Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số kinh nghiệm trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.69 KB, 26 trang )

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây và đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực,
trong đó đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm của công cuộc đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, báo cáo chính trị của đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ”.
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp
tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận
động lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng
tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc
vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về giáo dục nói chung, trong có bộ môn
Vật lý nói riêng.
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học
sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để tất cả các đối tượng học sinh
này có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học
sinh yếu là vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng
tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Cần
xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra
những biện pháp nhằm dẫn dắt các em thu được kết quả cao nhất, tránh cho các em
bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân
muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng
học sinh yếu.

1


Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được cả xã hội quan tâm và tìm giải pháp


để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì
người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém.
Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải
quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong
cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới
trong việc lĩnh hội kiến thức.
Môn Vật lý trung học phổ thông là một môn học có thể nói là khó học, khó hiểu
với nhiều học sinh nhất là học sinh yừ mức trung bình trở xuống nhưng nó lại có
vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư duy của học sinh trong
học tập, trong đời sống thực tiễn và khoa học kĩ thuật với kiến thức bộ môn. Trong
quá trình giảng dạy bộ môn Vật lý, người thầy không những phải hướng tới mục
tiêu là giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kĩ năng,
kĩ xảo, thái độ và động cơ học tập đúng đắn để cho học sinh có khả năng tiếp cận
và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới, khắc sâu thêm kiến thức cũ đã được
học mà còn giúp học sinh biết đưa kiến thức Vật lý đã học vào đời sống, vào thực
tiễn.
Từ thực tế dạy môn Vật lý ở Trường THPT Đinh Chương Dương– Huyện Hậu
lộc- là trường bán công được thành lập năm 1998 và mới được chuyển sang hệ
công lập từ năm 2010: Tỷ lệ học sinh yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp số
học sinh này chiếm từ 50% dến 70%. Vì vậy, Bản thân tôi và các đồng chí trong
Vật lý cũng như trong trường thường xuyên phải dạy các lớp có rất nhiều học sinh
yếu kém. Kết quả là có rất nhiều học sinh không những không tiến bộ mà còn yếu
hơn, phải tji lại, phải lưu ban và nhiều em phải chịu cảnh rời xa mái trường.Vì thế,
Tôi thiết nghĩ việc tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp giúp đỡ những đối
tượng học sinh này để các em tiến lên mức đạt yêu cầu và có kết quả cao hơn nữa

2



trong học tập nói chung và môn Vật lý nói riêng là việc làm rất cần thiết. Nếu làm
được điều này chúng ta sẽ nâng dần được chất lượng giảng dạy nói chung và bộ
môn Vật lý nói riêng, đồng thời sẽ làm cho các em thích học, thích đến trường, yêu
trường yêu lớp hơn và đặc biệt sẽ giảm được số lượng học sinh bỏ học hơn.
Trong năm qua tôi luôn suy nghĩ tìm các nguyênnhân và các giải pháp khắc
phục, tôi đã vận dụng vào thực tiễn giảng day của bản thân và truyền đạt thảo luận
trong tổ chuyên môn để các đồng chí khác học tập. Trong năm học 2012 – 2013, tôi
được phân công dạy môn Vật lý ở các lớp, 10A1, 12B2, 12B4, đây là hai trong các
lớp có số học sinh yếu kém nhiều nhất khối 12, có nhiều học sinh trong lớp nằm
trong diện lưu ban lại, đa số các học sinh này yếu ở tất cả các môn, trong đó có bộ
môn Vật lý.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học bắt dầu từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến
khi giảng dạy, bản thân tôi luôn nuôi một niềm hy vọng là làm sao đề số học sinh
yếu kém có hứng thú trong học tập, yêu học tập và đặc biệt là thích học môn Vật lý.
Và đây cũng chính là lí do năm nay tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm trong
công tác phụ đạo học sinh yếu kém ” để viết.

3


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung do Bộ GD & ĐT phát
động, trong đó có nội dung “Chống bệnh thành tích trong giáo dục” là một trong
những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta hiện nay nhằm
đánh giá thực chất chất lượng học sinh. Bên cạnh đó cũng phản ánh được chất
lượng và hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Những học sinh lên lớp là những học
sinh có kiến thức thực sự, xứng đáng đựơc lên lớp. Những học sinh không đảm bảo
được yêu cầu sẽ không được lên lớp. Xuất phát từ vấn đề này, chúng ta không thể
hiểu theo hướng là vô tư để học sinh yếu kém “ở lại lớp” mà không có trách nhiệm

của giáo viên trong đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu kém gồm
có chủ quan và khách quan mà nếu giáo viên kịp thời quan tâm, giáo dục sẽ giúp
cho nhiều học sinh yếu kém tiến bộ và thoát khỏi tình trạng yếu kém.
Những học sinh học tập yếu, kém vẫn luôn luôn tồn tại trong giáo dục, tuy
nhiên về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít là tùy ở từng nhà trường và từng
bộ môn. Mức độ tiến bộ của học sinh yếu, kém nhanh hay chậm trong quá trình
được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của riêng mỗi nhà trường,
mỗi nhà quản lý giáo dục và mỗi Thầy Cô giáo. Giúp đỡ học sinh yếu kém được
gắn với cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và
“Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Thực hiện
nghiêm túc cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD-ĐT phát động, cương quyết
ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các lần tổ chức kiểm tra - thi
cử trong toàn ngành.
Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn có mục đích nhằm
giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức cơ bản, trọng tâm đã tìm hiểu một
cách chính xác mà trong giờ học vì một lí do nào đó học sinh chưa nắm bắt được.

