga (2012),Văn hóa cư trú của người Chăm ở Đồng bằng sông Cửu Long,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM

[31]. Đỗ Thị Xuân Hiếu (2010), Nhà Rông trong đời sống văn hóa của người
Giarai ở Gia Lai, Kon Tum, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn TP.HCM [21].

5


Như vậy là, cho đến nay, tuy đã có một số công trình nghiên cứu về nhà ở
truyền thống của một vài tộc người Nam Đảo nhưng chưa có một công trình nào
khảo sát đầy đủ, toàn diện và hệ thống về nhà ở truyền thống của nhóm tộc
người Nam Đảo ở Việt Nam. Đấy là lí do để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Người viết tập trung nghiên cứu về ngôi nhà ở truyền thống của 5 tộc
người: Churu, Êđê, Jarai, Raglai, Chăm; nghiên cứu những ngôi nhà ở truyền
thống đang bị biến đổi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn hướng vào nhà ở truyền thống của đồng bào 5 tộc người Nam
Đảo đang sinh ở vùng Tây Nguyên, An Giang, Ninh Thuận, Khánh Hòa.
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những nét khái quát, đặc trưng về nhà ở truyền thống của
cộng đồng các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam.
- Tìm hiểu thực trạng biến đổi và những biến đổi của nhà ở truyền
thống của cộng đồng các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam
- Tìm ra nguyên nhân của những biến đổi và bước đầu đưa ra hướng
bảo tồn cho những ngôi nhà ở truyền thống.
4.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, mục đích của luận văn là nhằm tìm ra nguyên nhân biến
đổi và xu hướng biến đổi của các ngôi nhà ở truyền thống của các tộc người

Nam Đảo ở nước ta, từ đó bước đầu đưa ra các hướng bảo tồn, nhằm gìn giữ
những nét đẹp văn hóa truyền thống của tộc người.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích- tổng hợp tư liệu: Vận dụng phương pháp này
để thu thập, xử lý các nguồn tư liệu cổ và tư liệu thu thập được qua sách báo

6


và các đề tài nghiên cứu, người viết tổng hợp, đối chiếu, phân tích số liệu qua
các nguồn tư liệu tiếp cận được, các chỉ thị, nghị quyết và báo cáo định kỳ
trên các địa bàn nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp thống kê - so sánh: Chúng tôi đã sử dụng phương pháp
thống kê để thống kê thành hệ thống các bảng biểu về số lượng bếp, đặc điểm
cấu trúc nhà ở truyền thống nhằm so sánh làm sáng tỏ những khía cạnh biến
đổi của ngôi nhà ở truyền thống hiện nay.
Phương pháp miêu tả: Người nghiên cứu đã sử dụng triệt để phương pháp
miêu tả để phác họa về các đặc điểm của ngôi nhà ở truyền thống của cộng đồng
các tộc người Nam Đảo ở nước ta hiện nay và những biến đổi của chúng.
Phương pháp lịch sử: Người nghiên cứu tìm hiểu về nhà ở truyền thống
và những biến đổi của nhà ở truyền thống của các cộng đồng người Nam Đảo
ở nước ta dưới góc độ lịch đại và đồng đại qua các tư liệu cổ và đặc biệt tài
liệu sử học có liên quan tới các tộc người Nam Đảo.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Tổng hợp các kiến thức từ các
ngành khác nhau liên quan đến vấn đề nghiền cứu. Phương pháp này đã cho
người nghiên cứu một cái nhìn tổng quát, đa dạng về vấn đề nghiên cứu trên
nhiều khía cạnh khác nhau, giúp người nghiên cứu đưa ra được những nhận
xét, đánh giá khách quan, đồng thời không bỏ sót các thành tố văn hóa tác
động tới đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm
phong phú thêm tư liệu cho khoa học nghiên cứu văn hóa dân tộc. Việc
nghiên cứu về nhà ở truyền thống và những biến đổi của chúng sẽ góp phần
làm rõ thêm tiến trình phát triển văn hóa của các cộng đồng người Nam Đảo
ở nước ta, cũng như các truyền thống văn hóa của họ đã được hình thành
trong quá trình sinh sống và phát triển lâu dài.

