Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NGHIÊN CỨU TRUYỀN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TIẾP CẬN NHÂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.35 KB, 19 trang )

NGHIÊN CỨU TRUYỀN THÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
TIẾP CẬN NHÂN HỌC
Trần Thị Thảo*
TÓM TẮT
Nhân học truyền thông là một mảng nghiên cứu khá thú vị không
chỉ vì cách tiếp cận theo quan điểm nhân học mà còn vì những hiệu
ứng xã hội của truyền thông. Khi phân loại truyền thông theo quy mô
giữa một bên là phát tin, truyền tin và một bên là tiếp nhận và phản
hồi thông tin thì truyền thông có ba cấp độ là truyền thông liên cá
nhân, truyền thông tập thể và truyền thông đại chúng. Trong đó,
truyền thông đại chúng thường được cho là hình thức tạo ra hiệu ứng
xã hội mạnh mẽ, nó phát triển cùng với sự xuất hiện của các phương
tiện thông tin đại chúng. Bài viết này nhằm bước đầu tìm hiểu và xác
lập một số khái niệm, quan điểm trong nhân học truyền thông, đặc
biệt là mảng truyền thông đại chúng - một lĩnh vực nghiên cứu còn
nhiều mới mẻ ở Việt Nam.
Từ khóa: Nhân học truyền thông, hiệu ứng xã hội, truyền thông đại
chúng

1. MỞ ĐẦU
Trong vài thập niên gần đây, “truyền thông đại chúng”
thường được đề cập đến với một vai trò nhất định trong những
xã hội hiện đại, có những điều kiện phát triển mạnh những
*

ThS., Khoa Nhân học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh

123



phương tiện, nhằm truyền tải thông tin một cách rộng rãi ra công
chúng. Truyền thông đại chúng là một trong ba loại quá trình
truyền thông xét theo quy mô và tính chất của một bên là phát và
truyền thông tin với một bên là nhận và phản hồi thông tin.
Thuật ngữ “truyền thông” thường được nhắc đến bởi các kỹ
thuật truyền đạt thông tin ngày nay được ứng dụng rộng rãi tại
nhiều nơi, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu từ các
ngành khoa học khác nhau. Tiếp cận truyền thông theo quan
điểm của nhân học là một trong những mảng nghiên cứu khá thú
vị và mới mẻ ở Việt Nam hiện nay. Trong khả năng hạn hẹp của
người viết bài, chúng tôi mong muốn nêu lên thực trạng nghiên
cứu về nhân học truyền thông ở Việt Nam, đặc biệt là mảng
truyền thông đại chúng, bước đầu xác lập một số khái niệm,
quan điểm trong lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều mới mẻ này.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN HỌC TRUYỀN
THÔNG Ở VIỆT NAM
Việc nghiên cứu về lĩnh vực truyền thông, mà một trong
những hình thức truyền thông gây được hiệu ứng mạnh mẽ trong
xã hội là truyền thông đại chúng đã tạo được sự quan tâm của các
nhà khoa học xã hội, đặc biệt là các nhà xã hội học trên thế giới.
Các công trình nghiên cứu về truyền thông đại chúng đã được bắt
đầu tiến hành từ đầu thế kỷ XX, với cột mốc đáng quan tâm là
những chiến dịch tuyên truyền của Hitler trên các phương tiện
truyền thông đại chúng từ năm 1933 trở đi (Trần Hữu Quang,
2001, tr. 21). Còn trong công trình Bùng nổ truyền thông, sự ra
đời một ý thức hệ mới, các tác giả đã nhận định rằng “trong thập
kỷ 40 các kỹ thuật truyền thông lại chịu một ngọn roi quất mạnh
để chúng chồm lên, khiến cho người ta có thể nói đến một sự


