Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa đến đời sống, thu nhập, việc làm của người dân trên đia bàn phường Kim Long, thành phố Huế giai đoạn 2008 – 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.16 KB, 52 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
khu dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Việc sử dụng hợp lý đất đai để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao và
đảm bảo sự phát triển bền vững là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế càng phát triển, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn được đẩy mạnh góp phần làm cho đời sống của người dân từng
bước được cải thiện. Mặt khác, dưới áp lực của sự gia tăng dân số, sự phát triển
kinh tế, quá trình đô thị hoá nông thôn khiến nhu cầu của người dân ngày càng
nâng cao. Từ đó, xuất hiện nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo xu thế
từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp.
Đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ khắp cả nước, sự phát triển các khu công
nghiệp trong thời gian qua đã góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là đối với các tỉnh gần thành phố
lớn, thuận lợi cho giao thông và gần thị trường tiêu thụ lớn... Đặc biệt ở các
vùng ngoại thành và ven đô thị, điều này đang gây ra áp lực ngày càng lớn đối
với đất đai. Áp lực với đất đai là điều không thể tránh khỏi bởi chúng ta chỉ có
thể sử dụng sao cho hợp lí nguồn của cải quốc gia chứ không thể thay đổi quỹ
đất được. Quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất đô thị đã tác động đến
một bộ phận dân cư. Vì vậy, tìm hiểu đời sống, thu nhập, việc làm của những hộ
nông dân chuyển đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp để góp phần cải
thiện thu nhập cho hộ nông dân nhằm giảm nghèo, ổn định và phát triển nông
thôn là một vấn đề quan trọng trong mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế
của đất nước.
Không nằm ngoài xu thế đó phường Kim Long thành phố Huế cũng đang
trong quá trình đô thị hóa, một lượng lớn đất nông nghiệp đã được chuyển sang
đất phi nông nghiệp. Do vậy, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu


người của phường đã bị thu hẹp lại đáng kể, người dân phải chuyển hướng sản
xuất và làm thêm các ngành nghề khác để kiếm sống. Để tìm hiểu tình hình sản
1


xuất, việc làm của họ như thế nào sau khi mất đất, đồng thời việc thu hồi đất để
phát triển công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng đã có những tác động như thế
nào đến đời sống của họ. Tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của
việc thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa đến đời sống, thu
nhập, việc làm của người dân trên đia bàn phường Kim Long, thành phố Huế
giai đoạn 2008 – 2015”.
1.2. Mục đích.
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống thu
nhập và việc làm của người dân ở phường Kim Long, thành phố Huế. Trên cơ sở
đó đề xuất những giải pháp phù hợp giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho
những hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
1.3. Yêu cầu.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã
hộ của phường Kim Long.
- Đánh giá thực trạng thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn phường Kim
Long thành phố Huế.
- Đánh giá phân tích ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời
sông, việc làm thu nhập của người dân trên địa bàn phường Kim Long.
- Bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập và ổn định đời sống của người dân sau khi bị thu hồi đất, phù hợp với
tình hình cụ thể của phường Kim Long.

2



PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp đôi khi còn gọi là đất canh tác hay đất trồng trọt là
những vùng đất, khu vực thích hợp cho sản xuất, canh tác nông nghiệp, bao gồm
cả trồng trọt và chăn nuôi. Đây là một trong những nguồn lực chính trong nông nghiệp.
Phân loại: Việc phân loại tiêu chuẩn theo FAO - Tổ chức Nông lương
của Liên Hiệp Quốc thì phân chia đất nông nghiệp vào các thành phần sau đây:
- Đất canh tác như đất trồng cây hàng năm, chẳng hạn như ngũ
cốc, bông, khoai tây, rau, dưa hấu, loại hình này cũng bao gồm cả đất sử dụng
được trong nông nghiệp nhưng tạm thời bỏ hoang (đất hoang hóa, đất thoái hóa).
- Đất trồng cây lâu năm ví dụ như trồng cây ăn quả.
- Cánh đồng, thửa ruộng và đồng cỏ tự nhiên cho chăn thả gia súc.
Tùy thuộc vào việc sử dụng hệ thống tưới tiêu nhân tạo, đất nông nghiệp
được chia thành đất có tưới tiêu và không tưới tiêu (thường xuyên). Ở các nước
đang khô hạn và bán khô hạn đất nông nghiệp thường được giới hạn trong phạm
vi đất tưới tiêu.
Đất nông nghiệp cấu thành chỉ là một phần của lãnh thổ của bất kỳ quốc
gia, trong đó ngoài cũng bao gồm các khu vực không thích hợp cho nông
nghiệp, chẳng hạn như rừng, núi, và các vùng nước nội địa. Đất nông nghiệp
bao gồm 38% diện tích đất của thế giới, với diện tích đất trồng đại diện cho ít
hơn một phần ba đất nông nghiệp (11% diện tích đất của thế giới).
Tại Việt Nam, đất nông nghiệp được định nghĩa là đất sử dụng vào mục
đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng. Đất nông nghiệp bao
gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm
muối và đất nông nghiệp khác.
* Đất nông nghiệp gồm:
- Đất sản xuất nông nghiệp: Là đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích sản
xuất nông nghiệp. Bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm.

- Đất lâm nghiệp: Là đất có rừng tự nhiên hoặc có rừng trồng, đất khoanh
nuôi phục hồi rừng (đất đã giao, cho thuê để khoanh nuôi, bảo vệ nhằm phục hồi
3


rừng bằng hình thức tự nhiên là chính), đất để trồng rừng mới (đất đã giao, cho
thuê để trồng rừng và đất có cây rừng mới trồng chưa đạt tiêu chuẩn rừng). Theo
loại rừng lâm nghiệp bao gồm: đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản: Là đất được sử dụng chuyên vào mục đích
nuôi, trồng thuỷ sản, bao gồm đất nuôi trồng nước lợ, mặn và đất chuyên nuôi
trồng nước ngọt.
- Đất làm muối: Là đất các ruộng để sử dụng vào mục đích sản xuất muối.
- Đất nông nghiệp khác: Là đất tại nông thôn sử dụng để xây dựng nhà
kính (vườn ươm) và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các
hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất, xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia
súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép, đất để xây dựng
trạm, trại nghiên cứu thí nghiệm nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy
sản, xây dựng cơ sở ươm tạo cây giống, con giống, xây dựng nhà kho, nhà
của hộ gia đình, cá nhân để chứa nông sản, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón,
máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp.
2.2. Vai trò và đặc điểm của đất nông nghiệp
2.2.1 Vai trò của đất trong nông nghiệp.
Đất đai trong nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không
thể thay thế. Đất là thành phần quan trọng của môi trường sống, địa bàn phân bố
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế văn hoá và xã hội. Với sinh vật, đất đai
không chỉ là môi trường sống mà còn là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cây
trồng. Năng suất cây trồng, vật nuôi phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đất đai.
Trên phương diện này, đất đai phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Là
đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình lao động, kết hợp với lao động

sống và lao động quá khứ , đất trở thành một tư liệu sản xuất. Việc quản lý và sử
dụng tốt đất đai sẽ góp phần làm tăng thu nhập, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội.
2.2.2 Đặc điểm đất trong nông nghiệp
Đặc điểm tạo thành: Đất đai là một vật thể tự nhiên mang tính lịch sử
Đất đai là một sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện và tồn tại ngoài ý chí và
sự nhận thức của con người. Song song với quá trình hình thành loài người, đất
đai vẫn tuân thủ các quy luật mà con người không thể can thiệp được ví dụ quá
trình liên tục phong hóa đá, quá trình phong hóa lý học, va đập các viên đá với
nhau...
4