7


Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần nhận diện vị thế văn hóa của nhà
ở truyền thống của các cộng đồng người Nam Đảo đối với công cuộc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nghiên cứu những biến đổi và xu hướng
biến đổi của nhà ở truyền thống là nghiên cứu về công cuộc đổi mới đời sống
văn hóa, từ đó góp phần đưa ra các cơ sở khoa học cho những nhận định,
chính sách trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
trong thời đại mới.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu 3 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam
Chƣơng 2: Nhà truyền thống của tộc người Nam Đảo ở Việt Nam và
những biến đổi của chúng
Chƣơng 3: Nguyên nhân biến đổi và hướng bảo tồn cho những ngôi
nhà truyền thống của các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam

8


Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ CÁC TỘC NGƢỜI NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM
1.1. Nguồn gốc tộc ngƣời và sự phân bố dân cƣ
1.1.1. Nguồn gốc tộc người
Những nghiên cứu gần đây cho thấy địa bàn cư trú của các tộc người
Nam Đảo trên thế giới hầu như nằm gọn trong khu vực Đông Nam Á. Dân số
của cộng đồng này chiếm tỉ lệ 55,5% dân số chung của toàn khu vực. Trong
số đó, có 5 tộc người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (Chăm, Raglai, Churu,
Giarai, Êđê); dân số của 5 tộc người này chiếm tỉ lệ 7,3% tổng dân số các tộc
người thiểu số của cả nước; địa bàn cư trú lâu đời của 5 tộc người này là vùng
đất thuộc Nam Trường Sơn - Tây Nguyên và dải đồng bằng hẹp ven biển
miền Trung [53, tr.7].
Việc tìm hiểu nguồn gốc của các tộc người Nam Đảo là một vấn đề
khoa học lớn, đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Việc
giải quyết vấn đề nguồn gốc xuất phát của người Nam Đảo ở Việt Nam còn
nhiều ý kiến khác nhau. Dựa trên những ý tưởng khoa học kết hợp với nhiều
kết quả nghiên cứu gần đây của các ngành khoa học về Khảo cổ, Dân tộc,
Nhân Chủng…một số nhà khoa học Việt Nam đã hướng suy nghĩ về cội
nguồn lịch sử của những người Nam Đảo ở Việt Nam, là một trong những hệ
quả từ quá trình thiên di của lớp người Deutero - Mã Lai thời đồ đá. Trong
quá trình thiên di ấy, một bộ phận của lớp người này đã tiếp cận và dừng chân
trên vùng đất thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Bộ phận này tụ cư thành
nhiều nhóm trên khắp địa bàn miền Trung và Nam của Trung Bộ. Chính
những người này và con cháu của họ đã sáng tạo ra phức hệ văn hóa Bàu
Trám - Sa Huỳnh được các nhà Khảo cổ học xếp vào thời sơ sử. Hai nhà khảo
cổ học, Giáo sư Trần Quốc Vượng và Giáo sư Hà Văn Tấn đã có những nhận
định rất thuyết phục về mối quan hệ giữa các tộc người Nam Đảo với với văn