4


Khi học sinh đã tiếp thu và vận dụng được kiến thức trong bài học thì sẽ hình thành
được sự hứng thú, say mê với môn học. Từ đó các em sẽ xác định cho mình kế
hoạch học tập, phương pháp tự học, tự nghiên cứu, có tính độc lập cao trong tư duy
nhận thức sẽ thúc đẩy học sinh học tập tiến bộ…
Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải tìm cách để bổ sung
được những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức cơ bản
và trọng tâm trong mỗi bài học có trong sách giáo khoa Vật lý ). Muốn làm tốt
nhiệm vụ này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác và đánh giá được
mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để lên được kế hoạch
phụ đạo, thiết kế nội dụng tiết học phụ đạo sao cho có hiệu quả nhất.

Điều quan trọng ở đây là học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và
hành động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân nhắc kĩ lưỡng những
thông tin nhận được để “ lấp lại lỗ hổng kiến thức” và phải luôn có hành động phản
hồi lại kiến thức một cách chính xác, khoa học nhất.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin được trình bày một số nguyên nhân
khách quan và chủ quan từ phía các Thầy Cô giáo giảng dạy bộ môn làm đã làm
tăng tỉ lệ học sinh yếu kém và một số giải pháp cụ thể đối với bản thân người giáo
viên trực tiếp giảng dạy để giảm bớt tỉ lệ học sinh yếu kém môn Vật lý ở trường
THPT hiện nay.
2. Thực trạng của vấn đề
Qua những năm công tác giảng dạy bộ môn Vật lý ở một trường bán công, bản
thân tôi xin đưa ra và phân tích những thực trạng và những nguyên nhân khách
quan, chủ quan dẫn đến chất lượng học tập của học sinh yếu kém ở Trường THPT
Đinh Chương Dương-Hậu lộc nói riêng và các trường THPT nói chung sau đây:
a. Về phía nhà trường
Trường THPT Đinh Chương Dương được thành lập năm 1998, khi mới thành lập
là một trường bán công của Huyện Hậu lộc, đến năm 2010 trường mới được

5


chuyển sang hệ công lập. Do đó, trong hơn 10 năm đầu trường chỉ được xét tuyển
các học sinh do các trường công lập trong Huyện loại ra nên số học sinh này chỉ
đảm bảo cho nhà trường về mặt số lượng, còn về chất lượng 2 mặt là học lực và
đạo đức thì rất thấp nên số học sinh yếu kém chiếm từ 70-80%. Từ năm 2010 đến
2013 nhà trường được chính thức thi tuyển học sinh nhưng vì lâu nay nhà trường
không có chất lượng học sinh, không tạo được uy tín trong lòng phụ huynh học
sinh nên chất lượng học sinh tuyển vào vẫn còn thấp, khoảng 50-60% là yếu kém.
Bên cạnh đó, Trường đóng trên địa bàn Thị trấn Huyện Hậu lộc, là trung tâm phát
triển kinh tế và cũng là nơi có nhiều trò chơi gải trí, quán xá... nên làm ảnh hưởng

nhiều đến sự tu dưỡng và phấn đấu học tập của học sinh.
b. Về phía học sinh
- Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập,
mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức trong học tập,
không theo kịp các bạn, thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để học tập lớp đang học
(ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học). Khả năng phân tích
tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm
kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của
giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư
duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của
mình. Nhiều học sinh chưa biết đổi đơn vị, chưa biết làm tính, yếu các kỹ năng tính
toán cơ bản, cần thiết.
- Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ
thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả ), học
vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu.
- Học sinh lười học: Đa số các em không có thời gian cho việc tự học, không chịu
chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ

6


đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác
định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên
giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà
không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với
chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của
giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
- Một số học sinh đi học thất thường, đến trường nhưng không vào lớp học, đặc
biệt học sinh vắng nhiều vào các buổi chiều, ham chơi, la cà quán xá.

c. Về phía gia đình học sinh
- Đa số Gia đình học sinh làm nghề nông nghiệp hoặc nghề biển nên gặp nhiều
khó khăn về kinh tế khiến trẻ không chú tâm vào học tập, cũng như Bố mẹ lo làm
lụng suất ngày không có thời gian quan tâm chú ý đến việc học tập của các em; một
số ít phụ huynh trong vùng đi làm ăn xa để con ở nhà một mình hoặc với ông bà già
lâu lâu mới về nên việc quan tâm chú ý đến việc học tập của các em và phối hợp
giáo dục với nhà trường, với Thầy Cô giáo là rất hạn chế. Bên cạnh đó, có một bộ
phận lớn phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học
tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô.. Một số gia đình không hạnh phúc
ảnh hưởng đến học tập của học sinh. Người lớn chưa làm gương về chuyện học.
- Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh
lười học xin nghỉ để làm việc riêng cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình
là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém
dần đi
d. Về phía giáo viên
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần
ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Người ta thường nói “ có Thầy hay thì