Đất đai gắn liền với con người ngay từ buổi đầu sơ khai do quá trình con
người sử dụng sức lao động của mình tác động vào đất đai nhằm thu lại sản
phẩm. Và chính trong quá trình tác động này con người đã chuyển tải vào đất
đai giá trị sức lao động của mình và làm cho đất đai tham gia vào các mối quan
hệ xã hội. Do vậy lúc này từ một vật thể tự nhiên đất đai đã chuyển dần sang
thành vật thể lịch sử. Tính tự nhiên và tính lịch sử của đất đai luôn luôn tồn tại
bên nhau vì đất đai luôn là một sản phẩm của tự nhiên nhưng lại luôn được tái
tạo bởi sức lao động và tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
Đất đai có độ phì nhiêu: Đây là tính chất quan trọng nhất khiến cho đất
đai khắc hẳn với các tư liệu sản xuất khác. Độ phì là khả năng của đất đai có thể
cung cấp cho cây trồng thức ăn, nước và những điều kiện khác cần thiết cho sự
sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Ở đây đất đai có hai loại độ phì là độ phì tự nhiên và độ phì kinh tế. Độ
phì tự nhiên là kết quả của quá trình hình thành đất lâu dài mà có. Độ thì tự
nhiên đặc trưng bởi các tính chất lý, hóa học và sinh vật trong đất, nó liên quan
chặc chẽ với các điều kiện khí hậu. Độ phì tự nhiên là cơ sở của độ phì kinh tế
nhưng nó chưa phải là chất lượng thực tế của đất vì trong đất có thể có rất nhiều
chất dinh dưỡng nhưng do nhiều nguyên nhân ví dụ như thiếu hoặc thừa ẩm độ,

nhiệt độ...mà lượng dinh dưỡng này tồn tại ở dạng không hấp thụ hoặc khó hấp
thụ được đối với cây trồng.
Độ phì kinh tế là độ phì mà con người có thể khai thác sử dụng được ở
một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất bằng cách gieo trồng
những loại cây trồng khác nhau.
Trong quá trình sản xuất, nhằm tăng hiệu quả kinh tế con người luôn tìm
cách tác động lên các tính chất hóa học, lý học và sinh học của đất để độ phì tự
nhiên chuyển từ dạng độ phì tiểm tàng sang độ phì thực tế (độ phì kinh tế).
Tính giới hạn về số lượng: Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, các tư
liệu sản xuất khác không ngừng được tăng lên về số lượng riêng số lượng của
đất đai (diện tích) bị giới hạn trong phạm vi ranh giới của lục địa. Do là sản
phẩm của tự nhiên, đất đai có tính nguyên thủy là không thể gia tăng về số
lượng. Diện tích của đất đai do kích thước của quả đất quyết định, đất đai có
kích thước như thế nào đã được xác định khi hình thành. Tuy trải qua nhiều lần
tiến hóa địa chất như hoạt động của núi lửa, động đất, hoạt động tạo núi, sự xâm
thực của gió mưa.. và các hoạt động của nhân loại nhưng tất cả các hoạt động
này chỉ làm thay đổi hình thái của đất đai, ảnh hưởng tới chất lượng, còn tổng
5


lượng của đất đai thì không hề thay đổi. Trong khi đó, số lượng của các tư liệu
sản xuất khác sẽ tăng lên cùng với sự gia tăng của quá trình sản xuất, tuy nhiên
cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật con người cũng không thể làm tăng
thêm được diện tích đất đai. Do vậy, việc sử dụng hợp lý, triệt để đất đai và
không ngừng làm tăng thêm hệ số sử dụng đất chính là một trong những biện
pháp vô cùng quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Tính cố định về không gian: Đất là tư liệu sản xuất có vị trí không thể
thay đổi trong không gian. Đây là một tính chất rất đặc thù của đất, làm cho
những mảnh đất ở những vị trí khác nhau có giá trị là không giống nhau.
Tính không thay thế: Trong quá trình sản xuất, con người có thể thay thế

tư liệu sản xuất này bằng tư liệu sản xuất khác, nhưng đất là tư liệu sản xuất
không thể thay thế đặc biệt trong nông lâm nghiệp.
Đất có khả năng tăng tính sản xuất: Trong quá trình sản xuất, mọi tư liệu
sản xuất khác đều bị hao mòn, hư hỏng và dần dần bị đào thải để thay thế vào đó
là một tư liệu sản xuất khác tốt hơn, hiện đại hơn và phù hợp hơn. Riêng đất,
nếu xét về mặt không gian thì đất là tư liệu vĩnh cửu, không chịu sự phái hủy
của thời gian. Hơn nữa, nếu sử dụng đúng và hợp lý độ phì nhiêu của đất không
những bị mất mà còn được nâng cao, cải thiện, do đó đất sẽ tốt lên về mặt chất
lượng. Việc sử dụng đất hợp lý là rất quan trọng, nếu như trong quá trình sử
dụng không chú ý đến việc bảo vệ và cải tạo đất, không chú ý giữ cho các yếu tố
sinh thái trong trạng thái cân bằng động, vi phạm các quy luật sinh thái kinh tế,
có thể làm cho các đặc tính sản xuất của đất bị thoái hóa. Đặc tính này cung cấp
căn cứ khách quan tất yếu cho việc xây dựng phương thức sử dụng hợp lý đất đai.
2.3. Khái niệm thu hồi đất
Thu hồi đất biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai.
Hình thức pháp lý này là một quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về giao đất, cho thuê dất. Biện pháp này thể hiện quyền lực nhà
nước trong tư cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Vì vậy, để
thực thi nội dung này, quyền lực nhà nước được thể hiện nhằm đảm bảo lợi ích
của Nhà nước, của xã hội đồng thời lặp lại trật tự kỷ cương trong quản lý Nhà
nước về đất đai.
Thu hồi đất phải được hiểu dưới các khía cạnh sau đây:
- Là một quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt
quan hệ sử dụng đất của người sử dụng.
6