9



hóa Sa Huỳnh: “Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh là tổ tiên trực tiếp của những cư
dân đã xây dựng các quốc gia Chăm Pa” [45, tr.49 ]; “Văn hóa Chăm Pa nảy
sinh từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm cổ là con cháu của người Sa Huỳnh
cổ” [61, tr.109].
Bên cạnh vấn đề về nguồn gốc xuất phát của các tộc người Nam Đảo ở
Việt Nam nói chung, là vấn đề nguồn gốc hình thành từng tộc người nói riêng
trong nhóm tộc người này cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Có
một số ý kiến cho rằng các tộc người Giarai, Êđê, Raglai, Churu ra đời sau tộc
người Chăm, trên cơ sở một bộ phận của tộc người Chăm tách ra mà hình
thành…Trong lịch sử có một bộ phận người Chăm vì không chịu đựng nổi sự
thống trị của Hindu nên đã từ bỏ nước Lâm Ấp mà thiên di lên vùng Trường
Sơn, chinh phục và hòa huyết với cư dân bản địa rồi hình thành nên người
Giarai và người Êđê, khai phá cao nguyên Đắk Lắk - Pleiku…Gần đây trong
cuốn sách “Các dân tộc ít người ở Việt Nam, các tỉnh phía Nam” của Viện
dân tộc học có nhận định rằng “Những nhóm cư trú kế cận người Chăm giáp
với đồng bằng như Churu, Raglai mang nhiều yếu tố sâu sắc của văn hóa
Chăm, gợi mối nghi ngờ: họ là một bộ phận của người Chăm mới tách ra và
chuyển lên miền núi” [60, tr.59]
Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã bước đầu tìm hiểu được nguồn
gốc của tộc người Nam Đảo ở Việt Nam như sau:
Vào thời đại Đá Mới, trên địa bàn thuộc miền Trung và miền Nam
Trung Bộ của Việt Nam ngày nay đã có lớp người Deuterco - Malais sinh
sống. Lớp người này phân chia thành nhiều nhóm, dừng chân trên từng địa
bàn riêng, có những đặc thù về địa lý sinh thái. Đời sống của mỗi nhóm như
vậy phải thích nghi và chịu tác động của những yếu tố địa lý - sinh thái - nhân
văn đặc thù, dần dần làm biến đổi và tạo ra những khác biệt nhất định so với
ban đầu trong các yếu tố văn hóa, ngôn ngữ… Đó là một quá trình lịch sử lâu

10



dài. Trong đó sự tự thân vận động của mỗi nhóm trong không gian sinh tồn
của měnh không tránh khỏi những tác động nhất định từ các ngữ hệ ở nhiều
vùng trên thế giới đến.
Con đường phân ly của lớp người Deutero - Malais ở niềm Nam Đông
Dương đã diễn ra như vậy để định hình những nhóm người có nét riêng trong
văn hóa và hình thành tâm lí tộc người riêng. Có thể khi bước vào thời đại
kim khí, thì người Malayo - Polyesien ở miền nam Đông Dương đã hình
thành năm nhóm người.
Một nhóm dừng chân trên cao nguyên Gia Lai - Kom Tum, sinh tụ trên
vùng đất có nhiều dòng sông chảy qua và có nhiều thác nước. Nhóm này định
hình nên một tộc người, tự nhận mình là người Giarai. Trong ngôn ngữ Nam
Đảo, từ “giơ rai” có nghĩa là “thác nước”.
Một nhóm dừng chân trên cao nguyên Đắk Lắk màu mỡ, sinh tụ trên
một vùng đất có nhiều suối và rừng tre. Nhóm này định hình nên một tộc
người, tự nhận mình là “Orang Êđê”. Trong ngôn ngữ Nam Đảo thì từ
“orang” nghĩa là “người”, “êđê” có nghĩa là “tre”.
Một nhóm dừng chân trên vùng thung lũng Đran tương đối bằng phẳng
thuộc cao nguyên Lang Bian, gần nơi cư trú của tộc người Cơ Ho (thuộc ngữ
hệ Môn- Khmer). Nhóm này định hình nên một tộc người, tự nhận mình là
người Cru (Chu ru). Trong ngôn ngữ Nam Đảo, từ “Cru” có nghĩa là “chiếm
đất mới”.
Một nhóm dừng chân ở vùng rừng rậm, núi non hiểm trở thuộc rìa đông
của Nam Trường Sơn- Tây Nguyên. Nhóm này định hình nên một tộc người,
tự nhận mình là Orang Glai. Trong ngôn ngữ Nam Đảo, “Glai” có nghĩa là
“rừng rậm”. Tên Orang Glai còn ám chỉ sự phân biệt với người ở biển “Orang
La Út” (trong ngôn ngữ Nam Đảo, “Laut” có nghĩa là “biển”.