7


mới có trò giỏi ”. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi
hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi
thì sẽ giảng dạy tốt mà điều quan trọng nhất ở đây là người giáo viên phải phân loại
và nắm rõ được các nhóm đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để từ đó
biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và
với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn
một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt
là học sinh yếu kém. Chưa chịu khó tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích

thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến
hoàn cảnh gia đình và tâm tư tình cảm cũng như những khúc mắc ưu phiền, những
lo âu... bên trong đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của từng học sinh đưa các
em đến tình trạng yếu kém.
e. Môi trường xã hội:
- Tình hình kinh tế xã hội của địa phương nhìn chung có đi lên nhưng không ổn
định, theo mùa vụ. Thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào các cây trồng nông
nghiệp, các giống vật nuôi, nhiều gia đình phải đi làm ăn xa hoặc có người thân đi
xuất khẩu lao động…điếu này đã gây tâm lí buồn chán, lo lắng cho miếng ăn hoặc
ỷ lại ở học sinh, nhiều khi còn tạo cho học sinh suy nghĩ rằng không cần học cũng
có cuộc sống thoải mái, sung túc.
- Môi trường xung quanh của nhà trường ngày càng phức tạp, ngày càng nhiều
các hàng quánăn uống, các tụ điểm giải trí như: quán Internet, quán Bi a...tạo nên
những cám dỗ lôi cuốn học sinh ăn chơi rồi bỏ học nhiều, tiêu xài tiền bạc dẫn đến
trộm cắp tài sản và đánh nhau, xin đểu...
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
a. Các nguyên nhân từ phía người giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học

8


Qua việc thực tiễn công tác, cũng như qua quá trình điều hành quản lí chuyên
môn của một người tổ trưởng, bản thân tôi xin đưa ra một số nguyên nhân từ phía
người giáo viên giảng dạy bộ môn đã góp phần làm tăng tỉ lệ học sinh yếu kém là:
- Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng cũng có
nhiều giáo viên trong tổ chuyên môn chỉ quen với việc dạy các đối tượng học sinh
Khá giỏi nhưng lại được phân công vào giảng dạy các lớp có tỉ lệ học sinh yếu kém
cao nên phương pháp lên lớp không phù hợp dãn đến chất lượng bộ môn của lớp
ngày càng đi xuống.
- Không thường xuyên đổi mới phương pháp mà vẫn sử dụng chủ yếu là phương

pháp cũ truyền thống, phương pháp giảng giải nêu vấn đề thường là phương pháp
chủ đạo làm cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động nên rất dễ quên
kiến thức nếu không học thuộc lòng, học bài thường xuyên. Nhiều giáo viên còn
đọc cho học sinh chép đã tạo cho các em thói quen không tự rèn luyện được tính
làm việc độc lập, tự nghiên cứu có hiệu quả, thậm chí học sinh không quan tâm
giáo viên giảng bài như thế nào mà khi đọc cho ghi thì mới ghi vào vở, kiến thức
ghi có thể không chính xác do nghe lộn dẫn đến hiểu sai lệch kiến thức, lâu dần sẽ
mất căn bản môn học.
- Còn một số giáo viên chưa nắm chắc những những yêu cầu kiến thức của từng
bài dạy nên nhiều giáo viên còn “tham” kiến thức trong các tiết dạy nên việc dạy
học còn dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện, dạy cả những phần chỉ
dành đọc thêm, đặc biệt với các giáo viên mới ra trường mang tâm lí thể hiện bản
thân, chưa chú trong đến đối tượng học sinh.
- Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng;
có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm
nên khi giáo viên đưa ra câu hỏi thì lập tức học sinh không tự suy nghĩ trả lời mà
lập tức cắm cúi vào sách giáo khoa, vào tài liệu, có khi còn sợ bị gọi trả lời, làm tiết
học trở nên trầm trầm rời rạc. Kết quả là giáo viên thường xuyên bị “ cháy” giáo

9


án, học sinh nắm bài hời hợt trở thành yếu kém làm hiệu quả tiết dạy chưa cao .
- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối
tượng còn hạn chế, việc tổ chức các hoạt động còn mang tính hình thức chưa phù
hợp.
- Môn Vật lý là một môn học thực nghiệm nhưng một lượng lớn giáo viên sử dụng
đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn hạn chế, chưa khai thác
hết tác dụng của đồ dùng dạy học; một số giáo viên thì ngại sử dụng nên đã làm
cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên thụ động, không tạo được hứng thú

và kích thích niềm say mê môn học của học sinh.
- Còn một số giáo viên phân loại học sinh chưa tốt, chưa thực sự chú ý đúng mức
đến đối tượng học sinh yếu, kém nên tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập
còn nhanh khiến cho các em không theo kịp. Một số giáo viên chưa thật sự chịu
khó, tâm quyết với nghề, chưa thật sự “giúp đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Từ đó
các em cam chịu, dần dần chấp nhận với sự yếu kém của chính mình và nhục chí
không tự vươn lên...Đồng thời chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện
sa sút của học sinh..
- Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hoá học sinh yếu kém, không gây
hứng thú cho học sinh thích học môn mình...Chưa xử lý hết các tình huống trong
tiết dạy, chưa động viên tuyên dương kịp thời khi học sinh có một biểu hiện tích
cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất
lượng học tập của học sinh, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.Tinh thần
trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, không đánh giá đúng thực
chất của lớp mình giảng dạy.
b. Phân loại học sinh yếu kém môn Vật lý