124


“bùng nổ thật sự của truyền thông” (Philippe Breton, Serge
Proulx, 1996, tr. 10).
Khi xem xét truyền thông dưới góc nhìn của nhân học, các
nhà nhân học trên thế giới đã nhận thấy lĩnh vực này “được định
hình trên nền tảng của các mối quan hệ giữa các ngành mới như
nghiên cứu về truyền thông, nghiên cứu về các phương tiện
truyền thông đại chúng, nghiên cứu về văn hóa, nghiên cứu về
phim ảnh, xã hội học truyền thông đại chúng, nhân học hình ảnh
và nhân học truyền thông đại chúng… Một số nhà nghiên cứu
cho rằng, ngành nhân học đã đi sau trong việc nghiên cứu về
phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng ít nhất cũng có một
nhà nhân học đi tiên phong trong lĩnh vực này từ nửa đầu thế kỷ
hai mươi, khá lâu trước khi nó trở thành xu hướng nghiên cứu.
Đó là Hortense Powdermaker (1900-1970), một nhà tổ chức lao
động, giáo sư nhân học của trường Queens College, và là học trò
của Bronislaw Malinowski (được xem như là vị cha đẻ của
ngành Dân tộc học). Bà đã thắp ngọn đuốc tiên phong trên con
đường nghiên cứu về Nhân học truyền thông đại chúng” (Kelly
Askew and Richard R. Will (edited), 2002, tr.3).
Từ những năm giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, các nhà
nhân học đã bắt đầu tập trung sự chú ý đến các phương tiện
truyền thông đại chúng. Trong một số báo cáo đã xuất hiện việc
mô tả nhân học truyền thông đại chúng như thế nào, hoặc tiến
trình của nó như thế nào. Vào thời điểm chuyển đổi thiên niên
kỷ, hơn một trăm nhà nhân học đã công bố truyền thông đại
chúng hoặc văn hóa đại chúng như là một trong những hướng
nghiên cứu của họ và lợi ích của việc giảng dạy trong quyển

sách hướng dẫn của Hiệp hội Nhân học Hoa Kỳ (Kelly Askew
and Richard R. Will (edited), 2002, tr.3).
125


Đầu những năm 2000, một số học giả nhân học, xã hội học
đã có những bài viết trình bày những vấn đề liên quan đến
truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng được
công bố qua hai tuyển tập đã được xuất bản. Đó là tuyển tập
Anthropology of indirect communication gồm 17 bài viết được
xuất bản lần đầu vào năm 2001 và tái bản vào năm 2004; và
tuyển tập The Anthropology of Media, a Reader xuất bản lần
đầu vào năm 2002, gồm 22 bài viết. Năm 2002, công trình
Anthropology and Mass Communication, Media and Myth in the
New Millennium, của Mark Allen Peterson1 được xem như là
quyển sách đầu tiên cung cấp một cái nhìn hệ thống về phông
nền, chủ đề và phương pháp luận trong các cuộc đối thoại đang
nổi lên giữa các nhà nhân học nghiên cứu truyền thông đại
chúng và các nhà phân tích phương tiện truyền thông chuyển
sang phân tích dân tộc học và phân tích văn hóa. Tác phẩm đã
phác họa trên cơ sở của hàng chục nghiên cứu biểu hiện, khảo tả
dân tộc học và các nghiên cứu xuyên văn hóa của các phương
tiện truyền thông đại chúng. Đặt việc nghiên cứu nhân học của
các phương tiện thông tin đại chúng vào trong các quan điểm
lịch sử và liên ngành, nó xem xét cách thức làm việc trong
nghiên cứu văn hóa, xã hội học, truyền thông đại chúng và
những chuyên ngành khác. Năm 2006, công trình The cell
phone, an anthropology of communication của Heather A.Horst
và Daniel Miller được xuất bản. Nghiên cứu sinh động của hai
tác giả trên về điện thoại di động đã cho thấy cách phân tích của

1

Mark Allen Peterson là cựu nhà báo ở Washington, DC. Ông cũng là giáo sư của
khoa nghiên cứu quốc tế và nhân học ở đại học Miami. Ông đã xuất bản nhiều bài
báo về truyền thông đại chúng ở Mỹ, Nam Á và Trung Đông, và ông cũng giảng
dạy các khóa học từ phương pháp nghiên cứu nhân học đến truyền thông đại chúng
tại đại học American ở Cairo, Đại học Hamburg, Đại học Georgetown và trường
Gettysburg.

126


nhân học truyền thông về lối ứng xử của người Jamaica khi họ
mua sắm, sở hữu và sử dụng phương tiện liên lạc thông tin
không dây này, xem xét những ảnh hưởng của điện thoại di
động đến giáo dục, sức khỏe và tội phạm ở Jamaica.
Ở Việt Nam, vẫn chưa có nhiều ấn phẩm chuyên khảo về
lĩnh vực nhân học truyền thông bởi lĩnh vực này là sự kết hợp
của ngành khoa học về nhân học và truyền thông (cũng còn khá
mới mẻ ở Việt Nam). Điều này khác với tình hình nghiên cứu về
truyền thông của các nhà xã hội học ở Việt Nam, trong đó có thể
kể đến các tác phẩm nghiên cứu có tính hệ thống về xã hội học
truyền thông của nhà nghiên cứu, nhà báo Trần Hữu Quang như:
Chân dung công chúng truyền thông (qua khảo sát xã hội học
tại TPHCM), 2001; Xã hội học báo chí, 2006… Nhà nghiên cứu
Tạ Ngọc Tấn cũng có những giới thiệu về các phương tiện
truyền thông đại chúng hiện đại, các nguyên tắc, phương pháp
nhằm quản lý, điều hành, phát huy vai trò sức mạnh của các loại
hình phương tiện truyền thông đại chúng qua quyển Truyền
thông đại chúng, được xuất bản lần đầu vào năm 2001, và tái