- Quyết định hành chính thể hiện quyền lực nhà nước nhằm thực thi nội
dung của quản lý nhà nước về đất đai.
- Việc thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc là

biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất
đai của người sử dụng.
Từ đó có thể định nghĩa thu hồi đất như sau: Là văn bản hành chính của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm chấm dứt một quan hệ pháp luật đất đai
để phục vụ lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý hành chính hành vi vi
phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất.
* Các trường hợp thu hồi đất.
Thu hồi đất chủ yếu phục vụ các nhu cầu quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, mục đích công cộng và mục tiêu phát triển kinh tế đồng thời mở rộng
các khả năng cho phép tổ chức kinh tế tìm kiếm mặt bằng tổ chức sản xuất kinh
doanh thông qua việc nhận chuyển nhượng hoặc thuê đất của người sử dụng đất
khác mà không nhất thiết phải dùng biện pháp hành chính là thu hồi đất. Việc
thu hồi đất cần chia thành 3 trường hợp: thu hồi do nhu cầu của Nhà nước, thu
hồi vì các lý do đương nhiên và thu hồi do vi phạm pháp luật đất đai.
Thu hồi do nhu cầu Nhà nước.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nhà nước với tư
cách là chủ đầu tư lớn nhất có nhiệm vụ xây dựng các cơ sở kinh tế, hạ tầng xã
hội, sử dụng đất vào mục đích công cộng, lợi ích của cộng đồng, bảo vệ chủ
quyền quốc gia cùng với các chủ đầu tư khác có nhu cầu sử dụng đất rất lớn.
Trong khi đó, những diện tích Nhà nước có nhu cầu sử dụng lại do những tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân đang có quyền sử dụng do được giao đất, thuê đất, do
nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, vì
lợi ích của xã hội những người đang sử dụng đất phải chấp hành quyết định thu
hồi đất của Nhà nước. Các trường hợp đó là:
- Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh.
- Nhà nước sử dụng đất vào mục đích công cộng, lợi ích quốc gia.
- Nhà nước sử dụng đất vào mục tiêu phát triển kinh tế để xây dựng các
khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Nhà nước thu hồi vì lý do đương nhiên.
Các trường hợp này không xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước cũng

không do việc người sử dụng đất bị mắc lỗi trong quá trình sử dụng mà đơn
7


thuần là các lý do đương nhiên dẫn tới việc Nhà nước thu hồi đất. Đó là các
trường hợp:
- Tổ chức được Nhà nước giao đất khôn thu tiền sử dụng đất, được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân
sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển
đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất.
- Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế.
- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất.
- Đất được nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn
khi hết thời hạn sử dụng đất.
Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai.
Trong quá trình dử dụng đất, người sử dụng do vô ý hoặc cố ý vi phạm
pháp luật đất đai. Các vi phạm này là nghiêm trọng và dẫn tới hậu quả pháp lý là
Nhà nước thu hồi đất với tính cách là một biện pháp chế tài nhằm tước đi quyền
sử dụng đất của người vi phạm. Các trường hợp này gồm:
- Người sử dụng đất sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả.
- Người sủ dụng đất cố ý hủy hoại đất đai.
- Đất được giao không đúng đối tượng và không đúng thẩm quyền.
- Đất bị lấn, chiếm.
- Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối vớ Nhà nước.
- Đất trồng cây hằng năm không được sử dụng trong vòng 12 tháng liền,
đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong 18 tháng, đất trồng rừng không
được sử dụng trong vòng 24 tháng;
- Đất được nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không
được sử dụng trong 12 tháng liền hoặc chậm tiến độ 24 tháng liền so với tiến độ
ghi trong dự án đầu tư.

Các trường hợp nêu trên khi nhà nước thu hồi đất sẽ không được bồi
thường mà còn bị xử lý theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số
182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
2.4. Cơ sở pháp lý của việc thu hồi đất
- Luật Đất Đai, 2003. Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc Gia Hà Nội - 2003.
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai
8


- Nghị định 197/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP, ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị
định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP, ngày 25/05/2007 của Chính phủ, quy định
bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai
- Nghị định 69/2009/NĐ-CP, ngày 13/08/2009 của Chính phủ quy định bổ
sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
- Thông tư 116/2004/TT-BTC, hướng dẫn thực hiện Nghị định số
197/2004/NĐ-Chính phủ ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .
- Thông tư 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên
Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ
tục thu hồi đất, giao đất,
- Thông tư 06/TT-BTNMT, ngày 02/07/2007 của Bộ Tài nguyên Môi
trường về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP

ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử đụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hổ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại.
2.5. Sự cần thiết của việc thu hồi đất
Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội đất nước, Nhà nước đã
tiến hành thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án phát triển.
Việc thu hồi đất có rất nhiều mặt thuận lợi: phát triển công nghiệp của địa
phương đã góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.Thu hút đầu tư,
đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào địa phương, sẽ có nhiều công nghệ mới được
mở rộng. Đồng thời cũng tạo nhiều việc làm mới với thu nhập ổn định hơn so
với làm nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của hộ. Bên cạnh đó, số lượng lao động nông nghiệp chuyển
sang lao động phi nông nghiệp có xu hướng tăng, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng tích cực, phù hợp định hướng phát triển đất nước. Khu
công nghiệp đòi hỏi lao động có trình độ kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới,
9


góp phần đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam để hình thành đội ngũ lao động của
nền công nghiệp hiện đại.
2.6. Khái niệm đô thị hóa
Đô thị hóa là một xu thế tất yếu, đó là một quá trình phát triển của xã hội
mang tính chất toàn cầu và diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia trên
toàn thế giới, không một quốc gia nào đạt mức tăng trưởng cao mà không trải
qua quá trình đô thị hóa.
Đô thị hóa chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, có nhiều khái niệm đô thị hóa đứng dưới nhiều quan điểm khác nhau.
Trên quan điểm một vùng: Đô thị hóa là một quá trình hình thành, phát
triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hóa là một quá trình biến đổi về

sự phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải
đô thị thành đô thị.
Một số khái niệm khác:
Đô thị hóa là quá trình tăng tỷ lệ dân thành thị so với tổng số dân, mở
rộng quy mô các thành phố và sự lan tỏa lối sống thành thị về nông thôn.
Đô thị hóa là một quá trình phát triển về dân số đô thị, số lượng và quy
mô của các đô thị cũng như về điều kiện sống đô thị hoặc theo kiểu đô thị.
Trong quá trình phát triển của đô thị hóa đều có sự phát triển về lượng và chất
của các đô thị, kể cả đối với các điểm dân cư nông thôn ( cơ cấu kinh tế, cơ cấu
sản xuất, cơ cấu dân cư và nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức xã hội và không gian
quy hoạch – kiến trúc, hình thái xây dựng,…).
Đô thị hóa là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô
thị. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hóa cũng
thay đổi, đặc biệt là thay đổi cơ cấu dân cư và xã hội sẽ phát triên trong những
điều kiện mới.
Đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình thành
nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời sống.
Các khái niệm đô thị hóa được đề cập có thể chưa giống nhau nhưng dễ nhận
thấy rằng, đô thị hóa được đặc trưng bởi một số yếu tố:
Thứ nhất: đô thị hóa làm dân cư của đô thị tăng lên. Sự tăng lên này do 3
nguyên nhân chính là sự gia tăng tự nhiên của dân số đô thị, quá trình di dân từ
nông thôn ra thành thị và sự điều chỉnh địa giới hành chính lãnh thổ của đô thị.
10