10


- Căn cứ 1: Điểm bộ môn năm học qua, tham khảo thêm điểm một số môn học có
liên quan hoặc gần gũi cùng khối như Toán, Hóa.
- Căn cứ 2: Điểm khảo sát chất lượng học sinh đầu năm.
- Căn cứ 3: Những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm hiện tại.
Căn cứ vào những khía cạnh trên, tôi chia học sinh yếu kém môn Vật lý thành
những nhóm sau:
Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có hoặc có khả năng tiếp
thu bài rất thấp.
Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng chậm so với học sinh

bình thường.
Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa có phương pháp học
tập đúng đắn
Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
c. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém
* Các biện pháp chung
- Giáo dục ý thức học tập, hình thành lòng ham thích và say mê môn học cho
học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự
hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh ham học, có ý thức vươn lên
trong học tập, bằng cách:
+ Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh
thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn.
+ GV phải tăng cường sử dụng triệt để các thí bị thí nghiệm, ĐDDH sẵn có và tự
làm trong các bài học, tăng cường cho học sinh làm các thí nghiệm thực hành.
Đồng thời, giáo viên dịnh hướng và giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh (đặc biệt
là nhóm các học sinh yếu kém) tự làm các thí nghiệm đơn giản và các ĐDDH có
trong chương trình học.

11


+ Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia
đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò
chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên
trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo
viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, đa số
các phụ huynh thiếu sự quan tâm đến con cái, bản thân phụ huynh cũng chưa hiểu
được tầm quan trọng của việc học tập. Giáo viên cần phân tích để các bậc phụ
huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy
cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.

- Giáo viên xây dựng một môi trường học tập thân thiện trong từng tiết dạy của
mình: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả
cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những tâm tư tình cảm, những suy nghĩ
trong cuộc sống và đặc biệt là những khó khăn trong học tập của bản thân mình.
+ Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không la
mắng nặng lời hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm
thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
+ Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích
cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những
việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Giáo viên
cần có sự quan tâm, đối với những học sinh có tiến bộ, giáo viên phải nhận ra và
động viên kịp thời, có thể nhận xét trực tiếp vào bài làm hoặc khen ngợi trực tiếp
trước lớp sau mỗi bài kiểm tra.
+ Giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh một cuốn sách hay như: “Bách khoa
toàn thư về những học trò lười”; Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney,
Darwin và Picasso…được thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải

12


ai cũng biết họ từng là những học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách
đến trường nhưng họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người.
Qua những mẩu chuyện này giáo viên muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ
huynh, quí thầy cô, những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng
chứ không đơn thuần chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp.
+ Tuy nhiên không phải trong bất kỳ trường hợp nào giáo viên cũng thân thiện,
mềm dẻo mà đối với một số đối tượng học sinh, ở một số tình huống cụ thể nào đó,
giáo viên cũng cần thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe để đưa các em vào nề nếp,
khuôn khổ. Điều quan trọng là giáo viên phải tác động được vào ý thức của học

sinh, học sinh hiểu rằng sự nghiêm khắc ấy nhằm mục đích giáo dục, vì bản thân
các em, không có sự trù dập hay phân biệt đối xử với học sinh.
- Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh: Trong thực tế người ta nhận thấy
có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về
phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc
tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
Do đó, để các biện pháp và phương pháp đưa ra đạt được hiệu quả thì người
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng
của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả
năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp hơn.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho
đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các
em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích
thực của mình trong tập thể.

13


Ví dụ yêu cầu luyện tập của một tiết là 5 bài tập, các em này có thể dành cho 2-3
bài, còn 2-3 bài mức độ cao hơn dành cho các dối tượng học sinh khá hơn.
Ngoài ra, giáo viên có thể đề nghị với nhà trường tổ chức phụ đạo cho những học
sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ
chức phụ đạo từ 1 đến 3 tiết trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải
được giáo viên chuẩn bị kỹ, làm sao cho học sinh đi học phụ đạo thấy được rằng
việc đi học này có tác dụng, bổ ích, học sinh có khả năng tiếp thu và tiến bộ trong
học tập thì công tác phụ đạo mới thu hút được học sinh và phát huy được tác dụng
của nó.

- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng bài giảng,
từng đơn vị kiến thức cho từng nhóm đối tượng học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học tức là thay đổi từ phương pháp học sinh tiép nhận
kiến thức thụ động từ giáo viên sang phương pháp học sinh tự tìm ra kiến thức.
Điều đó, yêu cầu học sinh phải tự nghiên cứu, tự tìm tòm, tự khám phá theo sự định
hướng, dẫn dắt của giáo viên, tức là học sinh phải hoạt động nhiều hơn. Trước vấn
đề đó, người giáo viên phải thương xuyên tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng
hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp
với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy
chủ động, sáng tạo.
Tuy nhiên đối với học sinh yếu kém, đôi khi trong quá trình triển khai các hoạt
động, tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm, thảo luận lại phản tác dụng .
Ví dụ: Học sinh đã học yếu, khả năng tiếp thu, phân tích, kết luận hạn chế mà khi
được giáo viên phân công vào nhóm có các học sinh khá hơn thì học sinh yếu sẽ
thụ động hẳn đi, không tự tin nêu ra ý kiến của mình, ỷ lại vào các bạn học khá
hơn sẽ đại diện cho nhóm nên học sinh yếu không muốn hoạt động và sẽ càng yếu