bản vào năm 2004. Bên cạnh đó, một số tác phẩm của các tác
giả nước ngoài liên quan đến truyền thông đại chúng cũng đã
được dịch và in sách tại Việt Nam như Sức mạnh của tin tức
truyền thông của Michael Schudson 1995; Bùng nổ truyền
thông, sự ra đời một ý thức hệ mới của Philippe Breton, Serge
Proulx, 1996…
Trong khả năng tiếp cận các nguồn tài liệu liên quan đến
nhân học và truyền thông đại chúng của chúng tôi tại Việt Nam,
có thể nói rằng, chưa có nhiều công trình, ấn phẩm nhằm xác lập
rõ về phân ngành này trong nhân học đã được xuất bản. Do đó,
trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ có thể cố gắng nối kết
127


các mối quan hệ giữa ngành nhân học với các hoạt động truyền
thông từ liên cá nhân đến tập thể, đến đại chúng. Từ việc cố
gắng xác lập một số khái niệm có liên quan đến truyền thông và
nhân học, chúng tôi kỳ vọng bài viết như một khảo sát bước đầu
về lĩnh vực còn khá mới này ở Việt Nam đồng thời thử đề xuất
một số nội dung cho lĩnh vực nghiên cứu này trong bối cảnh của
Việt Nam.
3. Một số khái niệm liên quan đến truyền thông
Khi đặt truyền thông vào trong quá trình truyền đạt thông tin
giữa bên cho và bên nhận, khái niệm truyền thông đã được xem
xét ở ý nghĩa rất rộng của nó. Khái niệm “truyền thông”, tương
ứng với thuật ngữ “communication” trong tiếng Anh hoặc tiếng
Pháp, là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ một xã hội nào
mang tính xã hội (Trần Hữu Quang, 2001, tr. 36). Hiểu theo nghĩa
chung và trừu tượng thì “truyền thông” (communication) là quá
trình “truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng” (Hoàng Phê (chủ

biên), 2002, tr. 1053). Truyền thông thường được xem xét như
một quá trình truyền đạt thông tin được thực hiện qua ngôn ngữ
hoặc các cử chỉ, điệu bộ hoặc các hành vi biểu lộ cảm xúc, vì thế
mà một số nhà nghiên cứu đã phân biệt truyền thông với hai loại
hình là truyền thông bằng ngôn từ (verbal) và truyền thông không
bằng ngôn từ (non-verbal). Khái niệm truyền thông có thể được
định nghĩa như sau: truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp
nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa
con người với con người (Trần Hữu Quang, 2006, tr. 3).
Như vậy truyền thông được xem xét như một quá trình và
để thiết lập được các mối liên hệ giữa con người với con người
cần đặt nó vào bối cảnh của không gian và thời gian. Nếu truyền
thông giữa người ở nơi này với người ở nơi khác, tổ chức này
128


với tổ chức khác được xem như bối cảnh không gian thì truyền
đạt thông tin từ thời điểm này đến thời điểm khác trong chiều
dài lịch sử nhờ vào các phương tiện lưu trữ văn bản, hình ảnh,
âm thanh… được xem như là bối cảnh thời gian. Thông tin được
chuyển đạt nhanh nhất đến cộng đồng cư dân chính là nhờ vào
quá trình truyền thông. Vì thế mà trong tác phẩm Sức mạnh của
tin tức truyền thông, Michael Schudson đã nhận định rằng
“nhiều thông tin đến với người dân nói chung qua truyền thông
chứ không qua chuyên gia trung gian” (Michael Schudson,
2003, tr. 272).
Khi nhắc đến quá trình truyền thông và mô hình của quá
trình ấy, người ta thường nhắc đến công thức nổi tiếng của
Harold D. Lasswell là “Ai, nói cái gì, bằng kênh nào, cho ai, và
có hiệu quả gì?” (“Who says what in which channel to whom

with what effect?” (Dẫn lại theo Trần Hữu Quang, 2006, tr. 5).
Mô hình truyền thông
theo Lasswell như một
công thức rút gọn,
nhưng vẫn liệt kê được
những lĩnh vực cần
nghiên cứu của truyền
thông như : nghiên cứu
về nguồn tin hay người
phát tin (“ai nói”);
phân tích về nội dung
thông tin (“nói cái
gì”); nghiên cứu các
phương tiện thông tin
(“nói qua kênh nào”);
129


