Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiềm thu hút thực trạng đầu tư gián tiếp nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.77 KB, 36 trang )

DANH SÁCH NHÓM 12

1


Họ Tên
Nguyễn Hoài Thu
Lê Thị Thúy
Trần Thị Thơm
Nguyễn Minh Thúy
Đồng Thị Tình
Hoàng Thu Trang
Vũ Thị Thu Trang
Bùi Thị Thúy

Mã Sinh Viên

Công Việc

2

Xếp Loại


MỤC LỤC

3


LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, với xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa, huy động


vốn là công việc rất cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Ngoài nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn vay nợ nước ngoài,
thì việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) có một ý nghĩa rất quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta. Nhưng thu hút như thế nào,
quản lý nguồn vốn đó ra sao cho thật sự hiệu quả lại là một bài toán khó. Vì vậy,bên
cạnh việc nâng cao hiệu quả thu hút, nhà nước cũng cần phải có những biện pháp quản
lý nguồn vốn này một cách phù hợp để việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này thực sự
đem lại những hiệu quả tốt nhất. Do đó, nhóm chúng em xin thực hiện đề tài: “Tiềm
năng thu hút và thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam”.

4


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ GIÁN
TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm đầu tư gián tiếp quốc tế:


Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI – Foreign Portfolio
Investment) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được phát hành
bởi một công ty hoặc cơ quan Chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính



trong nước hoặc nước ngoài.”
Theo Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam: “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu
tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, thông qua
quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà
đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.”
Như vậy, có thể hiểu “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua

cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các giấy tờ có giá khác mà nhà đầu tư
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành chứng
khoán.”

1.2 Các hình thức của FPI:


Xét trên bình diện quốc tế:
- FPI trực tiếp bao gồm các hình thức:
+ Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường nước ngoài
+ Mua chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường trong nước
- FPI gián tiếp bao gồm các hình thức:
+ Mua các trái phiếu Châu Âu có quyền mua cổ phiếu. Trên thị trường tài chính
có 2 loại trái phiếu Châu Âu: trái phiếu gắn với quyền mua cổ phiếu và trái
phiếu chuyển đổi.
+ Mua cổ phiếu của các công ty đa quốc gia (các công ty đa quốc gia luôn có
các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào quốc gia khác).
+ Đầu tư thông qua các quỹ tương hỗ quốc tế.



Xét theo các công cụ đầu tư:
+ Mua cổ phiếu công ty
+ Mua trái phiếu công ty
5


+ Mua trái phiếu chính phủ
+ Mua các chứng từ có giá khác do chính phủ, hoặc do các tổ chức tài chính,
các doanh nghiệp phát hành...


1.3 Đặc điểm của FPI:


Chủ đầu tư nước ngoài không nắm quyền kiểm soát hoạt động của tổ chức phát hành



chứng khoán; nhà đầu tư bỏ vốn thông qua thị trường tài chính.
Nước tiếp nhận đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ, kỹ thuật máy
móc thiết bị hiện đại và kinh nghiệm quản lý...; kênh thu hút đầu tư loại này chỉ tiếp



nhận vốn bằng tiền.
Số lượng chứng khoán mà các chủ thể đầu tư nước ngoài được mua có thể bị khống
chế ở mức độ nhất định tùy theo từng loại chứng khoán và tùy theo từng nước để nước



nhận đầu tư kiểm soát khả năng chi phối doanh nghiệp của nhà đầu tư chứng khoán.
Tính thanh khoản cao. Do mục đích của FPI là tỷ suất lợi tức cao với một mức độ rủi
ro nhất định (hoặc tỷ suất lợi tức nhất định với mức rủi ro thấp nhất) chứ không quan
tâm đến quá trình sán xuất kinh doanh giống như trong phương thức FDI, cho nên nhà
đầu tư nước ngoài sẵn sàng bán lại những chứng khoán mà họ đang nắm giữ để đầu tư
sang thị trường khác hoặc chứng khoán khác với tỷ suất lợi tức dự tính cao hơn, an
toàn hơn. Tính thanh khoản cao của FPI khiến cho hình thức đầu tư này trở thành
khoản mục đầu tư ngắn hạn mặc dù cố phiếu được coi là chứng khoán dài hạn và nhiều
loại trái phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán có thời gian đáo hạn dài hơn 1


năm.
• Tính bất ổn định. Tính thanh khoản cao là nguyên nhân làm cho dòng vốn FPI mang
tính bất ổn định. Sự bất ổn định, trong một giới hạn nào đó có thể có lợi do nó làm cho
thị trường tài chính nội địa hoạt động năng động và hiệu quả hơn, vốn đầu tư không
ngừng được phân bổ lại, dịch chuyến từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ
suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, nếu điều đó xảy ra với tốc độ quá nhanh, những ảnh
hưởng xấu đến hệ thống tài chính và tình trạng bất ổn định của nền kinh tế xảy ra là
không thể tránh khỏi. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn đối với các nước có thị trường
tài chính mới hình thành và nền kinh tế còn trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam.
• Tính dễ đảo ngược. Tính dễ đảo ngược của dòng vốn FPI thực sự gây tác động xấu đến
nền kinh tế, nó là hệ quả của hai đặc tính thanh khoản cao và bất ổn định. Do dễ đảo
ngược cho nên có thể chỉ trong khoảng thời gian ngắn một lượng vốn FPI lớn tháo lui
“bẻ ghi” đầu tư sang thị trường khác để lại hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Kinh
6


nghiệm khủng khoảng kinh tế tài chính của các nước châu Á vào cuối thập kỷ 90 của
thế kỷ XX đă cho thấy tác hại của sự đảo ngược dòng vốn FPI khi nền kinh tế của các
quốc gia này xuất hiện những khoảng trống, hậu quả là nền kinh tế bong bóng nhanh
chóng bị sụp đổ mà trong ngắn hạn khó có thể khắc phục được.

1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến dòng vốn FPI:


Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi trường pháp

lý quốc tế thuận lợi).
• Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
• Mức độ tự do hóa và sức cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện,
thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong nước.

• Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng, của các


thể chế thị trường nói chung của nước tiếp nhận đầu tư...
Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của các cổ phiếu,
trái phiếu do doanh nghiệp và nhà nước phát hành, cũng như các chứng khoán có giá



khác lưu thông trên thị trường tài chính.
Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước hết là
các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu tư đại



chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên).
Sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán, trong đó
có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh



nghiệp và chứng khoán.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp: quá trình nhanh hay chậm, minh bạch hay không
minh bạch đều ảnh hưởng lớn tới quyết định đầu tư của nhà đầu tư.

CHƯƠNG 2: SỰ CẦN THIẾT VÀ TIỀM NĂNG THU HÚT
ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.
2.1 Sự cần thiết thu hút FPI tại Việt Nam:
2.1.1 Đối với thế giới nói chung:
Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng

đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI)
và đầu tư gián tiếp (FPI). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản
xuất, thì FPI lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng
cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho
7


doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý
nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối
quan hệ kinh tế.
2.1.2 Đối với Việt Nam:
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FPI mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Việt Nam
cần một lượng vốn đầu tư rất lớn để xây dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng
kinh tế và hạ tầng xã hội. Hàng năm Việt Nam thu hút vốn một lượng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài rất lớn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của người nước ngoài
thông qua việc đầu tư vào thị trường cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Dùng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) không chỉ mang lại vốn mà cũng có vai trò quan
trọng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động,
mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch; nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.
Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán có ý
nghĩa quan trọng ở cả cấp vĩ mô và vi mô. Đối với một nền kinh tế, FPI là nguồn cung
vốn lớn với tốc độ nhanh đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Đối với thị
trường chứng khoán, FPI làm tăng tính thanh khoản và thúc đẩy sự tham gia của các
nhà đầu tư trong nước. Còn các chủ thể phát hành chứng khoán sẽ thu được vốn (nếu
chứng khoán phát hành lần đầu) hoặc gia tăng giá trị tài sản của công ty (nhờ giá cổ
phiếu tăng).
Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm
gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi
với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường

chứng khoán). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp
phần tạo ra các hiệu ứng tốt tác động đến các doanh nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập
không những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng
hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FPI sẽ có
tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và
hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách
chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết
một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…).
8


Hơn nữa, FPI có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp
tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FPI rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
Tuy nhiên, dòng vốn FPI cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy
động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FPI ổn định, tương xứng với
tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao năng lực quản trị
của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu WTO là vấn đề cần được
quan tâm.

2.2 Tiềm năng thu hút tại Việt Nam:
Theo các chuyên gia về lĩnh vực đầu tư và tài chính nước ngoài thì thị trường
vốn đầu tư gián tiếp của Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng.
2.2.1 Chính trị, pháp luật:
Việt Nam có môi trường chính trị ổn định. Đây là một thuận lợi cho các doanh
nghiệp khi kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam. Việt Nam có chính trị ổn định đảm bảo
cho nhà đầu tư thu được cả gốc lẫn lãi, bởi nếu chính trị không ổn định dễ gặp rủi ro.
Những công ty nước ngoài cần tận dụng được những hỗ trợ của chính phủ Việt Nam
đối với doanh nghiệp nước ngoài. Những thủ tục hành chính rườm rà đã dần được lược
bỏ, các chính sách, bộ luật luôn được bổ sung, hoàn thiện để tạo những thuận lợi cho

các doanh nghiệp. Đặc biệt với những công ty đầu tư nước ngoài thì pháp luật có ảnh
hưởng lớn đến sự ràng buộc, đầu tư, hoạt động trên một thị trường. Bên cạnh những
thuận lợi thì những biến động về chính trị, sự thiếu chặt chẽ đồng bộ hóa về pháp luật
lại là cản trở với các doanh nghiệp.
2.2.2 Tăng trưởng kinh tế:
Sau đổi mới kinh tế Việt Nam dần đi vào ổn định và phát triển. Nhờ việc tham
gia những tổ chức kinh tế thế giới như WTO, ASEAN, APEC,... mà kinh tế Việt Nam
đã có mối quan hệ mật thiết hơn với kinh tế toàn cầu. Việc gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) năm 2006 đánh dấu bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và
tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Sự quan tâm của khu
vực và thế giới tới Việt Nam, cộng với sự thành công của các nhà đầu tưhiện hữu tại
đây sẽ mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
9


Nền kinh tế Việt Nam phát triển tương đối ổn định. Theo số liệu do Tổng Cục
Thống kê công bố, năm 2014 là năm đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (2011-2015) kể từ
2011 đến nay, tăng trưởng kinh tế không chỉ về đích mà còn vượt kế hoạch. So với kế
hoạch chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 5,8% mà Quốc hội đưa ra thì năm 2014 đạt 5,98%
quả là con số đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam. Mức tăng trưởng năm 2014 cao
hơn mức tăng trưởng 5,25% của năm 2012 và 5,42% của năm 2013 cho thấy dấu hiệu
tích cực của nền kinh tế. Mức tăng trưởng có dấu hiệu hồi phục này đã giúp cho nền
kinh tế vĩ mô có được sự ổn định.
Trong năm 2014, kinh tế Việt Nam đang trong xu hướng cải thiện, các chỉ số vĩ
mô chủ yếu khá ổn định và sẽ dần tốt hơn trong năm tới. Giá xăng dầu thế giới hiện đã
và đang xuống thấp kỷ lục khiến chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
giảm đi rất nhiều và qua đó sẽ đóng góp cho tăng trưởng GDP. Các loại sản phẩm sẽ
được điều chỉnh về mức giá cạnh tranh hơn so với thị trường thế giới và qua đó góp
phần thúc đẩy xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước cũng đẩy mạnh cung tiền ra

thị trường một cách gián tiếp thông qua trái phiếu do Công ty Quản lý tài sản của các
tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) phát hành. Bên cạnh đó, dự kiến, Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ được ký kết trong năm nay sẽ là cơ hội để Việt
Nam mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư… tạo động lực tăng trưởng dài hạn.