14


hơn. Bên cạnh đó việc đổi mới phương pháp này đòi hỏi học sinh phải tự giác, tự
học rất cao, mà đối tượng học sinh yếu kém lại rất hạn chế ở khả năng này.
Vì thế theo ý kiến của cá nhân tôi thì đổi mới phương pháp, đặc biệt là phương
pháp hoật động và thảo luận nhóm thì không phải bài nào cũng áp dụng được mà
chỉ nên vận dụng vào các bài đơn giản dễ hiểu, tiết bài tập. Còn đối với các bài
quan trọng, có tính chất tiền đề cho những bài học sau thì không nên.
- Giao nhiệm vụ về nhà: Đây là một biện pháp rất quan trọng đối với học sinh
yếu kém
+ Trong mỗi tuần tôi thường giao cho các em các một phần kiến thức mà các em
hổng, các em yếu và một lượng bài tập vừa phải về nhà.Tuy nhiên cần chú ý là

phần kiến thức và hệ thống bài tập giao về nhà phải phù hợp với các nhóm học sinh
yếu kém ở trên.
+ Trong các tiết dạy tôi thường hỏi han việc học và giải bài tập về nhà của các
em, một mặt để tỏ thái độ quan tâm, nhắc nhở và để tạo sự cởi mở trong giao tiếp
làm cho các em không ngần ngại.Mặt khác để các em có cơ hội hỏi giáo viên
những chỗ các em bị vướng mắc, chưa hiểu để về nhà giải tiệp
+ Đến cuối tuần tôi kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các em, thu bài lại để
chấm và dành thời gian thích hợp để chỉ cho các em các lỗi sai ( Đây là một yếu tố
để đưa vào đánh giá học sinh yếu kém)
- Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh
Theo tôi, với đối tượng học sinh này thù việc kiểm tra đánh giá các em có vai trò
rất quan trọng trong việc làm cho các em tiến bộ hay yếu hơn nên trong quá trình
dạy các lớp học sinh này khi kiểm tra đánh giá chúng ta cần chú ý:
Đối với kiểm tra:

15


+ Hệ thống câu hỏi phải thật đơn giản, dễ hiểu
+ Nội dung câu hỏi phải sát với các kiến thức cơ bản trọng tâm trong bài học
+ Trong các bài kiểm tra nên kết hợp cả hình thức TNKQ và tự luận, hệ thống
câu hỏi và bài tập đưa ra phải vừa sức với đối tượng này.
+ Phải chấm bài một cách nghiêm túc, tìm ra những chỗ đúng mà các học sinh
này làm được để cho điểm để động viên khích lệ.
+ Lời phê vào bài kiểm tra của những học sinh này rất quan trong nên: phải
khen nhiều chê ít và chỉ rõ cái sai trọng tâm cho học sinh.
+ Khi trả bài phải dành thời gian khen ngợi tuyên dương trước tập thể lớp và
phải sửa cho học sinh này những cái sai cụ thể nhất để các em khắc phục.
Đối với việc đánh giá kết quả học sinh:
Khi đánh giá đối tượng học sinh này, bản thân tôi luôn kết hợp nhiều mặt trong

quá trình học tập của các em như:
+ Qua các con điểm các em đạt được trong các bài kiểm tra miệng, 15 phút, 45
phút và học kỳ.
+ Qua các biểu hiện học tập bộ môn trong cả học kỳ: thái độ, động cơ học tập có
thay đổi không? Nhiệm vụ giao cho về nhà ( bài tập, ghi chép...) hoàn thành như
thế nào? Ý thức học tập trên lớp như: xây dựng bài, hoạt động và làm việc theo
nhóm ...
- Giáo viên bộ môn phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường
+ Bản thân tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên
bộ môn khác để có thêm được nhiều thông tin về học sinh, đồng thời cũng là người
cung cấp các thông tin để giáo viên chủ nhiệm quản lí học sinh chặt chẽ hơn, phát

16


hiện kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh. Từ đó giáo viên chủ nhiệm liên hệ
với phụ huynh, kết hợp giáo dục học sinh kịp thời.
+ Bên cạnh đó tôi thường xin dự giờ các đồng chí trong tổ dạy cùng khối để học
tập và kiểm nghiệm lại phương pháp của mình và qua đó trao đổi để tìm hiểu thêm
về tình hình học tập của các lớp khác nói chung để kịp thời điều chỉnh các biện
pháp, phương pháp của mình cho phù hợp.
+ Tôi cũng thường xuyên trao đổi với tổ trưởng chuyên môn để đề xuất với nhà
trường tổ chức phụ đạo cho học sinh yếu kém ngoài giờ chính khoá nhằm tạo điều
kiện cho các học sinh này theo kịp chương trình học, từ từ nâng dần chất lượng học
tập của học sinh.
* Các giải pháp cụ thể
Ngoài các biện pháp chung ở trên, bản thân tôi còn tiến hành tìm hiểu học sinh
bằng phương pháp chủ yếu là tìm hiểu đánh giá thông qua sản phẩm hoạt động của
học sinh kết hợp với một số phương pháp khác như : trò truyện, kiểm tra bài cũ,