11



Một nhóm dừng chân ngay trên vùng đồng bằng hẹp ven biển Đông,
nơi có nhiều thuận lợi về mặt địa lý - sinh thái cho sản xuất nông nghiệp và
giao lưu quốc tế hơn so với bốn nhóm kể trên. Ngoài ra, nhóm này còn được
trực tiếp thừa kế những thành tựu của văn hóa Sa Huỳnh ngay trên địa bàn đã
từng là cái nôi của nền văn hóa đó. Với nhiều lợi thế như vậy, nhóm người
này sớm tạo ra một nền văn hóa phong phú và rực rỡ cùng một nền kinh tế -xã
hội phát triển cao hơn so với bốn nhóm kia, định hình nên một tộc người,
nhận tộc danh là Chăm (tên gọi khác là Chàm) [53, tr 22].
1.1.2. Sự phân bố dân cư
Sự phát triển nội tại cùng với những chi phối của những biến động lịch
sử trong khu vực đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phân bố các tộc người Nam
Đảo ở Việt Nam.
Người Giarai có ý thức rõ ràng về lãnh thổ tộc người của mình. Ban
đầu người Giarai phân bố cư trú ở lưu vực đông Ia Yun và sông Ba, trên cao
nguyên Pleiku. Từ đó người Giarai mở rộng địa bàn cư trú của mình lên phía
bắc và xuống phía tây. Cuối cùng của quá trình mở rộng địa bàn cư trú là sự
sinh sống xen kẽ giữa tộc người Giarai với các tộc người khác như Bana, Xu
đăng…và hình thành những nhóm địa phương của tộc người này. Ngày nay
người ta biết đến 6 nhóm địa phương của người Giarai cư trú trên lãnh thổ
Việt Nam (tập trung trên vùng Giarai - Kom Tum): Giarai Chor, Giarai
Hdrung, Giarai Arap, Giarai Mthur, và Giarai Tbuan. Ngày nay dân số của tộc
người Giarai có trên 260 nghìn người, đứng đầu trong số 5 tộc người Nam
Đảo ở Việt Nam và đứng hàng thứ 9 trong số 53 tộc người thiểu số trên toàn
quốc, trong đó có 90% cư trú ở tình Gia Lai (1997).
Người Êđê lúc đầu sinh tụ trên vùng đất trung tâm cao nguyên Đắk
Lắk. Từ đó tộc người này mở rộng địa bàn cư trú của mình tới các vùng như:
Krông Pach, Krong Buc, Ea Ka, M’Đắc, Chu MGar, Krong Năng, Krong

12



Ana…và một số miền đất giáp ranh Đắc Lắc - Phú Yên - Khánh Hòa…. Quá
trình phân bố cư trú trên một địa bàn rộng của người Êđê đồng thời là quá
trình tộc người này cư trú xen kẽ, tiếp xúc với nhiều tộc người khác như
M’nông, Xơ đăng, Giarai…và phân ly thành nhiều nhóm địa phương như:
Kpa, Krung, Mthur, Atham, Ktul, Dlie, Kah, Kdung…. Ngày nay dân số của
người Êđê là trên 220 nghìn người, đứng hàng thứ hai trong số 5 tộc người
Nam Đảo ở Việt Nam và đứng hàng thứ 10 trong 54 tộc người thiểu số trên
toàn quốc, trong đó tập trung đông nhất ở tỉnh Đắk Lắk (91%), kế đó là tỉnh
Phú Yên (gần 6%).
Người Chăm là tộc người được kế thừa trực tiếp những thành tựu của
văn hóa Sa Huỳnh ngay trên lãnh thổ mà người Sa Huỳnh đã từng sinh sống.
Xa xưa, người Chăm cư trú trên dải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung,
thuộc địa phận các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Quảng
Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuần ngày nay. Điều kiện địa lý, sinh thái vùng cư trú và bối cảnh lịch
sử đã chi phối mạnh đến sự phát triển nội tại của tộc người Chăm, trong đó có
quá trình thu hẹp dần lãnh thổ tộc người về phía Nam. Đồng thời với quá trình
thu hẹp lãnh thổ xuống phía nam, một nhóm người Chăm đã di cư đến những
miền đất khác, dần dần tạo thành những nhóm địa phương của tộc người này,
tiêu biểu là nhóm Chăm Islam ở đồng bằng Sông Cửu Long, ở Thành Phố Hồ
Chí Minh và nhóm Chăm Hroi ở Phú Yên - Bình Định hiện nay. Dân số của
người Chăm ngày nay là 110 nghìn người, đứng thứ ba trong 5 tộc người
Nam Đảo ở nước ta và đứng thứ 15 trong 54 tộc người thiểu số trên toàn
quốc, trong đó tập trung ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận (64%), kế đến là
ở tỉnh Phú Yên (13%), tỉnh An Giang (12%).
Người Raglai, ban đầu định cư tại vùng núi rừng hiểm trở rìa đông của
Nam Trường Sơn - Tây Nguyên và phía bắc của dãy Hà La Thượng - É Qué