Thứ hai: đô thị hóa làm mở rộng không gian đô thị, không gian kiến trúc,
quá trình này làm tăng quy mô diện tích và mật độ xây dựng của đô thị, có thể
thông qua việc đô thị này sát nhập vào đô thị khác, cũng có thể mở rộng đô thị
ra khu vực ngoài thành hoặc lân cận.
Thứ ba: đô thị hóa làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phi nông

nghiệp hóa và thay đổi lối sống theo kiểu đô thị hóa, qua quá trình đô thị hóa có
thể hình thành nên đô thị mới hoặc không.
Trong quá trình đánh giá quá trình đô thị hóa, người ta thường sử dụng
các chỉ tiêu là tỷ lệ (còn gọi là mức độ) đô thị hóa và tốc độ đô thị hóa. Theo
Điểm b, Khoản 2, Điều 2 của Thông tư số 34/2009/TT-BXD của Bộ Xây dựng
ngày 30/9/2009 quy định chi tiết một số nội dung của Nghị định số 42/2009/NĐCP về việc phân loại đô thị, tỷ lệ và tốc độ đô thị hóa được hiểu như sau:
Tỷ lệ đô thị hóa là chỉ tiêu thể hiện sự phát triên mở rộng của đô thị, được
xác định bằng tỷ lệ dân số khu vực nội thành, nội thị so với tổng dân số toàn đô thị.
Tỷ lệ đô thị hóa là chỉ tiêu thể hiện sự tăng trưởng của đô thị thông qua
các chỉ tiêu về dân số đô thị hoặc đất đai đô thị theo thời gian (01 năm hoặc một
khoảng thời gian nhất định).
2.7. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến sự phát triển của địa phương.
* Ảnh hưởng tích cực
Quá trình đô thị hoá làm cho đất đai thu hẹp dần. Tuy nhiên, bên cạnh
những ảnh hưởng tiêu cực còn có những mặc tích. Để có thể thấy được các tác
động của quá trình đô thị hóa, ta sẽ xem xét vấn đề này trên nhiều khía cạnh
như: về kinh tế, chính trị, về cơ sở hạ tầng và về văn hoá xã hội.
- Về kinh tế: Mặc dù bị mất đất kéo theo tình trạng thất nhiệp ngày một
tăng nhưng đó chỉ là một mặt của vấn đề. Có thể dễ dàng nhận thấy ngay được
rằng đô thị hoá đã mang lại cho địa phương một diện mạo kinh tế mới như: xuất
hiện các khu công nghiệp tập trung, nhiều nhà máy được xây dựng lên...một số
lao động được giải quyết việc làm ngay tại địa phương mình nên có điều kiện rất
thuận lợi. Mặt khác, do có nhiều khu công nghiệp nên thu hút được lao động của
cả những địa phương khác tạo ra lợi thế so sánh cho chính các vùng này so với
các vùng xung quanh, nhu cầu về nhà ở cho thuê cũng tăng tạo ra các dịch vụ về
nhà ở và dich vụ ăn uống phát triển góp phần làm tăng thu nhập của những hộ
dân bị mất đất và giải quyết được tình trạng thất nghiệp tạm thời khi họ nhận
được tiền từ việc bị thu hồi đất mà chưa biết làm gì để chuyển đổi nghề nghiệp.
11



Một ưu điểm nữa đó là cơ cấu các ngành kinh tế đang dần có những chuyển biến
tích cực theo xu hướng chung: tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ,
giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Nói chung trong tương lai thì tỷ trọng lao
động phi nông nghiệp sẽ cao hơn hiện tại.
- Về chính trị: Tình hình chính trị tại địa phương cũng có nhiều nét mới.
Đô thị hoá là một quá trình chuyển đổi từ những cái cũ sang cái mới, từ nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ lạc hậu đến hiện đại và văn minh, vì thế
những yêu cầu trong công tác chính trị cũng cần được thay đổi cho phù hợp với
sự thay đổi của cả vùng để quản lý tốt việc phát triển địa phương trong quá trình
đô thị hoá. Cụ thể là địa phương đã và đang hoàn thiện về công tác Đoàn thể,
công tác Đoàn Thanh niên xây dựng và củng cố chính quyền địa phương vững
mạnh để đối phó với các vấn đề nảy sinh trong quá trình đô thị hoá
- Về cơ sở hạ tầng: Do được sự đầu tư mạnh mẽ của các đơn vị đầu tư vào
việc xây dựng các khu công nghiệp mà vấn đề giao thông và hệ thống cấp thoát
nước, lưới điện là vấn đề cấp bách mang tính sống còn đối với các doang nghiệp
nên hệ thống cơ sở hạ tầng ở đây rất phát triển. Hệ thống đường giao thông nông
thôn trước kia toàn là đất đá không đảm bảo về mặt kỹ thuật thì giờ đây hầu hết
những tuyến giao thông trong địa phương đã được bê tông hoá hoàn toàn, điện
và nước máy sạch được cung cấp đến từng hộ dân, dân cư tập trung đông ở
quanh các cụm công nghiệp kéo theo dịch vụ về nhà ở, ăn uống, giải trí...phát
triển mạnh mẽ. Nhà ở cố định và các công trình kiến trúc phục vụ đời sống dân
cư được tạo ra ngày càng nhiều, đặc biệt là cỏ sở hạ tầng thông tin như: trường
học, bệnh viện, dịch vụ internet, khách sạn, nhà nghỉ, bưu điện, công viên... Cơ
sở hạ tầng không những được đầu tư nhiều mà còn thể hiện được tính quy hoạch
dài hạn trong tương lai.
- Về văn hoá-xã hội: Các hoạt động văn hoá ngày càng đa dạng và phong
phú, đưa các chương trình văn nghệ quần chúng vào phong trào chung của mỗi
làng, xóm, thôn, xã, thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư, tăng cường kiểm tra các hoạt động văn hoá. Xây