nghiên cứu công chúng
độc giả hay khán giả
(“nói cho ai”); và khảo
sát các tác động truyền
thông nơi công chúng
(“có hiệu quả gì”).
Giới hạn của công thức này là tính chất tuyến tính một chiều
từ người phát tin đến người nhận tin trong đó người nhận tin dễ
được cảm nhận như là một đối tác thụ động. Chính vì thế mà về
sau này, các nhà nghiên cứu thường quan niệm quá trình truyền
thông liên cá nhân với một quy trình khép kín trong đó bao gồm
bốn giai đoạn chính. Quan niệm này được nhà ngôn ngữ học

Roman Jakobson phác thảo một cách khá hoàn chỉnh và mô
hình này được Michel de Coster phác họa thành sơ đồ với trình
tự bốn giai đoạn chính như sau: phát tin, truyền tin, nhận tin và
phản hồi.

130


Mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội thể hiện qua quá trình
truyền thông. Có sự khác biệt giữa hai khái niệm “truyền thông
đại chúng” và “các phương tiện truyền thông đại chúng”. Thuật
ngữ “các phương tiện truyền thông đại chúng” (mass media)
được dùng để chỉ những công cụ kỹ thuật hay những kênh mà
nhờ vào đó người ta mới có thể tiến hành quá trình truyền thông
đại chúng, nghĩa là việc phổ biến, loan truyền thông tin ra mọi
người. Trong tiếng Anh, chữ mass media bao gồm hai thành
phần : mass có ý nghĩa là “đại chúng” và media (gốc từ tiếng
La-tinh là medium, thể số nhiều là media) có nghĩa ban đầu là
“trung gian”, ở đây có ý nghĩa là các phương tiện hay công cụ.
Do đó, thuật ngữ “các phương tiện truyền thông đại chúng” có
nghĩa là các công cụ trung gian có chức năng vận chuyển thông
tin ra các tầng lớp công chúng. Còn thuật ngữ “truyền thông đại
chúng” (mass communication) là thuật ngữ được dùng để chỉ
một quá trình xã hội: quá trình truyền tải thông tin một cách
rộng rãi ra công chúng (Dẫn lại theo Trần Hữu Quang, 2006, tr.
16). Điểm cơ bản để xác định một hành vi có nằm trong quá
trình truyền thông đại chúng tùy thuộc vào việc hành vi đó có
nằm trong quá trình truyền tải và tiếp nhận thông tin qua các
phương tiện thông tin đại chúng, chứ không phải là việc sử dụng
thiết bị kỹ thuật nào.

4. ĐỐI TƯỢNG CỦA NHÂN HỌC TRUYỀN THÔNG
Nhân học là ngành khoa học nghiên cứu về con người một
cách toàn diện và tổng thể bằng cách tích hợp những thành tựu
nghiên cứu của các ngành khoa học khác. Kế thừa và phát triển
từ ngành dân tộc học, nhân học đã mở rộng hơn phạm vi nghiên
cứu về không gian và thời gian, nghiên cứu con người trong các
xã hội từ truyền thống đến hiện đại, từ các cộng đồng tộc người
131


thiểu số đến đa số, đặt trong sự so sánh đối chiếu. Trong sự phát
triển của xã hội hiện đại, vai trò của truyền thông, đặc biệt là
truyền thông đại chúng càng trở nên quan trọng nhằm đáp ứng
nhu cầu muốn nắm bắt thông tin của con người. Chính vì thế mà
truyền thông cũng trở thành lĩnh vực nghiên cứu của nhân học
và đối tượng nghiên cứu của nhân học truyền thông cũng phải
đặt trong mối liên hệ liên ngành với các ngành khoa học khác.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về truyền thông đại chúng
từ những năm 1930 đến nay bởi nhiều ngành khoa học xã hội.
Đó là những công trình nghiên cứu về báo chí dưới góc độ sử
học, những công trình điều tra nghiên cứu về các giới công
chúng độc giả và khán thính giả dưới góc độ tâm lý học xã hội,
những công trình phân tích nội dung về các thông điệp của
truyền thông đại chúng theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học…
Ở lĩnh vực xã hội học, truyền thông đại chúng được nghiên cứu
như một quá trình xã hội, làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền
thông đại chúng và xã hội. Silbermann cho rằng, xã hội học về
truyền thông đại chúng là bộ môn chuyên phân tích về hiện
tượng truyền thông đại chúng và ý nghĩa của truyền thông đại
chúng đối với cuộc sống của xã hội (Trần Hữu Quang, 2006, tr