13


thuộc địa phận miền Tây của tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Về sau một bộ phận
người Raglai đã vượt qua dãy Hà La Thương – É qué, băng qua sông Cái,
sông Dinh và tiến xuống phía Tây Nam (tỉnh Ninh Thuận ngày nay). Qua quá
trình di cư lâu dài, khiến cho nội bộ tộc người Raglai phân ly thành nhiều
nhóm với những sắc thái địa phương nhất định, điển hình là nhóm Raglai bắc
và nhóm Raglai nam. Ngày nay dân số của Raglai có khoảng 80 nghìn người,
đứng hàng thứ tư trong 5 tộc người Nam Đảo ở Việt Nam và đứng hàng thứ
19 trong 54 tộc người thiểu số trên toàn quốc, trong đó tập trung đông nhất ở
tỉnh Ninh Thuận (53,5%), kế đến là tỉnh Khánh Hòa (35%).
Người Churu lúc đầu định cư ở thung lũng Đran (tương ứng với vùng
Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng ngày nay). Sau đó, người Churu tỏa rộng địa bàn
cư trú của mình ra các vùng kế cận như địa bàn Đức Trọng, Di Linh của tỉnh
Lâm Đồng và sang thung lũng É Lâm thuộc miền núi phía tây tỉnh Ninh
Thuận. Người Churu có dân số ít nhất trong 5 tộc người Nam Đảo ở Việt
Nam (khoảng 11 nghìn người) và đứng hàng thứ 34 trong 54 tộc người thiểu
số trên toàn quốc, cư trú chủ yếu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng [53, tr 28-32]
Như vậy là địa bàn cư trú của các tộc người Nam Đảo ở Việt Nàm là kế
cận nhau: Người Chăm ở dải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung, người
Giarai ở cao nguyên Pleiku, người Êđê ở cao nguyên Đắk Lắk, người Churu ở
cao nguyên Lang Bian, người Raglai ở rìa đông của Nam Trường Sơn - Tây
Nguyên. Tuy định cư kế cận nhau nhưng các vùng cư trú ban đầu của các tộc
người lại có những nét đặc thù về vị trí địa lý và môi trường tự nhiên. Chính
những nét đặc thù ấy đã là điều kiện rất quan trọng quy định sự tồn tại và phát
triển của các tộc người.
Ngày nay phần lớn các tộc người Nam Đảo vẫn cư trú trên các khu vực
thuộc địa bàn Tây Nguyên và Nam Bộ, nhưng sự phân bổ cư trú đã có nhiều
nét khác xưa, phản ánh hệ quả từ quá trình xáo động dân cư trải qua nhiều

biến cố lịch sử.