dựng phong trào thể dục thể thao quần chúng rộng khắp, đào tạo và bồi dưỡng
được một số môn có thành tích cao là thế mạnh của địa phương; quy hoạch, xây
dựng từng bước sân vận động, sân thể thao. Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự
phòng, xây dựng, nâng cấp và trang bị đủ trang thiết bị cho trạm xá xã theo tiêu
chuẩn quy định. Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, phòng
chống dịch bệnh, giải quyết tốt vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm;
thực hiện tốt chính sách hỗ trợ y tế cho các xã nghèo, đảm bảo công bằng trong
12


khám chữa bệnh cho nhân dân. Thực hiện tốt chương trình dân số - kế hoạch
hoá gia đình, tăng cường công tác truyền thống, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ
sinh. Thực hiện các giải pháp tăng nhanh khả năng thu hút lao động đi đôi với
điều chỉnh từng bước cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân chuyển giao kỹ thuật sản xuất mới, phát
triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Mở rộng hình thức
đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn. Lồng ghép có hiệu quả các chương trình
mục tiêu quốc gia, huy động tốt các nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc
biệt khó khăn, các xã nghèo; tăng vốn tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo, vốn
giải quyết việc làm, tiến hành xây dựng một số mô hình xoá đói giảm nghèo,
thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với hộ nghèo. Tăng cường các biện pháp
trấn áp mạnh mẽ, tạo ra những chuyển biến lớn trong công tác phòng chống tệ
nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm; phát động phong trào toàn dân tham
gia phòng chống các tệ nạn xã hội, truy quét mạnh các ổ, nhóm, tổ chức tội
phạm liên quan tới ma tuý, mại dâm.
* Ảnh hưởng tiêu cực.
- Vấn đề thất nghiệp
Quá trình đô thị hóa phát triển ngày càng nhanh, lượng lao động di cư vào
các đô thị ngày càng lớn, mặc dù quá trình đô thị hóa góp phần giải quyết nhiều
công ăn việc làm cho người lao động nhưng vẫn còn nhiều người trong số họ

không tìm được việc làm, thất nghiệp và trở thành gánh nặng cho xã hội.
Nguyên nhân là do nền kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập đã có
những yêu cầu cao hơn và cạnh tranh giữa những đơn vị kinh tế cũng gay gắt
hơn. Các công ty, đơn vị kinh tế muốn tồn tại và phát triển mạnh thì hàng hóa
cũng phải có chất lượng và sức cạnh tranh cao, để đáp ứng yêu cầu này thì đòi
hỏi họ phải có đội ngũ lao động có trình độ. Nhiều người lao động nhập cư chưa
qua trường lớp đào tạo bài bản nên khó đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển
dụng. Khi không đáp ứng được yêu cầu đó, rất nhiều người trong số họ đã
không tìm được việc làm như mong muốn.
Một nguyên nhân nữa là nhiều người mặc dù đã tìm được việc làm nhưng
do những biến động của nền kinh tế thế giới như khủng hoảng kinh tế, một số
công ty, xí nghiệp bị phá sản hoặc tinh giảm lao động để giảm chi phí sản xuất
nhằm đáp đứng vững trước khó khăn, nhiều người lao động sẽ bị đào thải và trở
thành những người thất nghiệp, phải kiếm sống bằng những công việc tạm bợ.

13


- Hệ thống giao thông chậm phát triển, tắc đường thường xuyên xảy ra
Đô thị hóa dẫn đến sự tăng lên đột biến của dân số đô thị, nhu cầu vận
chuyển và đi lại ngày càng cao, số lượng phương tiện tham gia giao thông tăng
đột biến đã làm cho cơ sở hạ tầng giao thông đã có bị lạc hậu nhanh chóng và
không theo kịp với yêu cầu của thực tiễn. Vì lý do đó, tình trạng tắc đường
thường xuyên xảy ra vào những giờ cao điểm tại các đô thị lớn, đặc biệt là Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, gây khó khăn cho sinh hoạt của người dân cũng
như các hoạt động khác của nền kinh tế - xã hội đô thị. Mặt khác, hệ thống giao
thông xuống cấp, phương tiện tham gia giao thông tăng đột biến và ý thức người
tham gia giao thông chưa cao đã làm cho tình trạng tai nạn giao thông diễn biết
rất phức tạp.
- Ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng

Sự phát triển của các hoạt động sản xuất cùng với ý thức sinh hoạt của
người dân trong quá trình đô thị hóa đã làm cho môi trường đô thị bị ô nhiễm
ngày càng trầm trọng, đe dạo sức khỏe và sinh hoạt của người dân đô thị.
Ô nhiễm tiếng ồn do các hoạt động công nghiệp và các phương tiện giao
thông gây ra làm ảnh hưởng khá lớn đến sức khỏe thần kinh của người lao động
và người dân.
Ô nhiễm không khí nặng nề do các hoạt động sản xuất công nghiệp và các
phương tiện giao thông gây ra, môi trường không khí chứa đựng nhiều khí độc,
trở thành “kẻ giết người thầm lặng” với khoảng 2 triệu người trên toàn thế
giới/năm (theo Tổ chức khí tượng thể giới WTO).
Ô nhiễm nguồn nước thải và rác thải ở các đô thị, đặc biệt là ở các đô thị
lớn là rất trầm trọng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, là một nguyên
nhân làm cho con người mắc phải các bệnh hiểm nghèo, trong đó có ung thư.
- Đô thị gây sức ép về chất lượng giáo dục, y tế
Sự tăng lên đột biến về dân số trong quá trình đô thị hóa kéo theo việc
tăng số người trong độ tuổi đến trường tại các đô thị. Số lượng người đi học tăng
cao đã dẫn đến tình trạng thiếu chỗ học hoặc quá tải tại một số trường, lớp học...
từ bậc học mầm non đến bậc học phổ thông. Tình trạng quá tải tại các trường
công dẫn đến sự ra đời của các trường tư thục hoặc tự mở lớp tại nhà (đối với
mầm non), gây sức ép lớn cho ngành giáo dục và chính quyền đô thị trong việc
quản lý quy trình, chất lượng đào tạo và các yêu cầu liên quan khác.