34). Chính vì thế, xem xét nhân học truyền thông cần phải đặt
trong mối quan hệ liên ngành, xuất phát từ nhân học văn hóa xã
hội, liên quan đến ngôn ngữ học, nhân học ngôn ngữ và xã hội
học truyền thông.
Một số nhà nhân học vẫn coi ngôn ngữ như là nền tảng của
khoa học về con người. Việc nghiên cứu luôn đòi hỏi các nhà
nhân học phải sử dụng thông thạo ngôn ngữ của cộng đồng tộc
người mà họ muốn nghiên cứu. Ngôn ngữ học chú trọng đến lịch
sử, cấu trúc và cách sử dụng ngôn ngữ… những khái niệm và
thực tiễn ngôn ngữ. Trong khi đó, nhân học sẽ chú trọng hơn đến
132


hành vi của ngôn từ như Hymes nhận định “… đây là một cơ hội
để phát triển những mối ràng buộc mới, thông qua những đóng
góp vào việc nghiên cứu hành vi ngôn từ mà chỉ có sự cộng tác
giữa ngôn ngữ học và nhân học mới có thể mang lại. Điều này
rộng lớn hơn là việc đưa ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu
những vấn đề khoa học khác, chẳng hạn như hành vi tri nhận hay
hành vi biểu cảm” (Dell H. Hymes, , 2006, tr. 144). Nhân học
truyền thông sẽ chú ý hơn đến hành vi tri nhận và biểu cảm mang
đậm tính tộc người với cách sử dụng ngôn ngữ trong những cộng
đồng khác biệt. Quan điểm so sánh trong nghiên cứu nhân học sẽ
thể hiện rõ ở đây.
Đối với nhân học, hoạt động truyền thông đặc biệt là truyền
thông đại chúng cũng được xem xét như một quá trình xã hội.
Quá trình truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù
bao gồm ba thành tố là: Hoạt động truyền thông; Các nhà
truyền thông; và công chúng độc giả hoặc khán thính giả. Chính
ba thành tố này cũng trở thành đối tượng nghiên cứu nói chung

cho các ngành khoa học nghiên cứu về lĩnh vực truyền thông.
Tuy nhiên, ngành xã hội học ở Việt Nam đã có những bước tiến
khi xác lập những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ môn xã hội
học truyền thông đại chúng bao gồm ba nội dung trên và thêm
nội dung thứ tư là nghiên cứu về các ảnh hưởng xã hội của
truyền thông đại chúng (Dẫn lại theo Trần Hữu Quang, 2006, tr.
35). Với một số nét tương đồng, nhân học truyền thông cũng sẽ
có đối tượng nghiên cứu tương tự với xã hội học truyền thông,
nhưng vẫn có những chú trọng khác biệt khi nghiên cứu.
Những nghiên cứu về lĩnh vực này có mối quan tâm về mặt
ngôn ngữ, diễn ngôn nhưng lại chú ý hơn ở khía cạnh ngôn ngữ
học. Bên cạnh việc chú ý đến yếu tố liên ngành với đối tượng
nghiên cứu là những con người, cộng đồng người chủ thể, sự
133


phân tích, nghiên cứu về nhân học truyền thông có thể xem xét
dưới góc độ của các dạng thức ứng xử của chủ thể trong sự giao
tiếp hay tiếp xúc với người khác, đây được coi như là một đối
tượng nghiên cứu mang nét khác biệt của bộ môn này. Điểm
khác biệt về đối tượng của xã hội học truyền thông và nhân học
truyền thông thể hiện ở việc xã hội học truyền thông thì chú ý
hơn đến các quan hệ xã hội, trong khi nhân học truyền thông sẽ
quan tâm hơn đến ứng xử của con người trong những tình huống
cụ thể. Lối ứng xử ấy được chi phối bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là
yếu tố văn hóa.
5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA
NHÂN HỌC TRUYỀN THÔNG Ở VIỆT NAM
Các lĩnh vực nghiên cứu truyền thông trên thế giới gắn với
các quan điểm nghiên cứu khác nhau qua ba giai đoạn chính.