10


2.2.3 Lạm phát:
Con số lạm phát năm 2014 đã thấp ngoài dự đoán của Tổng cục Thống kê khi
12 tháng năm chỉ tăng 1,86%. Đây là mức lạm phát thấp nhất trong vòng 15 năm, thấp
hơn cả những năm 1996-1999.
Tổng cục Thống kê vừa cho biết, so với tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12
đã tiếp tục giảm 0,23%, nối tiếp xu thế tăng trưởng âm của tháng 11 (âm 0,26%). Kéo
theo, so với tháng 12/2013, giá tiêu dùng mới tăng 1,86% và trung bình năm nay so
với năm 2013, giá tiêu dùng chỉ tăng 3,95%.
Nhìn lại chặng đường 15 năm qua, mức lạm phát dưới 2% của Việt Nam năm
nay thấp hơn cả năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,7%, năm 2002 tăng 4%, năm 2003
tăng 3%. Mức lạm phát trên chỉ cao hơn giai đoạn kinh tế bị giảm phát như năm 1999,
lạm phát 0,1%, năm 2000, lạm phát âm 0,6%.
Trên thực tế, tại các nước phát triển, lạm phát trung bình chỉ từ 2 - 4%. Nếu
theo cách tính bình quân tháng như các nước này, lạm phát sẽ được lấy theo con số
3,95%. Con số này là không thấp. Mục tiêu năm 2015, Chính phủ sẽ kiểm soát lạm
phát trong ngưỡng 4% - 5%.
2.2.4 Nợ xấu:
Theo cơ quan giám sát ngân hàng nhà nước, vào thời điểm tháng 9/2012 tỷ lệ
nợ xấu của toàn hệ thống là 17%, nhưng sau hơn 2 năm xử lý chủ yếu bằng các giải
pháp thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, sử dụng dự phòng rủi ro, bán nợ và tải sản bảo đảm …
thì số nợ xấu này đã giải quyết được hơn một nửa. Tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2014
ước còn 3,7% - 4,2%.

2.2.5 Hệ thống tài chính – ngân hàng:
Các nền tảng kinh tế cơ bản như hệ thống tài chính – ngân hàng hoạt đọng hiệu
quả, công nghiệp dịch vụ tương đối phát triển, sự phát triển và chất lượng của hệ thống
thông tin và dịch vụ chứng khoán, trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn và
dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng khoán. Tại Việt Nam, cho
đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò cốt lõi trong hệ thống tài chính với tổng
quy mô tín dụng của hệ thống ngân hàng chiếm trên 80% tổng vốn cung ứng ra nền
kinh tế hàng năm. Do đó, tính ổn định của hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo ổn định khu vực tài chính. Hệ thống tài chính Việt Nam có sự phát
11


triển nhanh chóng, phức tạp cả về quy mô lẫn cấu trúc, với các hoạt động tài chính đan
xen giữa các khu vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và trong môi trường kinh tế
vĩ mô nhiều biến động.
2.2.6 Thị trường ngoại hối:
Thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ
chức, cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, niềm tin vào tiền đồng được củng
cố. Nhờ đó ngân hàng nhà nước tiếp tục mua được ngoại tệ để bổ sung dự trữ ngoại
hối Nhà nước lên mức kỷ lục. Tỷ giá được xem là một trong những thành công trong
điều hành chính sách của ngân hàng nhà nước trong thời gian qua với thông điệp rõ
ràng ngay từ đầu là điều hành linh hoạt nhưng theo xu hướng ổn định để góp phần
kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, đồng thời tăng
được dự trữ ngoại hối. Thực tế cho thấy, dự trữ ngoại hối tăng lên rất nhiều, đến nay đã
đạt mức kỷ lục là 35 tỷ USD. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng.
2.2.7 Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoánViệt Nam là nơi thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam đều đã nghiên cứu khá kỹ
lưỡng thị trường này. Có nhiều công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, cả về số

lượng lẫn chất lượng, cùng với sự gia tăng hàng hóa, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh.
Sự phát triển về chất và lượng, quy mô lẫn cách thức hoạt động của các công ty chứng
khoán.
Toàn bộ giá trị thị trường hiện nay ở mức 5.3 tỷ USD. Thị trường Việt Nam
hiện nay chủ yếu là sân chơi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ, vẫn còn thiếu kinh nghiệm
phân tích và mua bán trên thị trường, thường xoay chuyển theo đám đông và những tin
đồn. Nhưng khi các nhà đầu tưchuyên nghiệp gồm các định chế tài chính và công ty
quản lý quỹ bước vào, với các công cụ phân tích chuyên nghiệp, thị trường sẽ hoạt
động 1 cách bài bản hơn, có động lực mua bán nhiều hơn.
2.2.8 Các chính sách, quy định:
Đối với Việt Nam, hiện nay nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng
khoán được điều chỉnh trực tiếp bởi quyết định số 55/2009/QĐ-TTg ngày 15/4/2009
về tỉ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
12


“Quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước
ngoài trên 49%. Nhà đầu tư nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán Việt Nam được nắm giữ:
1. Đối với cổ phiếu: tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại
chúng.
2. Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng: tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ
đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng.
3. Đối với công ty đầu tư chứng khoán đại chúng: tối đa 49% vốn điều lệ của
một công ty đầu tư chứng khoán đại chúng.
4. Đối với trái phiếu: tổ chức phát hành có thể quy định giới hạn tỷ lệ nắm giữ
đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành.”
Các văn bản pháp luật chứng khoán của Việt Nam đã cho thấy, tỷ lệ chứng
khoán nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài liên tục được điều chỉnh theo thường
ngày càng nới lỏng hơn. Trước năm 2003, các Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép

nắm giữ 20% cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết, trong đó một thể chế
được nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân dược nắm giữ tối đa 3%. Đến năm 2003, theo
Quyết định số 146/2003/QĐ – TTg, tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài tăng
lên ở mức 30%, ngang bằng với mức cổ phần mà nhà đầu tư nước ngoài có thể nắm
giữ theo các quy định về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ sau ngày15/4/2009,
thì tổ chức, cá nhân nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của
một tổ chức trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, và không giới hạn tỷ lệ nắm giữ
đối với trái phiếu lưu hành. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được
mua cổ phần, góp vốn liên doanh thành lập công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán tối đa là 49% vốn điều lệ.
Đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) tại Việt Nam ban hành
theo Quyết định 253/2012/QĐ-TTg ngày 2/3/2012 góp phần gia tăng sức hấp dẫn cho
môi trường đầu tư ở Việt Nam, qua đó thu hút thêm dòng vốn FPI.
Các chính sách kinh tế đang đi đúng hướng, chỉ ra những vấn đề chính cần cải
thiện, nổi bật nhất có thể kể đến việc cải tổ hệ thống ngân hàng, kiểm soát các chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng, từng bước giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
13


Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, tình hình chính trị ổn định, tiềm năng tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn, Việt Nam còn là một quốc gia có nhiều lợi thế so sánh
hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động, thị trường, tài nguyên... Những điều này tạo
lòng tin cho các nhà đầu tưnước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
2.2.9 Những nỗ lực cải thiện nền kinh tế của Việt Nam:
2.2.9.1 Những nỗ lực cải thiện
Đơn giản hóa 41 thủ tục hành chính, bãi bỏ 14 thủ tục. 98% số tờ khai đã thông
quan điện tử, đồng thời giảm 370 giờ kê khai, nộp thuế cho doanh nghiệp… đây là
những tín hiệu tích cực sau khi thực hiện Nghị quyết 19 của Chính phủ về cải cách môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực canh tranh quốc gia. Việc điều hành quyết liệt

trong cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan thời gian qua đã được
cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế ghi nhận.
Xác định cải cách thể chế, trong đó có cải cách thủ tục hành chính về thuế và
hải quan, là một trong những đột phá chiến lược. Trong năm 2015, Việt Nam phấn đấu
tiếp tục rà soát để cắt giảm thời gian nộp thuế xuống còn 171 giờ, đồng thời thực hiện
thời gian xuất nhập khẩu, giao lưu qua biên giới đạt mức tối đa 13 ngày đối với hàng
hóa xuất khẩu; 14 ngày đối với hàng hóa nhập khẩu.
Năm 2015, Việt Nam nỗ lực thực hiện những cam kết chính trị và chính sách về
hội nhập, cải cách, tái cấu trúc, cải thiện môi trường kinh doanh, giữ vững các thành
quả ổn định kinh tế vĩ mô, qua đó củng cố lòng tin của các nhà đầu tư và doanh
nghiệp, giúp nền kinh tế nắm bắt các cơ hội và vượt qua thách thức từ tình hình mới.
- Từ năm 2011, Việt Nam bắt đầu có những chuyển hướng chính sách rất cơ bản nhằm
nâng cao ổn định kinh tế vĩ mô, tăng tính bền vững và hiệu quả trong cách thức tăng
trưởng và phát triển kinh tế bằng cách phân bổ lại các nguồn lực cơ bản như vốn, lao
động, tài nguyên, đất đai, v.v. trong đó tập trung vào ba vấn đề lớn là doanh nghiệp nhà
nước, hệ thống tài chính ngân hàng và đầu tư công. Đến nay, chúng ta đã tái cơ cấu
ngân hàng gắn liền với quá trình ổn định kinh tế vĩ mô, bước đầu lành mạnh hóa hệ
thống tài chính ngân hàng như xử lý một số ngân hàng yếu kém, xử lý nợ xấu qua
VAMC (công ty quản lý tài sản có chức năng tái cơ cấu nợ xấu ngân hàng, mua lại nợ
xấu của các ngân hàng thương mại), hạn chế dần vấn đề sở hữu chéo gắn với tái cấu
trúc doanh nghiệp, v.v. Bên cạnh đó, lộ trình thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà
nước đã rõ hơn và gắn lộ trình này với một cơ chế thưởng phạt mạnh mẽ, ít nhiều đã
cải thiện được tính minh bạch của nó. Đối với đầu tư công thì bên cạnh Chỉ thị
1792/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân
sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ, Việt Nam đã thông qua được Luật Đầu tư
công, bắt tay xây dựng đầu tư công gắn liền với kế hoạch trung hạn chứ không phải
14


từng năm, nâng cao hiệu quả, tính khả thi, minh bạch trong phân bổ, sử dụng nguồn

vốn, và trách nhiệm của các bên liên quan.
- Sau ba năm đi vào ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu nền kinh tế và chú trọng ổn
định vĩ mô, đã có những dấu hiệu cải thiện đáng kể như lạm phát thấp (năm 2014 chỉ
hơn 1,8%), cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh hơn, dự trữ ngoại tệ
tăng, đồng tiền Việt Nam ít nhiều ổn định, đem lại niềm tin cho nhà đầu tư, doanh
nghiệp. Đặc biệt đánh giá nhìn nhận này còn thể hiện qua các chỉ số định mức tín
nhiệm của các tổ chức quốc tế. Liên quan đến sản xuất kinh doanh, có thể thấy mức độ
phục hồi của nền kinh tế khá lên ít nhiều, đặc biệt ở hai chỉ số: chỉ số PMI (purchasing
manufacturing index) từ tháng 9/2013 đến tháng 12/2014 đều trên 50, thể hiện nền sản
xuất công nghiệp chế biến đang có chuyển biến tích cực; chỉ số sản xuất công nghiệp
IIP (index industry products) theo báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng có xu hướng
tăng dần so với cùng kỳ năm ngoái. Tăng trưởng kinh tế còn thể hiện ở mức tăng xuất
khẩu- năm 2012-2013 tăng 14-15%, năm 2014 tăng khoảng 13,6%.
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới
một cách sâu rộng và đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước. Với mục tiêu là
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế luôn
đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển ổn định, vững chắc.
Những thành tựu đã đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước có sự
đóng góp tích cực của khu vực tài chính. Môi trường tài chính từng bước đổi mới và
lành mạnh hoá, tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia ngày càng được củng cố và
phát triển. Chính sách tài chính - ngân sách, chính sách thuế, phát triển thị trường vốn,
thị trường chứng khoán, thị trường dịch vụ tài chính đã động viên, huy động được các
nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để sử dụng có hiệu quả cho đầu tư phát triển,
duy trì ổn định các cân đối vĩ mô.
2.2.9.2 Những kết quả đạt được
- Về chính sách tài chính ngân sách:
Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) năm 2002 đã góp phần đổi mới hệ thống cơ
chế quản lý NSNN, từng bước giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng
góp phần huy động đầu tư xã hội; thực hiện quản lý an toàn dư nợ Chính phủ, dư nợ