14


Dân số tăng nhanh do quá trình đô thị hóa kéo theo hàng loạt vấn đề về y
tế và an ninh xã hội. Môi trường ô nhiễm, điều kiện sống và sinh hoạt thiếu
thốn, lao động vất vả... là các nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc bệnh tật.
Nhiều ổ dịch bùng phát ở các đô thị nước ta chủ yếu bùng phát ở những khu vực
có điều kiện sống thiếu thốn, tạm bợ... qua đó gây áp lực cho ngành y tế. Hiện

nay, nhiều bệnh viện trong các đô thị luôn trong tình trạng quá tải, nhất là về
mùa hè khi các dịch bệnh có nhiều điều kiện để bùng phát và gây hại.
- Các tệ nạn xã hội gia tăng
Tình trạng các tệ nạn xã hội ngày càng có xu hướng gia tăng và để lại hậu
quả ngày càng nghiêm trọng hơn. Đô thị hóa là một trong các nguyên nhân làm
gia tăng vấn đề này. Việc phát triển kinh tế ở các đô thị đã thu hút rất đông đúc
các lao động nhập cư đổ về đây làm việc, bệnh cạnh đó các loại tội phạm như
ma túy, mại dâm, cướp giật, cờ bạc, đánh nhau,... cũng tăng theo. Nguyên nhân
này có thể là do một số thành phần dân di cư và dân bản địa sống buông thả
hoặc không có việc làm, sống thích hưởng thụ nên dễ sa ngã vào con đường
phạm pháp và là các đối tượng để bọn buôn ma túy lợi dụng khai thác để thu lại
lợi nhuận cho chúng. Các vũ trường, các cơ sở kinh doanh Karaoke, một số
khách sạn, cơ sở massage... trở thành những điểm tụ ăn chơi trác táng của một
số bộ phận dân cư, trong đó phần nhiều là thanh niên.
2.8. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong vấn đề thu hồi đất đai
và giải quyết vấn đề sau khi mất đất
* Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một nước ở Đông Nam Á có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển nông nghiệp: điều kiện tự nhiên, diện tích canh tác bình quân đầu người
cao. Những năm 50, 60 Thái Lan thực hiện công nghiệp hóa tập trung vào đô thị
nhưng không hiệu quả, nông nghiệp bị trì trệ. Sau đó Thái Lan đã kịp thời
chuyển hướng, tiến hành công nghiệp hóa cả ở đô thị và nông thôn theo hướng
xuất khẩu. trình công nghiệp hóa nông thôn cũng đồng thời với chuyển đổi đất
đai. Đất nông nghiệp bị cắt sang các loại đất khác nên cũng bị giảm diện tích.
Để đáp ứng nhu cầu trong nước, Thái Lan vừa chủ trương mở mang xây dựng
khu công nghiệp, vừa tập trung vào phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá
xuất khẩu, phát triển ngành nghề dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Từ đó đã đưa
nước này xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Bên cạnh sản xuất lúa hàng hoá, Thái
Lan còn chú trọng phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, tiêu biểu là cây mía
nguyên liệu. Diện tích mía nguyên liệu được cơ giới hoá 100%, chuyển giao và

15


ứng dụng trong khâu chế biến. Máy móc trong nông nghiệp tăng nhanh, chi phí
lao động giảm, năng suất lao động cao.
Ngoài những chủ trương trên, Thái Lan còn quan tâm đến hỗ trợ, cung
cấp tín dụng, bồi dưỡng tay nghề, đào tạo cho công nhân, tạo hợp đồng giữa
công nghiệp và nông nghiệp. Nhờ vậy mà nông nghiệp Thái Lan mặc dù giảm
về diện tích nhưng lại phát triển về chiều sâu, nên năng suất và sản lượng đều
cao. Tất cả những đường lối đúng đắn trong công nghiệp hóa đó đã làm cho
khoảng cách nông thôn và thành phố Thái Lan thu hẹp đáng kể.
* Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc vạch ra đường đỏ về đất đai đến năm 2020 là đất dành cho
nông nghiệp 180 triệu mẫu. Đây là đất " bờ xôi ruộng mật " chỉ để phát triển
nông nghiệp, không được xâm phạm nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Việc
này được Quốc vụ thông qua thành luật. Việt Nam hiện nay vẫn mất đất nông
nghiệp, do quyền quyết định ở các tỉnh mặc dù Bộ Tài nguyên môi trường quy
hoạch và quản lý, Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn lo về sản xuất.
Trung Quốc có những vùng thực hiện chính sách tích tụ ruộng đất, không
hạn điền, giúp hình thành những trang trại lớn.Song, thực sự trang trại đó không
phải là những động lực chính để nông nghiệp phát triển mà nhờ chính sách tập
trung và chính sách xây dựng doanh nghiệp đầu rồng về chế biến sản phẩm chăn
nuôi, trồng trọt cho người dân.Tất nhiên, trong quá trình phát triển, nước này
cũng không tránh khỏi các vấn đề bức xúc về đất đai, như có chia lại hay không,
có nên tích tụ không? Một số nơi đã thử nghiệm 80% đất chia lại, 20% để lại là
đất tập thể.
Nhưng Trung Quốc có chính sách rõ ràng về đất đai. Khi thu hồi đất nông
nghiệp của người dân làm các công trình công cộng phúc lợi như nhà trẻ, mẫu
giáo thì áp giá Nhà nước, còn giao cho doanh nghiệp thì bắt buộc áp dụng giá
đất theo cơ chế thị trường. Tức là, doanh nghiệp và người dân đàm phán với

nhau.Chỉ khi nào tất cả người dân vùng đó ký giao đất thì doanh nghiệp mới
được triển khai dự án.
* Kinh nghiệm của Nhật Bản
Việc chuyển đổi đất từ nông nghiệp sang xây dựng khu công nghiệp của
Nhật Bản diễn ra mạnh mẽ sau năm 1945, khi chính phủ Nhật chủ trương công
nghiệp hóa nông thôn. Bên cạnh những khoản đền bù cho nông dân có ruộng rơi
vào khu chuyển đổi, chính phủ còn đẩy mạnh công nghiệp nông thôn bằng cách
khuyến khích phát triển xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ cùng với những cơ sở
16


công nghiệp gia đình. Ở những xí nghiệp này nông dân không cần đòi hỏi trình
độ kỹ thuật cao chỉ cần đào tạo trong một thời gian ngắn là đủ đảm nhận công
việc.Ngoài ra ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cũng được khuyến khích phát
triển. Năm 1970, Nhật Bản có phong trào " mỗi làng một sản phẩm ", nhằm khai
thác ngành nghề truyền thống nông thôn và đã đạt được nhiều thành tựu. Từ đó
nâng cao thu nhập cho người dân, giải quyết lao động dư thừa, hạn chế tệ nạn xã
hội góp phần làm thay đổi bộ mặt của nông thôn Nhật Bản.
* Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là nước có mật độ dân số đông nhất, địa hình chủ yếu là đồi
núi, chỉ có 1 phần 5 là đất đai trồng trọt. Năm 1994, tổng diện tích đất đai toàn
quốc và diện tích đất trồng trọt tính theo đầu người chỉ tương đương 0,22 ha.
Bùng nổ dân số làm cho tỷ lệ này ngày càng thấp nên việc tận dụng đất đai tối
ưu có một ý nghĩa sống còn đối với Hàn Quốc.
Bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ 60, chính sách nông nghiệp của Hàn
Quốc tập trung tăng sản xuất lúa gạo nhằm đạt mục tiêu tự cung, tự cấp. Một
mặt, Chính phủ mở rộng những cánh đồng lúa bằng các biện pháp khai hoang,
canh tác và cải tạo, biến những cánh đồng khô thành những cánh đồng lúa. Mặt
khác gần đây bằng biện pháp quy hoạch "diện tích đất trồng trọt tuyệt đối" và
"diện tích đất trồng trọt tương đối" Chính phủ Hàn Quốc ngăn cấm biến đất