Giai đoạn thứ nhất từ khoảng đầu thế kỷ XX cho đến cuối
những năm của thập niên 1930. Giai đoạn đầu này các nhà
nghiên cứu đã đề cập đến quan niệm về sức tác động to lớn của
các phương tiện truyền thông đại chúng đối với ứng xử và suy
nghĩ của người dân. Sang đến giai đoạn thứ hai từ khoảng
những năm 1940 cho đến đầu những năm 1960 thì các nhà
nghiên cứu đã bớt đánh giá cao vai trò, khả năng tác động to
lớn của các phương tiện truyền thông đại chúng, bởi nó không
mang tính trực tiếp mà luôn đi qua bộ lọc, các bước trung gian.
Trong giai đoạn hai này, các nhà nghiên cứu cũng chú ý nhiều
hơn đến bối cảnh xã hội và bắt đầu quan tâm chú ý đến những
kênh truyền thông liên cá nhân, lưu tâm đến nhân tố cơ cấu xã
hội trong quá trình truyền thông đại chúng. Giai đoạn thứ ba
bắt đầu từ khoảng thập niên 1960 trở lại đây, có nhiều xu
hướng và quan điểm nghiên cứu khác nhau về truyền thông
134


xuất hiện. Các đề tài nghiên cứu cũng đa dạng hơn, không chỉ
xoay quanh việc đánh giá tác động, vai trò của truyền thông đại
chúng mà còn mở rộng nghiên cứu về nội dung các thông điệp
của truyền thông đại chúng, quá trình truyền thông đại chúng,
quá trình sản xuất của các phương tiện truyền thông đại chúng,
nghiên cứu về các tổ chức và lao động của bản thân những
người làm công tác truyền thông, cách thức tiếp nhận truyền
thông đại chúng nơi người dân và việc người dân sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng như thế nào trong cuộc sống
của họ (Trần Hữu Quang, 2001, tr. 22-26).
Xuất phát từ ba quan điểm chính của ngành nhân học là tính
toàn diện; tính so sánh đối chiếu; và phạm vi rộng lớn cả về

không gian và thời gian, thì các lĩnh vực nghiên cứu của ngành xã
hội học truyền thông cũng có thể trở thành lĩnh vực nghiên cứu
của nhân học truyền thông. Dưới góc nhìn của nhân học, truyền
thông sẽ được nghiên cứu mang tính liên ngành đặt vào bối cảnh
cụ thể về không gian và thời gian của những tộc người cụ thể,
những khu vực, quốc gia cụ thể để thấy được tính đa dạng của các
kết quả của những quá trình truyền thông khác nhau ở từng giai
đoạn khác nhau, từng cộng đồng người có nền văn hóa khác
nhau… Tính đa dạng này cũng đã được các tác giả của tác phẩm
Nhân học một quan điểm về tình trạng nhân sinh chia sẻ rằng
“nghề nhân học về cơ bản có liên quan đến xu hướng thích lắng
nghe những tiếng nói… tường thuật các tiếng nói, giải thích các
tiếng nói một cách tốt nhất… Mặc dù nhà nhân học cảm thấy cần
tạo sự giao tiếp giữa những tập thể người khác nhau, đồng thời họ
lại cảm thấy cần cưỡng lại quá trình đồng nhất hóa qua truyền
thông đại chúng” (Emily A. Schultz và Robert H. Lavenda, 2001,
tr. 18). Như vậy, trong một bối cảnh này, các nhà nhân học cũng
thể hiện mối lo ngại về những tác động chi phối của truyền thông
135


đại chúng đến người dân, có thể dẫn đến quá trình đồng hóa (khá
tương tự với quan điểm nghiên cứu về truyền thông xuất hiện ở
giai đoạn đầu nghiên cứu về truyền thông).
Một đặc điểm đáng lưu ý là có những nét tương đồng giữa
nhân học ngôn ngữ với nghiên cứu về truyền thông khi nhân học
ngôn ngữ xem xét “giao tiếp của loài người được định nghĩa là
trao đổi thông tin giữa người này với người khác, nhưng giao
tiếp có thể không dùng từ, dù là nói miệng hay bằng một cách
nào khác. Người ta thường xuyên giao tiếp với nhau mà không

dùng lời nói, họ truyền ý tứ của mình qua cách ăn mặc, qua cách
đi đứng, và thậm chí bắt người khác chờ đợi mình lâu hay mau”
(Emily A. Schultz và Robert H. Lavenda, 2001, tr. 126).
Bên cạnh đó, việc các nhà nhân học nhận định vai trò của
các phương tiện truyền thông đại chúng đối với quá trình phát
triển và thay đổi của các nền văn hóa cũng góp ý tưởng cho
những nghiên cứu về tác động qua lại của truyền thông đến việc
bảo tồn và biến đổi của các nền văn hóa. Các tác giả của tác
phẩm Nhân học một quan điểm về tình trạng nhân sinh cũng đã
đưa ra ý tưởng về việc “nhờ vào những tiến bộ trong kỹ thuật
thông tin, trong tiến trình sản xuất và trong việc tiếp thị đã xóa
hẳn ranh giới địa lý giữa những nền văn hóa…” (Emily A.
Schultz và Robert H. Lavenda, 2001, tr. 499).
Từ đối tượng nghiên cứu của nhân học truyền thông, có thể
đề xuất một số lĩnh vực nghiên cứu của bộ môn này như: truyền
thông bằng lời (verbal) hoặc không bằng lời (non-verbal), phân
tích ngôn ngữ, phân tích diễn ngôn; những ứng xử và hành vi
ngôn ngữ; những ký hiệu biểu tượng trong hoạt động truyền
thông, các phương tiện truyền thông và việc sử dụng các phương
tiện truyền thông… Từ những lĩnh vực nghiên cứu trên, có thể
136