quốc gia. Cân đối ngân sách Nhà nước được điều hành nhất quán đảm bảo nguyên tắc
tích cực, thúc đẩy tăng trưởng, góp phần giữ ổn định cân đối vĩ mô nền kinh tế, đảm
bảo an ninh tài chính quốc gia.
Việc cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính - ngân sách được đẩy mạnh.
Thực hiện đổi mới phân cấp, tăng quyền hạn và trách nhiệm cho các Bộ, cơ quan
Trung ương và chính quyền địa phương các cấp. Thực hiện cơ chế trao quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Chính sách xã
15


hội hoá các hoạt động sự nghiệp đã bước đầu phát huy hiệu quả, đã huy động được
một bộ phận nguồn lực của xã hội để phát triển các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá,
thể dục-thể thao. Công tác kiểm soát chi ngân sách qua kho bạc, hoạt động thanh tra,
kiểm tra tài chính đã được tăng cường, thực hiện công khai minh bạch quyết toán và
dự toán hàng năm.
- Về hoàn thiện chính sách thuế:
Sau 20 năm cải cách, đến nay Việt Nam đã hình thành hệ thống chính sách thuế
khá đầy đủ, bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi
thành phần kinh tế và thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị
trường. Hệ thống chính sách Thuế đã bao gồm các sắc thuế cơ bản như: thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân; thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà, đất, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế môn bài, các loại phí, lệ phí. Với hệ
thống thuế tương đối hoàn chỉnh, thuế đã trở thành công cụ đảm bảo nguồn thu chủ
yếu cho NSNN, là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước góp phần tích cực trong thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, đổi
mới khoa học công nghệ, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tổng thu NSNN ngày càng tăng và có tốc độ tăng
trưởng năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ động viên đạt khoảng 21%GDP, tốc độ tăng
trưởng bình quân thu NSNN trong 5 năm từ 2002-2007 đạt 17,%. Có được kết quả này

là do:
Thứ nhất, chính sách thuế được áp dụng thống nhất trong cả nước, không phân
biệt thành phần kinh tế đã tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, chính sách thuế đã hạ mức động viên vào NSNN tăng tích tụ vốn tại
doanh nghiệp góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ ba, chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, cải thiện môi
trường kinh tế vĩ mô.
- Về cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước:
Đến nay, có thể nói quá trình cổ phần hoá và cải cách khu vực DNNN đã thu
được những kết quả quan trọng. Khung pháp lý về sắp xếp, cổ phần hoá DNNN đã liên
tục được hoàn thiện phù hợp với tiến trình cải cách, thúc đẩy công tác chuyển đổi sắp
xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là việc bán cổ phần lần đầu thông
qua phương thức đấu giá đã xoá bỏ cơ chế cổ phần hoá khép kín trong doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương của Chỉnh phủ, cùng với việc tiến hành cổ phần hóa một
số lượng lớn các DNNN, các doanh nghỉêp cũng đã thay đổi cách thức quản trị công
ty, làm tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và giảm gánh nặng cho NSNN.
16


Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định giá trị và thực hiện bán đấu giá
cổ phần lần đầu thông qua Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán và các tổ chức tài chính trung gian. Cách thức này không chỉ góp phần nâng cao
tính khách quan, minh bạch của quá trình cổ phần hoá mà còn gắn kết hơn nữa quá
trình cổ phần hoá với phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian qua. Thông
qua việc bán cổ phần ra bên ngoài, doanh nghiệp cổ phần hoá đã chủ động lựa chọn
được nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, đã có một số Tổng công ty lớn được cổ phần hoá như:
Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (Vinaconex), Tổng công ty Thương

mại xây dựng, Tổng công ty Điện tử tin học, Tổng công ty Bảo hiểm... Một số tập toàn
kinh tế lớn đã được hình thành như: Tập đoàn Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn
thông, Than Khoáng sản, Công nghiệp Tàu thuỷ, Dệt may, Công nghiệp cao su, Tập
đoàn Tài chính Bảo hiểm Việt Nam. Một số doanh nghiệp và tổng công ty lớn cũng đã
và đang hoàn tất việc cổ phần hoá như: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Tổng công
ty Rượu bia, nước giải khát Sài Gòn và Hà Nội... Trong năm 2008 và các năm tới, sẽ
tiếp tục đẩy nhanh hơn nữa tiến trình này.
- Phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán
Sau 7 năm đi vào hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển ổn
định, vững chắc. Thị trường đã thực sự khởi sắc và phát triển khá ổn định trong hai
năm gần đây tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Thông qua TTCK hoạt động huy
động vốn được tăng cường đóng góp tích cực cho việc phát triển doanh nghiệp và tăng
trưởng kinh tế. Các chính sách, giải pháp đề ra qua quá trình áp dụng, điều chỉnh đã
khẳng định sự nắm bắt và chủ động hơn trong điều hành thị trường gắn với hoạt động
chung của nền kinh tế.
Về quy mô thị trường, đến nay đã có 250 công ty được cấp phép niêm yết, đăng
ký giao dịch trên TTCK, tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu trên cả 2 sàn giao
dịch xấp xỉ 40% GDP. Nhìn chung, các doanh nghiệp sau cổ phần hoá và niêm yết trên
TTCK luôn giữ được nhịp độ tăng trưởng và lợi nhuận khá tốt.
Các tổ chức trung gian hoạt động trên TTCK cũng tăng nhanh về số lượng, và
từng bước nâng cao về mặt chất lượng. Đến nay, đã có 75 công ty chứng khoán và 24
công ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động, cung cấp các dịch vụ cho thị trường.
Thị trường trái phiếu của Việt Nam cũng khá phát triển với nhiều loại trái phiếu
(bao gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh
nghiệp và trái phiếu ngân hàng) với tổng dư nợ khoảng 17% GDP. Năm 2005, đợt phát
hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên của Việt Nam ra thị trường vốn quốc tế đã thành
công với giá trị 750 triệu USD, tạo sự khởi đầu hết sức thuận lợi cho Việt Nam trong
những đợt phát hành tiếp theo ra thị trường vốn quốc tế.
17



Thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, vững chắc có đóng góp nhất
định vào tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu ngành bảo hiểm giai đoạn 2001 - 2007
tăng bình quân 30%/năm; năm 2007 doanh thu, chiếm khoảng 2% GDP, tăng hơn 16%
so với năm 2006. Tổng số tiền các doanh nghiệp đã đầu tư trở lại nền kinh tế tăng 25%
so với năm trước.
Trong những năm vừa qua, thị trường bảo hiểm được định hình vững chắc với
đầy đủ các yếu tố thị trường gồm 40 doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, thuộc
mọi loại hình sở hữu với số vốn điều lệ đạt 16.000 tỷ đồng. Chất lượng sản phẩm và
dịch vụ bảo hiểm từng bước được nâng cao, phục vụ tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế
và đời sống dân cư.
- Chính sách tài chính thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam đã thực thi cam kết về thuế quan, thuế xuất khẩu, thực hiện đầy đủ
Hiệp định xác định trị giá hải quan của WTO, thực hiện chính sách giá theo cơ chế thị
trường, mở rộng thị trường dịch vụ tài chính. Việc thực thi các Hiệp định thương mại
Việt- Mỹ (BTA), cam kết tự do hoá khu vực CEPT/AFTA, khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Hàn Quốc
(AKFTA) cũng được đảm bảo theo cam kết đã ký.
Những cam kết liên quan đến mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cũng đang
được triển khai thực hiện với mức độ mở cửa cao và phạm vi rộng, áp dụng theo
nguyên tắc tối huệ quốc với tất cả các đối tác có quan hệ song phương hoặc là thành
viên của WTO.
2.3 Triển vọng thu hút trong tương lai
Theo Ông Trần Thanh Tân - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý quỹ đầu
tư Việt Nam (VFM): Các chỉ số vĩ mô đều cho thấy kinh tế Việt Nam đang tiếp tục
phục hồi với tốc độ cao hơn: lạm phát tiếp tục thấp và theo đó chính sách tiền tệ vẫn
tiếp tục nới lỏng để ủng hộ xu hướng này, sản xuất tiếp tục mở rộng trong 14 tháng
liên tục, xuất khẩu tăng ấn tượng 14% và ước tính tài khoản vãng lai sẽ thặng dư
khoảng 4,5% trong năm 2014 và 4% trong năm 2015, tốc độ giải ngân vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) mạnh, khoảng 11-12 tỷ USD/năm, và các chỉ số vĩ mô khác đều

cho thấy một bức tranh kinh tế tốt hơn. Thêm vào đó, khu vực doanh nghiệp được dự
báo tiếp tục cải thiện với ước tính lợi nhuận tăng khoảng 10% trong năm 2015. So với
các nước trong khu vực, định giá cổ phiếu của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp và hấp
dẫn. Do đó, tôi tin rằng Việt Nam vẫn tiếp tục thu hút vốn FPI trong thời gian tới, đặc
biệt là từ quý I/2015 khi các biến động dòng tiền toàn cầu có thể thay đổi.
Theo Bà Nguyễn Hoài Thu - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý quỹ đầu
tư VAM Việt Nam (VAM Việt Nam) : TTCK Việt Nam sẽ vẫn là điểm đến hấp dẫn của
dòng vốn ĐTNN trong năm 2015 nếu môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định và
được cải thiện như hiện nay.

18


Hiện tại, tổng vốn hóa và thanh khoản của TTCK Việt Nam vẫn còn khá nhỏ so
với các thị trường khác trong khu vực ASEAN. Việt Nam cần đẩy nhanh và thực hiện
hiệu quả việc CPH DNNN để cải thiện quy mô và thanh khoản của thị trường. Một khi
TTCK Việt Nam được đưa vào chỉ số MSCI châu Á ngoại trừ Nhật Bản (MSCI exJapan) thì các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài rất có thể sẽ điều chỉnh tăng mức phân bổ
danh mục đầu tư cho TTCK Việt Nam

19


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TẠI
VIỆT NAM
3.1 Đầu tư gián tiếp tại Việt Nam qua các giai đoạn:
* Giai đoạn 1992- 1998
Ngay từ những năm đầu của thập niên 90, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện chính
sách mở cửa nền kinh tế, cho ra đời Luật công ty và Luật đầu tư nước ngoài, dòng vốn
FPI đã được đổ vào Việt Nam. Đây được coi là thời kì mở đầu cho dòng vốn FPI vào
Việt Nam theo xu hướng mở cửa và hội nhập, tạo động lực và hy vọng chung cho các

nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này, hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà
đầu tưnước ngoài khá khiêm tốn, chủ yếu là thông qua các quỹ đầu tư. Khi đó, chỉ có
khoảng 70 công ty cổ phần Việt Nam có vốn đầu tư gián tiếp với tổng số vốn khoảng
200 triệu USD. Năm 1997, có 8 quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn
huy động trên 400 triệu USD.
* Giai đoạn 1999- 2002
Thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng của tài chính tiền tệ châu Á, các
dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào châu á bị chững lại và Việt
Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này. Có 6/8 quỹ đầu tư rút khỏi Việt
Nam, 1 quỹ thu hẹp trên 90% qui mô quỹ. Trong suốt thời gian này, hoạt động FPI ở
Việt Nam hết sức mờ nhạt.
* Giai đoạn 2003- 2006
Thời kì phục hồi của dòng vốn FPI vào Việt Nam cùng với xu hướng tăng
cường cải thiện đầu tư, phát triển các định chế thị trường tài chính. Dòng vốn FPI bắt
đầu quay trở lại Thị trường chứng khoánViệt Nam với 13 quỹ mới được thành lập
có tổng quy mô vốn đạt 908 triệu USD. Năm 2006, Việt Nam ra nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) là bước chuyển biến tương đối toàn diện của nền kinh tế
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Cũng năm 2006, Nhà nước ban hành Luật
chứng khoán. Đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam đạt 1.3 tỷ USD, tăng mạnh
so với mức 861 triệu USD của năm 2005 do hoạt động quản lý đầu tư đã thông thoáng
theo hướng nâng tỷ lệ tham gia đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tưnước ngoài lên
49%. Đến tháng 6/2006, đã có 19 Quỹ đầu tư nước ngoài với tổng vốn 1,9 tỷ USD
20


đang hoạt động ở Việt Nam. Trong giai đoạn này các nhà đầu tư thường tập trung vào
thị trường chứng khoán và bất động sản mà ít đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Lý do là các ngành nghề đòi hỏi công nghệ cao chưa được phép gọi vốn từ nhà đầu tư
nước ngoài.
* Giai đoạn 2007-2009

Đây là giai đoạn thị trường chứng khoán của Việt Nam "nóng" lên 1 cách nhanh
chóng và cũng "nguội" ngay lập tức.
Năm 2007, thị trường chứng khoánViệt Nam phát triển cả về số lượng chứng
khoán, số lượng nhà đầu tư và các tổ chức dịch vụ chứng khoán. Nguồn vốn FPI chảy
vào lên đến 6,3 tỷ USD.
Năm 2008, nền kinh tế toàn cầu đối mặt với sự suy thoái và thị trường Việt
Nam cũng chịu những ảnh hưởng nặng nề. Thị trường chứng khoánViệt Nam gặp phải
sự sụt giảm khá sâu về giá trị cổ phiếu, FPI từ tháng 5/2008 đến tháng 3/2009 đã giảm
rõ rệt, các nhà đầu tưrút ra khỏi thị trường Việt Nam. Vốn đầu tư gián tiếp rút ra khỏi
thị trường Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2009 lên tới 600 triệu USD.
Năm 2009, luồng vốn FPI sụt giảm mạnh và giá trị danh mục chỉ còn 3,7 tỷ
USD. Việc huy động vốn qua hị trường chứng khoán cũng giảm 70-80% so với năm
trước. Cũng trong năm 2009, thị trường trái phiếu chính phủ chính thức đi vào hoạt
động. Đến nay, sau 6 năm hoạt động, thị trường trái phiếu chính phủ đã đạt được nhiều
kết quả đáng ghi nhận và trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển, cung cấp công cụ chỉ báo để phục vụ công tác điều hành kinh tế vĩ mô, đặc biệt
là trong việc phối hợp điều hành chính sách tài chính – tiền tệ của chính phủ.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, công tác phát hành trái phiếu chính phủ đã có
những cải cách mạnh mẽ theo hướng chuyên biệt, hướng tới mục tiêu cơ bản lâu dài là
cơ cấu lại nợ công một cách hợp lý và tạo hàng hóa chuẩn cho thị trường tài chính.
Số lượng mã trái phiếu đã được tinh giảm từ mức trên 300 mã xuống còn 90
mã, quy mô bình quân của các mã tăng 6 lần lên 4.000 tỷ đồng, trong đó các mã chuẩn
tăng lên mức 6.000 - 8.000 tỷ đồng, tạo điều kiện để tăng thanh khoản cho giao dịch
trên Trái phiếu chính phủ trên thị trương thứ cấp.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, quy mô thị trường trái phiếu chính
phủ đã tăng từ 9% GDP năm 2003 lên mức 15,5% GDP năm 2013 và đến nay tổng giá
21


trị danh mục Trái phiếu chính phủ đang lưu hành đạt xấp xỉ 680.000 tỷ đồng, tăng hơn

4 lần so với năm 2009 và tương đương 18% GDP. Thanh khoản thị trường cũng được
cải thiện đáng kể, giá trị giao dịch bình quân phiên đã tăng gấp 7,5 lần trong vòng 5
năm, từ 365 tỷ đồng/phiên năm 2009 lên 2.734 tỷ đồng/phiên trong 6 tháng đầu năm
2014. Tỷ lệ doanh số giao dịch thứ cấp so với trái phiếu chính phủ lưu hành theo đó
cũng tăng lên gấp 2,6 lần.
* Giai đoạn 2010 đến nay (cuối năm 2014)
Đến năm 2010, cùng với dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế giới, lượng
vốn FPI vào thị trường chứng khoán Việt Nam tăng mạnh.
Năm 2012 dòng vốn FPI vào thị trường chứng khoánViệt Nam năm 2012 đạt
300 triệu USD, tăng 25% so với năm 2011 và đang tiếp tục tăng trong những tuần đầu
năm 2013.
Tính tới cuối năm 2013, lượng vốn FPI không có biến chuyển lớn với tổng
quy mô vốn cổ phiếu duy trì ròng hơn 1.800 triệu USD, thấp hơn giá trị năm 2012,
trong đó tính riêng giá trị giao dịch trên hai sàn giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư
nước ngoài đã mua ròng khoảng 315 triệu USD (gần 6.650 tỷ đồng).
Dưới đây là 1 số thống kê về nguồn vốn FPI trên thị trường chứng khoán:

Khối lượng giao dịch
1,400,000,000
1,200,000,000
1,000,000,000
800,000,000
600,000,000
400,000,000
200,000,000
300,000,000
250,000,000
200,000,000
150,000,000
100,000,000

50,000,000

22


- (50,000,000)
(100,000,000)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
KLGD Mua
KLGD Bán
KLGD ròng

-

Khốilượnggiao dịchmuavà bánnăm2012lànhiềunhất
Bảng 1: Biểu đồ khối lượng giao dịch mua bán và khối lượng giao dịch ròng trên
thị trường chứng khoán từ 2000 – 2012.