kiểmn tra 15 phút, điều tra …Công cụ đánh giá chính của tôi là tính xác suất học
sinh hiểu bài thông qua quá trình học sinh xây dựng bài học và vận dụng kiến thức
ở chính tiết học đó. Từ đó sàng lọc học sinh thành nhiều cấp độ nhận thức và nắm
bắt được cụ thể các học sinh yếu kém bộ môn này. Sau khi sàng lọc và phân loại
học sinh ( 4 nhóm yếu kém như trên), Tôi dựa trên những biện pháp chung ở trên
để đưa ra các biện pháp cụ thể phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh yếu kém
như sau:
- Đối với nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có hoặc có khả
năng tiếp thu bài rất thấp ( Ta hay nói ngắn gọn là “ Học sinh mất gốc ” ).
Do Trường THPT Đinh Chương Dương– Huyện Hậu lộc- là trường bán công
được thành lập năm 1998 và mới được chuyển sang hệ công lập từ năm 2010: Tỷ lệ

17


học sinh yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp số học sinh này chiếm từ 50% dến
70%. Vì thế mà đối tượng học sinh yếu kém thuộc nhóm 1 chiếm phần đông.
Qua thưc tiễn giảng dạy, tôi thấy học sinh thuộc nhóm này yếu kém ở các
khâu sau đây:
+ Các em thiếu kiến thức cơ bản ở cấp dưới, có tiếp thu được nhưng không hiểu
được nhiều kiến thức bài dạy của Thầy Cô trên lớp và dẫn đến không nắm được
kiến thức cơ bản trọng tâm của các bài học.
+ Các em không nắm được hệ thống đơn vị và không biết đổi đơn vị của các đại
lượng.
+ Các em không hiểu được, không xác định được đề và không tóm tắt được một
bài toán dù đơn giản nhất
+ Các em không giải sử dụng được cũng như không biến đổi được các biểu thưc,
công thức đơn giản nhất.
+ Các em không biết tính toán và cả không biết dùng máy tính để tính toán các
phép tính đơn giản

Một số giải pháp cụ thể sau đây:.
+ Khi triển khai bài mới, xác định rõ kiến thức trọng tâm, kiến thức nền (những
kiến thức cơ bản, có nắm được những kiến thức này mới giải quyết được những câu
hỏi và bài tập) trong tiết dạy cần cung cấp, truyền đạt cho học sinh. Và sau một
phần tôi thường chốt ngắn gọn các kiến thức này vào một góc bảng, sau tiết học tôi
có toàn bộ kiến thức cơ bản trọng tâm này trên góc bảng để củng cố và khắc sau
cho các em, đối với học sinh yếu tôi chỉ yêu cầu nắm được những ý thật cơ bản
này. Đặc biệt, đối với học sinh yếu kém, tôi thường chỉ coi trọng tính vững chắc
của kiến thức và kỹ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao mở rộng kiến thức.
+ Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, tôi đặc biệt chú ý đến các điều sau: Đối với
học sinh yếu chỉ nên yêu cầu các em làm các dạng toán thật cơ bản, tính toán đơn
giản, dựa vào tính chất, các công thức đơn giản nhất, không nên đưa ra các dạng bài

18


phức tạp cần sử dụng các phương pháp giải nhanh, liên quan đến các định luật, các
thuyết vật lý…
Sau đó tôi hưóng dẫn giải mẫu, lúc này nên đặt câu hỏi gợi mở dần để học sinh
xác định được hướng giải và đặc biệt hệ thống câu hỏi phải nhằm vào những yếu
kém của nhóm này ở trên đã trình bày… Đến bài tập tương tự, cho HS một khoảng
thời gian để tự tìm hướng giải, giáo viên đi quan sát, khi thấy học sinh đi lệch
hướng giáo viên phân tích kĩ cho các em thấy sai chỗ nào. Khi hướng dẫn, chú
trọng những “mốc giải chính” của bài thôi như tóm tắt đúng chưa? Áp dụng đúng
công thức chưa? Nếu đúng rồi thì quay sang hưóng dẫn học sinh khác.
+ Sau khi thấy các em cơ bản làm được bài, giáo viên lên bảng yêu cầu học sinh
đứng tại chỗ trình bày, mỗi bước giải là một học sinh đễ tập trung cả nhóm. Trong
quá trình giải, giáo viên nhấn mạnh những chỗ học sinh hay sai lầm, nên tránh.
+ Khi các em đã làm được bài tôi luôn khen ngợi cá nhân và nhóm học sinh này,
đồng thời phải cho điểm cao để khích lệ. Nên chú ý nêu các em có làm sai chúng ta

cũng không nên che bai trước lớp mà phải tìm những cái nhỏ nhất mà học sinh làm
được để khen hoặc khen về mặt tự giác học tập của học sinh.
- Đối với Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng chậm so với
học sinh bình thường.
Qua thưc tiễn giảng dạy, tôi thấy học sinh thuộc nhóm này yếu kém ở các khâu sau
đây:
+ Các em kiến thức cơ bản ở cấp dưới, có tiếp thu được kiến thức bài dạy nhưng
với tốc độ chậm
+ Khả năng xử lí kiến thức, xử lí công thức của các em cũng chậm.
+ Do đó, khả năng xử lí và tốc độ giải bài tập cũng chậm
Một số giải pháp cụ thể sau đây:.