triển khai thành những đề tài cụ thể hơn. Chẳng hạn như việc sử
dụng ngôn từ khác biệt bằng lời hoặc không bằng lời khi cần trao
đổi thông tin giữa những người trong cùng một nhóm phân chia
theo giới, theo lứa tuổi, theo tầng lớp xã hội, theo sở thích, theo
nghề nghiệp… Nghiên cứu này cũng có thể đặt trong sự so sánh
với những cộng đồng tộc người khác nhau. Nét khác biệt trong
văn hóa dẫn đến cách sử dụng ngôn từ của trẻ em ở một cộng

đồng tộc người cụ thể này khác biệt với cộng đồng khác. Cũng
có thể nghiên cứu về chiến lược ứng xử của con người trong hoạt
động truyền thông mà trong đó, con người cần xác định đối
tượng và nội dung công việc để có một lối ứng xử phù hợp…
Có thể phân tích nhân học truyền thông khi xem xét những
ứng xử của con người trong việc sử dụng các phương tiện thông
tin theo sự phát triển của các phương tiện ấy. Chẳng hạn như khi
con người chưa có các phương tiện giao tiếp trung gian thì hoạt
động truyền thông chỉ diễn ra dưới một hình thức là mặt đối mặt,
dùng ngôn ngữ truyền miệng và ngôn ngữ hình thể, các biểu
cảm tình cảm được thể hiện một cách trực tiếp. Nhưng khi xã
hội phát triển hơn, bắt đầu có thêm chữ viết, thông tin được lan
truyền qua các văn bản, thư từ… Hiện nay, khi mạng điện tử
phát triển thì con người có thể giao tiếp gián tiếp với nhau qua
không gian ảo. Bạn bè, người thân có thể gặp gỡ chuyện trò qua
các phòng “chat”, các trang mạng xã hội như facebook,
myspace… những cộng đồng người khác nhau sẽ có cách sử
dụng các trang mạng ấy khác nhau.
Một ví dụ khác về nghiên cứu nhân học truyền thông qua
việc sử dụng điện thoại di động. Ở nông thôn, vùng sâu vùng xa,
những khu vực mới phát triển mạng lưới di động, việc sử dụng
điện thoại di động có làm thay đổi ý nghĩa cuộc sống của cư dân
hay không, cách ứng xử của con người khi sử dụng điện thoại di
137


động như thế nào… Nghiên cứu của nhân học truyền thông cũng
có thể xem xét những tác động của việc xem truyền hình, nghe
đài phát thanh đối với thị hiếu nghe nhạc, thời trang, ẩm thực,
phong cách sống… của các tầng lớp trong xã hội, lưu ý nhấn

mạnh đến việc so sánh giữa các nhóm thanh niên thuộc về các
cộng đồng tộc người khác nhau, trình độ học vấn khác nhau, đặc
điểm văn hóa tôn giáo khác nhau… Các phim cộng đồng, một
hình thức mới của nhân học hình ảnh, với sự tham gia trực tiếp
của những người dân trong cộng đồng từ khâu góp ý tưởng đến
trực tiếp quay phim và dàn dựng… chuyển tải những thông điệp
truyền thông nhất định. Qua đó các nhà nghiên cứu có thể thấy
được lối ứng xử của cư dân với những nét tương đồng hoặc khác
biệt trong đời sống hàng ngày khi có máy quay phim hoặc không
có máy quay phim.
Như vậy điểm mạnh của nhân học khi nghiên cứu về truyền
thông chính là việc đặt nghiên cứu vào trong bối cảnh xã hội và
chú ý đến đối tượng nghiên cứu là cộng đồng tộc người cụ thể
với những đặc điểm văn hóa riêng biệt. Từ những khác biệt văn
hóa dẫn đến lối ứng xử khác biệt của cư dân ở những cộng đồng
tộc người khác nhau. Ngôn ngữ với vai trò như một dạng tín
hiệu để chuyển tải thông tin sẽ được mã hóa và giải mã theo
những phương thức khác biệt mà yếu tố văn hóa của cộng đồng
tộc người là một trong những nhân tố quyết định.
6. KẾT LUẬN
Với đà phát triển của xã hội hiện đại, vai trò của truyền
thông, đặc biệt là truyền thông đại chúng, ngày càng trở nên
quan trọng. Trong một chừng mực, có thể thấy, xã hội hiện nay
mang tính chất của xã hội truyền thông, con người sống trong xã
hội luôn có nhu cầu nắm bắt thông tin, từ những vấn đề nổi bật
138