14


1.2. Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các tộc ngƣời Nam Đảo ở Việt Nam
1.2.1Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trước cách mạng tháng Tám, xu thế phát triển của các tộc người Nam
Đảo ở Việt Nam đã bước đầu tiếp cận với xu hướng vận động chung của xã
hội nước ta, nhưng còn khá rõ nét hình dáng của xã hội cổ truyền với những
biến thái nhất định bởi tác động của chính sách phong kiến Việt Nam và thực
dân Pháp trong lịch sử, đồng thời cũng còn nhiều chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế -xã hội giữa các tộc người.
Tộc ngƣời Chăm, sau quá trình phân ly đã quy tụ vào 3 khu vực chính:
đồng bằng ven biển cực Nam Trung Bộ; đồng bằng Nam Bộ ven biên giới
Việt Nam - Campuchia; miền thượng du Nam Trung bộ.
Khu vực đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ là nơi cư trú lâu đời của
tộc người Chăm, có tỉ lệ dân số cao nhất trong ba khu vực, vẫn duy trì sinh
hoạt kinh tế cổ truyền của tộc người là trồng lúa nước. Nhiều nghề truyền
thống cũng đã bị mai một như nghề dệt và nghề gốm chỉ còn được lưu lại tại
vài điểm dân cư.
Những người Chăm ở khu vực này vẫn còn lưu lại phần lớn các tập
quán sinh hoạt tín ngưỡng và hai tôn giáo đã có từ lâu đời là Balamon và
Islam. Những người Chăm theo Balamon sùng bái, cầu nguyện và tin tưởng
vào việc thờ cúng những vị thần linh của mình như Po Inu Nugar, Po Klong
Garai, Po Rome gắn với những tín ngưỡng dân gian và lễ nghi nông nghiệp.
Việc thờ cúng và lễ hội thường được tiến hành ở các lăng, tháp do một ban tế
lễ phụ trách, gồm các chức danh: Paseh Kadhar, PaJajau, Chamnay. Những
người theo Islam Bani sùng bái, cầu nguyện và tin tưởng vào thánh Allah và
giáo chủ Mohamet, thực hành những tín điều được hướng dẫn trong kinh

thánh Koran và các sách Hadith, Sunna….Tầng lớp tu sĩ của Islam Bani được
gọi là “Po Achar”, được tổ chức chặt chẽ theo từng thánh đường thuộc từng

15


đơn vị cư trú và được phân thành 4 cấp, từ thấp đến cao là: Achar, Khotip,
Imum, Po Gru. Ban lãnh đạo của thánh đường Islam Bani được bầu ra từ tầng
lớp tu sĩ và làm việc theo nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ là 3,4 hoặc 5 năm), gồm
các chức vị: Mungdinh, Tiptan, Mumtan. Bên cạnh những sinh hoạt tôn giáo
theo cộng đồng Plei, người Chăm ở đây còn thực hiện các lễ cúng theo dòng
họ hoặc tại tư gia, như lễ Rija mà chủ trì những lễ này là Muk Rija…
Khu vực đồng bằng gần biên giới Việt Nam - Campuchia là vùng mà
người Chăm đến định cư từ giữa thế kỷ XIX, có tỉ lệ dân số ít nhất trong ba
khu vực, đã xa rời các hoạt động sản xuất nông nghiệp cổ truyền (trồng lúa
nước) để làm quen với các hoạt động đánh bắt cá trên sông và buôn bán.
Người Chăm ở đây tuy rời xa nhiều hoạt động sản xuất thủ công truyền
thống, nhưng vẫn bảo lưu và phát triển ở mức độ nhất định nghề dệt cổ truyền
và đưa sản phẩm dệt ra thị trường bán. Họ tụ cư thành những Plei ven sông,
mỗi Plei bao gồm nhiều Puk. Sự tụ cư như vậy ít theo dòng họ mà chủ yếu
theo tôn giáo.
Nhóm người Chăm ở khu vực thượng du Nam Trung Bộ (thuộc địa bàn
miền núi tỉnh Phú Yên và tỉnh Bình Định) là nhóm người Chăm Hroi, sống
xen kẽ với người Bana và người Giarai. Nhóm người Chăm ở khu vực này có
nhiều nét sinh hoạt, văn hóa rất khác với những người Chăm ở hai khu vực
đồng bằng ven biển cực Nam Trung Bộ và đồng bằng ven biển Nam Bộ ven
biên giới Việt Nam - Campuchia. Ở đây người Chăm sinh sống chủ yếu bằng
kinh tế nương rẫy và săn bắn, nghề chăn nuôi gia súc cũng khá phát triển; đời
sống tâm linh bị chi phối mạnh mẽ bởi tín ngưỡng đa thần…Nói chung tộc
người Chăm ở ba khu vực nêu trên có những nét sinh hoạt văn hóa khác biệt

nhưng về cơ bản vẫn thống nhất về ngôn ngữ, về đơn vị cư trú cơ bản và tổ
chức xã hội cơ sở là Plei, về truyền thống mẫu hệ…

16


×