trồng trọt thành đất phi nông nghiệp hay được sử dụng xây dựng các khu đô thị,
khu công nghiệp. Nghiêm cấm sử dụng những cánh đồng lúa thuộc phạm vi diện
tích đất trồng trọt tuyệt đối cho mục đích phi nông nghiệp như xây dựng các khu
công nghiệp, là đường và xây dựng đô thị. Còn đối với diện tích đất trồng trọt
tương đối có thể được dùng cho các mục đích khác tuỳ thuộc vào Chính quyền
điạ phương.Song được quy định rất chặt. Nhờ đó, từ năm 1970 đến năm 1983,
diện tích những cánh đồng lúa được cải thiện mở rộng. Điều này đã góp phần rất
lớn trong việc tạo sự ổn định và tăng tính bền vững về sinh kế của người nông
dân Hàn Quốc.
2.9. Tình hình nông dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay
Hiện nước ta có 9,42 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó đất trồng lúa 4,1
triệu ha. Nông dân ước khoảng 60 triệu người (trên tổng số 86 triệu dân), như
vậy bình quân đất canh tác là 480m2/người, chỉ bằng 1/4 của nông dân Thái
Lan. Trước làn sóng công nghiệp hóa, đô thị hoá của thời hội nhập, diện tích đất

17


canh tác ngày càng thu hẹp và chắc hẳn số "nông nhàn vĩnh viễn" sẽ ngày càng
đông hơn.
Chỉ tính từ 5 năm trở lại đây, theo báo cáo của 49 tỉnh, thành phố (số còn
lại không báo cáo) đã lấy đi 750.000 ha đất để thực hiện 29.000 dự án đầu tư,
trong đó có tới 80% là đất nông nghiệp. Khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm mỗi năm hai vụ lúa. "Phong trào"
xây sân golf dồn dập trong hai năm nay, nếu như trong 16 năm chỉ cấp phép cho
34 dự án sân golf, thì có 2 năm (2006- 2008) đã cấp 104 dự án, tức là cứ bình
quân một tuần lại "mọc" 1 sân golf mới. Hiện cả nước có 141 sân golf ở 39 tỉnh,
thành, sử dụng tới 49.268 ha.
Điều tra mới đây của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tại 16 tỉnh,

thành trọng điểm, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm khoảng 89%, hầu
hết là đất lúa, với diện tích như vậy, mỗi năm có thể làm giảm sản lượng trên 1
triệu tấn lúa. Lâu nay vẫn tồn tại một thực trạng đáng buồn là, đất bị thu hồi
không được sử dụng ngay mà bỏ hoang hoá, gây lãng phí rất lớn
Việc chuyển mục đích sử dụng đất đã gây xáo trộn, ảnh hưởng lớn đến
đời sống trước mắt cũng như về lâu dài của một bộ phận đông đảo nông dân
nước ta. Chỉ tính trong 5 năm (2003-2008) đất thu hồi làm dự án đầu tư đã tác
động trực tiếp đến 627.000 hộ gia đình, với khoảng 2,5 triệu người. Điều tra
thực tế cho thấy: 67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ, chỉ có
13% chuyển nghề mới và có tới 25-30% nông dân không có việc làm, hoặc có
nhưng không ổn định. 53% hộ nông dân bị thu hồi đất thu nhập bị giảm so với
trước, chỉ có 13% là tăng hơn trước. Trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao
động bị thất nghiệp và mỗi ha đất bị thu hồi làm mất việc của 13 lao động.
Nhiều địa bàn có tới hàng ngàn lao động bị mất việc, nhưng chỉ có 10-20 người
là đã qua đào tạo nghề mới. Những năm qua Chính phủ đã có nhiều chính sách
ưu tiên giải quyết việc làm cho nông dân vùng dự án, nhưng mỗi năm chỉ giải
quyết được khoảng 55.000 người trong tổng số lao động mất việc.
Rõ ràng việc ổn định đời sống, tìm việc làm cho người nông dân sau khi
thu hồi đất là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Để giải quyết thoả đáng một bài
toán kinh tế-xã hội phức tạp, trước hết quy hoạch phải được tính toán, cân nhắc
cẩn trọng, sao cho hợp lý tối đa sử dụng đất, không tác động xấu cho môi
trường, dân sinh. Công khai, minh bạch trong các quy hoạch và "dân biết, dân
bàn, dân kiểm tra" sẽ góp phần quan trọng tránh được nhiều tiêu cực nảy sinh
trong quá trình hình thành, thực thi các dự án.Có biện pháp xử lý kịp thời,
18


nghiêm khắc với cá nhân, tập thể để lãng phí đất, không đưa vào sử dụng ngay,
hoặc để dự án "treo".Nhà nước tích cực hỗ trợ nông dân tận dụng hết quỹ đất
còn lại của họ và cũng phải quản lý việc dồn điền đổi thửa những khu đất canh

tác này. Bên cạnh đó, có chính sách ưu tiên đào tạo hướng nghiệp, chú trọng đào
tạo tại chỗ cho người nông dân theo hướng thâm canh hiện đại, mang lại thu
nhập thuần nông cao hơn hẳn trước. Kinh nghiệm ở nhiều nơi cho thấy, quỹ đất
10% giao cho các hộ làm dịch vụ, cũng phải có quy định, hướng dẫn cụ thể, tốt
nhất tìm cách liên kết các hộ, thành lập các tổ hợp, hợp tác xã dịch vụ hỗ trợ cho
chính các khu công nghiệp, đô thị hoặc du lịch bên cạnh, tạo sự phát triển hài
hoà cho cả hai phía.