19


+ Giáo viên chia nhỏ nhóm học sinh này ra, các nhóm được chia càng nhỏ càng
tốt, phân công các học sinh khá về học cùng nhóm này để giúp đỡ các học sinh yếu
này. Ban đầu tôi cho học sinh tự chọn nhóm theo mong muốn cá nhân, sau một thời
gian nếu chưa hợp lý thì điều chỉnh. Tôi ghi lại danh sách các nhóm, theo dõi sát
trong quá trình học cũng như sau mỗi bài kiểm tra, nếu nhóm nào tiến bộ tôi tuyên
dương và cộng điểm thưởng nhóm trưởng.
+ Giáo viên chú ý phân tích cho học sinh những kiến thức thường sai, việc phân
tích này thường xuyên thực hiện kết hợp trong các tiết học bài mới cũng như các
tiết luyện tập để giúp các em lấp lỗ hổng, chỗ yếu thường xuyên hơn.
+ Học sinh yếu kém khả năng tiếp thu và nắm bắt kiến thức chậm, nên giáo viên
cần giảm tải quá trình nhận thức của học sinh bằng cách giản lược hóa nội dung bài
học, rút gọn lại dưới dạng trọng tâm, truyền tải súc tích dưới dạng hình ảnh trực
quan, dễ hiểu dễ quan sát. Đối với bài tập, giáo viên cố gắng đưa ra các bước càng
cụ thể, rõ ràng càng tốt, với phương châm: “Điều tôi nghe tôi quên. Điều tôi nhìn
tôi nhớ. Điều tôi làm tôi hiểu”.

- Đối với Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa có phương
pháp học tập đúng đắn
+ Học sinh yếu kém này thường biểu hiện ở chỗ là: Về thái độ học sinh này thể
hiện như là một học sinh hiểu kiến thức, hiểu câu hỏi và giải đuợc bài tập rất
nhanh; Rất hay phát biểu xây dựng bài, hay xung phong giải bài tập những lại hay
sai kiến thức cơ bản; Trong bài kiểm tra thì trình bày sơ sài, thiếu chặt chẽ và sai
nhiều.
+ Nguyên nhân ở đây là do các học sinh này nhận thức chưa đúng về mức độ kiến
thức bộ môn vật lý nên thiếu hiểu sâu về hiện tượng vật lý của các kiến thức, của
các bài toán; dẫn đến về nhà học tập không đúng phương pháp (học qua loa không
chú tâm và không đi sâu vào kiến thức, vào hiện tượng) nên dần dần đi đến yếu
kém như vậy.

20


+ Các giải pháp
Giáo viên tổ chức kèm cặp, phụ đạo thêm cho học sinh. Việc phụ đạo này có thể
thực hiện theo kế hoạch chung của nhà trường hoặc gaío viên tự tổ chức cho học
sinh với thời lượng 2 tuần 1 buổi. Trong các buổi này, tôi chủ yếu kiểm tra việc
lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp, nếu thấy các em chưa chắc, hiểu sai lệch
kiến thức, sai lệch hiện tượng vật lý, tôi tiến hành ôn tập củng cố kiến thức để các
em nắm vững chắc hơn, nói chuyện để tìm hiểu thêm những chổ các em chưa hiểu
hoặc chưa nắm chắc để bổ sung, củng cố. Hướng dẫn phương pháp học tập: học
bài, làm bài, việc tự học ở nhà.
Qua việc giải bài tập, qua các bài tập giao về nhà, tôi tập dần cho các em phân
tích, tính chất, hiện tượng vật lý của kiến thức,của bài tập để giúp các em hình
thành kỹ năng này và từ đó sẽ đưa ra được cách giải bài toán dễ dàng hơn.
Thông qua giáo viên chủ nhiệm thông báo với gia đình học sinh về việc tổ chức
học phụ đạo, phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập, đôn đốc thực

hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà.
- Đối với Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
+ Nguyên nhân:
Do các em không có một chút kiến thức nào về môn học nên có đi học, có đến
lớp cũng không hiểu gì.
Do các em ham muốn một trò chơi nào đó hoặc bạn bè hư hỏng lôi kéo.
Do các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học.
Do gia đình thường xảy ra xung đột, thiếu tình cảm hoặc gia đình, người thân …
thiếu sự quan tâm, nhắc nhở và kiểm tra.
+ Các giải pháp:
Làm thay đổi nhận thực về tầm quan trọng của việc học của các em, thay đổi sự
bi quan chán nản trong tâm của các em khi phải đối mặt với hoàn cảnh gia đinh…
bằng cách: Giáo viên vừa phân tích động viên cho các em sự cấn thiết của việc học,