Bảng 2: Biểu đồ khối Giá trị giao dịch mua bán và Giá trị giao dịch ròng trên Thị
trường chứng khoán từ 2000 – 2012
Đến cuối tháng 12/2014, có 43 công ty quản lý quỹ, 85 công ty chứng khoán,
26 quỹ đầu tư hoạt động trên thị trường chứng khoán; tổng giá trị huy động của các
quỹ đầu tư chứng khoán năm 2014 đạt hơn 7.000 tỷ đồng; tổng giá trị danh mục quản
lý của các công ty quản lý quỹ đạt 4,4 tỷ USD. Các công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ, Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường đã thực hiện hầu hết các dịch vụ được
23


Luật Chứng khoán cho phép. Có 673 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên thị
trường chứng khoánvới tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là 425.000 tỷ đồng, tăng

19% so với năm 2013. Giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 31,48% GDP.
Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết trong 9 tháng đầu năm 2014
có cải thiện đáng kể so với cùng kỳ năm 2013, có 87% công ty niêm yết hoạt động có
lãi, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2013; tổng lợi nhuận sau thuế của toàn bộ công ty
niêm yết trong 9 tháng đầu năm 2014 tăng 6,1%. Số lượng tài khoản nhà đầu tư đạt
khoảng 1,37 triệu tài khoản, tăng 6% so với cuối năm 2013.

3.2 Một số quỹ đầu tư tiêu biểu tại Việt Nam
3.2.1 Khái niệm về quỹ đầu tư:
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn
rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại
tài sản khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ
bởi công ty quản lý quỹ,ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.
3.2.2 Một số đặc điểm của QĐT nước ngoài tại Việt Nam:
-

Là quỹ đầu tư tư nhân
Là các quỹ đầu tư dạng đóng
Phương thức đầu tư đa dạng: các quỹ đầu tư bằng cách mua cổ phiếu các công ty, một
số quỹ còn tập trung để có được cổ phiếu kiểm soát của các công ty.
3.2.3 Vai trò của các quỹ đầu tư:
Huy động vốn cho phát triển kinh tế: Để phát triển bền vững rất cần những
nguồn vốn trung và dài hạn. Quỹ đầu tư tạo ra hàng loạt các kênh huy động vốn phù
hợp với nhu cầu của cả người đầu tư lẫn người nhận đầu tư. Các nguồn vốn nhàn rỗi
riêng lẻ trong công chúng do vậy sẽ được tập trung lại thành một nguồn vốn khổng lồ,
thông qua Quỹ đầu tư sẽ được đầu tư vào các dự án dài hạn, đảm bảo được nguồn vốn
phát triển vững chắc cho cả khu vực tư nhân lẫn khu vực nhà nước.
Không những thế, các Quỹ đầu tư còn khuyến khích được dòng chảy vốn nước
ngoài. Đối với luồng vốn gián tiếp, việc đầu tư vào Quỹ sẽ loại bỏ các hạn chế của họ
24



về giao dịch mua bán chứng khoán trực tiếp, về kiến thức và thông tin về chứng khoán
cũng như giảm thiểu các chi phí đầu tư. Đối với luồng vốn đầu tư trực tiếp, Quỹ đầu tư
góp phần thúc đẩy các dự án bằng cách tham gia góp vốn vào các liên doanh hay mua
lại một phần vốn của bên đối tác, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc
thu hồi vốn cũng như tăng được sức mạnh trong nước ở các liên doanh.
Bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư: Đa dạng hoá danh mục đầu tư - phân tán rủi
ro: Việc phân tán rủi ro đối với một khoản tiền khiêm tốn sẽ vấp phải vấn đề trị giá của
các chứng khoán trong danh mục đầu tư, nhất là các chứng khoán đựơc niêm yết trên
sở giao dịch thường được giao dịch theo lô chẵn. Các khoản vốn nhỏ ấy tuy vậy lại có
thể phân tán rủi ro một cách dễ dàng khi chúng được tập trung lại trong một Quỹ đầu
tư. Khi đó tất cả các nhà đầu tư dù lớn hay nhỏ đều được tham gia chung vào mọi dự
án đầu tư của Quỹ, cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận.
Tăng tính chuyên nghiệp trong quản lý và đầu tư: Quỹ đầu tư với các nhà tư
vấn đầu tư chuyên nghiệp, nhân viên có trình độ và kiến thức chuyên sâu, với nguồn
thông tin đa dạng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư riêng lẻ.
Giảm thiểu chi phí do lợi ích về quy mô: Các chi phí về thông tin, chi phí hành
chính, trở ngại lớn đối với các nhà đầu tư riêng lẻ sẽ giảm thiểu khi được xử lý tập
trung. Quỹ với tư cách là nhà đầu tư lớn luôn nhận được các ưu đãi về chi phí giao
dịch cũng như dễ tiếp cận với các dự án hơn.
Tăng tính thanh khoản cho tài sản đầu tư: Việc chuyển đổi tài sản thành tiền
mặt với chi phí thấp nhất trong thời gian ngắn nhất luôn là tiêu chí hàng đầu đối với
mỗi nhà đầu tư. Chứng chỉ Quỹ đầu tư chính là một loại chứng khoán, do vậy, người
đầu tư hoàn toàn có thể mua bán nó trên thị trường chứng khoán hoặc bán lại cho bản
thân Quỹ (nếu là Quỹ đầu tư dạng mở).
Thuận tiện cho người đầu tư: Người đầu tư có thể mua hoặc bán chứng chỉ Quỹ
đầu tư trực tiếp hoặc thông qua môi giới, trung gian. Việc mua bán có thể thông qua
thư tín, điện thoại hay hệ thống mạng máy tính. Các nhà đầu tư có thể thoả thuận với
Quỹ để tái đầu tư tự động (automatic reinvestment) hoặc phân chia lợi nhuận theo từng

thời kỳ. Nhà đầu tư còn được Quỹ cung cấp các dịch vụ như thông tin và tư vấn.
Đối với các doanh nghiệp

25


×