mang tính thời sự có tầm ảnh hưởng rộng lớn trong xã hội đến
những nội dung liên quan với đời sống hàng ngày của người dân

như giá cả, lịch trình các dịch vụ xã hội… Tầm ảnh hưởng của
các hoạt động truyền thông đến các thành viên trong xã hội là
không thể phủ nhận. Chính vì thế, nghiên cứu nhân học truyền
thông sẽ là một lĩnh vực hứa hẹn nhiều điều mới mẻ. Đối tượng
nghiên cứu của nhân học truyền thông cũng phải đặt trong mối
liên hệ liên ngành với các ngành khoa học khác.
Như vậy, khi xem xét các lĩnh vực nghiên cứu của nhân học
truyền thông, cần đặt trong mối quan hệ liên ngành, gần gũi văn
hóa, xã hội, với ngôn ngữ (cả bằng lời hoặc không bằng lời).
Dựa trên quan điểm chung nhất của nhân học là toàn diện, so
sánh và đối chiếu, đặt trong bối cảnh không gian và thời gian để
xem xét bốn nội dung chính của truyền thông là công chúng của
các phương tiện truyền thông đại chúng, các tổ chức và các nhà
hoạt động truyền thông, phân tích nội dung của các thông điệp
truyền thông, và nghiên cứu về ảnh hưởng cũng như tác động xã
hội của các phương tiện truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó,
cũng cần lưu ý thêm các cấp độ truyền thông liên cá nhân và
truyền thông tập thể để hiểu rõ hơn những vấn đề của truyền
thông đại chúng.
Có thể thấy rằng, mặc dù “nhân học truyền thông” đã được
trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu của nhân học
trên thế giới trong những thập kỷ gần đây, nhưng cùng với sự
“non trẻ” khi hình thành ngành nhân học ở Việt Nam (chủ yếu là
việc chuyển đổi tên gọi và mở rộng lĩnh vực nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu), nhân học truyền thông ở Việt Nam vẫn còn
chưa trở thành đối tượng chính của nhiều tác phẩm nghiên cứu.
Mặc dù vậy, xã hội học truyền thông đã đặt được những nền
tảng về nghiên cứu truyền thông với một số tác phẩm đã được
139



xuất bản ở Việt Nam. Qua đó, nhân học truyền thông có thể vận
dụng kế thừa và ngày càng làm sáng tỏ các khái niệm, các quan
điểm khi nghiên cứu lĩnh vực truyền thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Emily A. Schultz và Robert H. Lavenda, 2001, Nhân học Một quan điểm về tình trạng nhân sinh, do Phan Ngọc
Chiến, Hồ Liên Biện dịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
2. Kelly Askew and Richard R. Will (edited), 2002, The
Anthropology of Media, A reader, Backwell Publishers.
3. Mark Allen Peterson, 2005, Anthropology and Mass
Communication, Media and Myth in the New Millennium,
first paperback edition published, Berghahn Books.
4. Michael Schudson, 2003, Sức mạnh của tin tức truyền
thông (bản dịch cuốn The Power of News, Harvard, Harvard
University Press, 1995, người dịch: Thế Hùng, Trà My),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Philippe Breton, Serge Proulx, 1996, Bùng nổ truyền thông,
sự ra đời một ý thức hệ mới, bản dịch củaVũ Đình Phòng,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên), 2002, Từ điển
tiếng Việt, in lần thứ tám, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ
điển học, HN-Đà Nẵng .
7. Trần Hữu Quang, 2001, Chân dung công chúng truyền
thông (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), NXB Tổng
140


hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
Trung tâm Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương,.

8. Trần Hữu Quang, 2006, Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế Châu Á-Thái Bình
Dương .
9. Trần Hữu Quang, 2008, Truyền thông đại chúng trong xã
hội hiện đại, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 7 và 8, Xuân
Mậu Tý, 7 - 2, tr. 16 - 19.
10. Vũ Thị Thanh Hương, Hoàng Tử Quân (dịch), 2006, Ngôn
ngữ văn hóa và xã hội, một cách tiếp cận liên ngành, Cao
Xuân Hạo, Lương Văn Hy, Lý Toàn Thắng (hiệu đính),
NXB Thế Giới, Hà Nội.

141



×