21


nêu ra các trường hợp thật cụ thể của học sinh các năm trước vì không chú tâm học
nên không thi đậu tốt nghiệp trung học phổ thông, sau khi thi trượt hối hận thì
không kịp. Nêu lên những tấm gương các bạn học sinh vượt lên trên hoàn cảnh để
đạt được kết quả cao trong học tập... ( Muốn làm tốt giải pháp này giáo viên bộ
môn phải kết hợp với GVCn để tìm hiểu vầ gia đình, về con người của các học sinh
này)
Giúp các em tránh xa các trò chơi vô bổ, tránh xa các bạn bè hư hỏng: phân tích
cho các em về sự tác hại của các trò chơi đến tinh thần, đến sức khỏe và đến học
tập của các em. Đồng thời, tôi làm thay đổi nhận thức về bộ môn và tăng lòng yêu
thích học tập bộ môn để cuốn các em quay trở về việc học tập: Tôi hay giao cho
các nhóm học sinh này đi sưu tầm các ĐDDH như: máy biến áp nhỏ cũ, các điện
mảng điện tử cũ, các loại Pin...; Giao cho các em vẽ các ĐDDH hoặc làm các
ĐDDH tự làm...Sau đó thu lại rồi đem ra hội thảo đánh giá trước lớp, có tuyên

dương khen thưởng và cho điểm.
Bên cạnh đó phải tăng cường kiểm tra bài đầu giờ, cuối giờ; kiểm tra việc ghi
chép bài và làm bài tập ở nhà. Chú trọng kiểm tra bài cũ các em yếu kém. Đối với
những học sinh tiến bộ có học bài, làm bài, giáo viên động viên, khuyến khích tinh
thần của các em, khen ngợi các em trước lớp. Giáo viên nghiêm túc phê bình những
em chưa tiến bộ, giáo viên cho học sinh thời hạn, sau thời hạn đó giáo viên cho học
sinh kiểm tra bài để học sinh có thể sữa chữa những con điểm xấu, từ đó tạo tâm lí
cho học sinh cảm thấy có động lực học và thấy bản thân có khả năng học nên sẽ cố
gắng hơn trong thời gian tới.
Ngoài ra, tôi phải kết hợp với các giáo viên bộ môn khác, giáo viên chủ nhiệm,
các bộ lớp để thường xuyên kiểm tra, đôn đóc, nhắc nhở và theo dõi sự tiến bộ của
các em học sinh này để kịp thời động viên kịp thời. Đồng thời phải phối hợp với
gia đình để tăng hiệu quả của các biện pháp giáo dục.

22


4. KIỂM NGHIỆM
Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là trong 2 năm học 2011-2012 và 20122013, tôi đã áp dụng các ý tưởng của đề tài này vào các lớp tôi dạy. Đồng thời đã
đưa ra trao đổi thảo luận và cho các đồng chí giáo viên trong nhóm chuyên môn vật
lý áp dụng, qua một năm thực nghiệm giảng dạy, tôi đã thấy có sự chuyển biến rõ
rệt ở các học sinh yếu kém và thu được kết quả rõ rệt.
Kết quả của cá nhân tôi
Số học sinh yếu kém
Lớp


số

10A1


4
0
4

20112012

Tỉ lệ

2012-2013
Cuối
Cuối
Đầu năm
học kỳ I năm

Tỉ lệ
còn

So sánh

lại

17 em

13em

6 em

15%


Giảm 27,5%

21em

52,5%

21em

13 em

6 em

15%

Giảm 37,5%

12B4 46 19 em

41,3%

19 em

11em

5 em

10,9%

Giảm 30,4%


12B2

0

Kết quả bộ môn Vật lý của nhóm
Môn

Tổng HS

Số học sinh yếu kém
Cuối
Cuối

3 khối

Đầu năm

Vật lý

983em

học kỳ

học kỳ

I

II

328 em = 33,4% 286 em 105 em


So sánh
Tỉ lệ
còn lai
10,7%

Giảm 22,7%

III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
- Tuyển dụng đủ giáo viên để mỗi giáo viên chỉ dạy đúng số tiết theo quy định,
giáo viên có thời gian và công sức tập trung cho công tác phụ đạo học sinh yếu
kém.

23


- Các tổ nhóm chuyên môn cần tổ chức dự giờ của các đồng chí trong nhóm, đặc
biệt là các đồng chí giáo viên trẻ. Từ đó để góp ý cho nhau về phương pháp giảng
dạy, đặc biệt là phương pháp dạy ở các lớp có nhiều học sinh yếu kém. Đồng thời
các nhóm cũng thường xuyên trao đổi đãnh giá về sự tiến bộ của các lớp có nhiều
học sinh yếu kém trong các lần học ở các tháng qua điểm các bài kiểm tra thường
xuyên, định kỳ.
- Nhà trường cũng cần có các cuộc hội thảo về vấn đề này để giúp tất cả đồng chí
giáo viên trong trường trao đổi học tập lẫn nhau để giảm tỉ lệ học sinh yếu kém ở
tất cả các môn học.
- Hội đồng bộ môn của Sở Giáo Dục và Đào Tạo cần tích cực tổ chức các hội
thảo, hội nghị chuyên đề triển khai các kinh nghiệm, cách tổ chức phụ đạo học sinh
yếu kém để giáo viên có điều kiện học hỏi lẫn nhau đặc biệt là đối với giáo viên
mới ra trường còn ít kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về các giải pháp giúp đỡ học sinh yếu kém.

Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Kính mong quí thầy, cô
đóng góp ý kiến một cách chân thành nhất để tôi sửa chữa, bổ sung để bài viết được
hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thanh Hóa, ngày 05 tháng 05 năm
2013

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
XÁCN NHẬN CỦA THỦ

khác.

TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Người viết

24


Mai Văn Hóa

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢM TỈ LỆ HỌC SINH YẾU KÉM


25


×