19


PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình thu hồi đất nông nghiệp và
các hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn phường Kim Long, thành
phố Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn phường Kim
Long thành phố Huế.
- Phạm vi thời gian: 01/04/2015 đến 15/08/2015.
- Phạm vi số liệu: Đề tài sử dụng số liệu từ năm 2008 đến năm 2015 để
nghiên cứu.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Khái quát về điều kiện tự nhiên - Kinh tế - Xã hội phường Kim Long,
thành phố Huế.
- Nghiên cứu thực trạng thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn phường Kim
Long giai đoạn 2008 – 2015.
- Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống, thu

nhập, việc làm của người dân.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất và ổn định đời
sống cho người dân.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp: Qua sách báo, tạp chí có liên quan, Internet. Các số liệu
về dân số, lao động, tình hình đất đai của phường qua ban thống kê, phòng địa
chính phường. Số liệu do nghiên cứu của các công trình đã công bố.
- Số liệu sơ cấp: Tiến hành phỏng vấn 56 hộ gia đình bị thu hồi đất nông
nghiệp ở phường Kim Long. Được chia thành 2 nhóm: nhóm 1 là 19 hộ gia đình

20


có tỷ lệ thu hồi đất dưới 50%, nhóm 2 là 37 hộ gia đình có tỷ lệ thu hồi đất trên
50%.
* Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu điều tra và thu thập được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel.
* Phương pháp phân tích số liệu
Thống kê mô tả: Sử dụng chỉ tiêu về số bình quân, số tương đối, số tuyệt
đối. Từ đó mô tả và phân tích để tìm ra đặc điểm của mẫu đã điều tra.
Thống kê so sánh: Dùng để so sánh các chỉ tiêu của năm trước và năm
sau, qua đó hiểu và làm rõ biến động của các chỉ tiêu đó.

21


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, Kinh tế - Xã hội của phường Kim Long.

4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Phường Kim Long là một phường nằm ở phía Tây của Thành phố Huế,
bên bờ Bắc của sông Hương.

+ Phía Đông giáp phường Phú Thuận
+ Phía Tây giáp phường Hương Long
+ Phía Nam giáp sông Hương - phường Phường Đúc
+ Phía Bắc giáp phường An Hòa
4.1.1.2.Địa hình, đại mạo
Địa hình của phường Kim Long tương đối bằng phẳng, độ nghiêng mặt
đất phổ biến từ 0,0005 đến 0,001. Do nằm ở vị trí có nhiều sông chảy qua nên
đất đai màu mỡ, được bồi tụ phù sa hàng năm do những trận lũ lớn miền Trung.

22


4.1.1.3. Khí hậu
Phường Kim Long nằm trong vùng khí hậu miền Trung, có hai mùa rõ rệt.
Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa.
- Chế độ nhiệt: Theo tài liệu đo đạc của trạm khí tượng, nhiệt độ ở Huế
thuộc vùng tương đối cao, trung bình hằng năm từ 21 0C đến 260C có thể so sánh
theo bảng dưới :
Bảng 4.1: Các đặc trưng nhiệt độ của Huế so với tiêu chuẩn
Các đặc trưng
Nhiệt độ TB năm
Số tháng có NĐTB<210C
NĐTB tháng lạnh nhất

Nhiệt độ tiêu chuẩn

Trên 210C
Dưới 4 tháng
Trên 180C

Huế
25.20C
Không có
200C

Từ bảng tiêu chuẩn trên cho thấy vùng đồng bằng Thừa Thiên Huế mang
tính điển hình của chế độ nhiệt đới.
Nhiệt độ Thừa Thiên Huế biến đổi theo địa hình rất rõ nét, ở độ cao trên
500m, nhiệt độ giảm dần ở đồng bằng có độ cao dưới 100m.
- Độ ẩm: Độ ẩm tương đối lưu vực sông Hương khá lớn, giá trị trung bình
nhiều năm đạt 84-85%.
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình khoảng 2500mm/năm. Mùa mưa
bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, tháng 11 có lượng mưa lớn nhất, chiếm
tới 30% lượng mưa cả năm.
- Bốc hơi: Bốc hơi bình quân năm dao động từ 900-1000mm .Lượng bốc
hơi cao nhất tập trung vào mùa khô chiếm 75-80% tổng lượng bốc hơi năm.
- Chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính:
Gió mùa Tây Nam: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, gió khô nóng, bốc hơi
mạnh gây khô hạn kéo dài.
Gió mùa Đông Bắc: Bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, gió thường
kèm theo mưa làm cho khí hậu lạnh, ẩm, dễ gây lũ lụt.
- Nắng : Lưu vực sông Hương có số giờ nắng trong năm nhiều và không
đều tại trạm khí tượng Huế trung bình hàng năm có 1917 giờ nắng
4.1.1.4. Thủy văn
Việc tiêu thoát nước của phường phụ thuộc vào chế độ thủy văn của các
sông Vạn Xuân, sông Bạch Yến và sông Hương. Về mùa mưa lũ thường có sự

kết hợp của lũ và triều cường gây ra ngập úng tại một số khu vực trong phường.
23


4.1.1.5. Thổ nhưỡng
Toàn bộ đất đai của phường do phù sa sông của 3 con song chảy qua địa
bàn là sông Hương, sông Vạn Xuân, sông Bạch Yến bồi đắp, nhìn chung đất đai
của phường khá thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Ruộng đất của
phường có màu nâu nhạt, thành phần cơ giới trung bình, đất thịt pha cát có độ
PH > 5.5 thành phần cơ giới thịt nặng và trung bình có PH < 4.5 – 5.5.
4.1.1.6. Các nguồn tài nguyên
* Tài nguyên nước.
Nguồn nước mặt: Trên địa bàn phường Kim Long nguồn nước mặt chủ
yếu là ở các sông như sông Bạch Yến, sông Hương, sông Vạn Xuân. Đây là
nguồn cung cấp nước chính cho địa bàn.
Nước ngầm: Nguồn nước ngầm trên địa bàn tương đối dồi dào ở độ sâu
20m với trữ lượng khoảng 6000-10000m3/ngày, chất lượng tốt có thể đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của dân cư.
* Tài nguyên đất.
Phường Kim Long có diện tích tự nhiên là 248,6 ha, chủ yếu là nhóm đất
cát pha, đây là nơi tập trung dân cư, các công trình văn hoá xã hội, các nhà máy
xí nghiệp. Bên cạnh đó là nhóm đất phù sa được bồi đắp hàng năm và nhóm đất
biến đổi do trồng lúa. Nhóm đất này thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là các cây lúa, màu...
* Tài nguyên nhân văn.
Trên địa bàn phường Kim Long đa số người dân tộc Kinh sinh sống từ lâu
đời. Người dân ở đây có trình độ tương đối cao, số người ở trong độ tuổi lao
động chiếm tỷ lệ khá cao thuận lợi cho việc phát triển kinh tế.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Thực trạng phát triển các ngành và lĩnh vực

* Ngành nông nghiệp
Đã Thu hoạch 02 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu đúng tiến độ, đạt năng
suất bình quân 11,8 tấn/ha. Đối với diện tích trồng màu, nông dân đã quay vòng
gieo trồng nhiều loại rau màu các loại như đậu lạc, ngô, rau muống với diện tích
6 ha, đạt từ 50-70 triệu đồng/ha. Dự án trồng Nâm sò vẫn tiếp tục duy trì hoạt
động kinh doanh, đồng thời cung cấp giống cho hộ kinh doanh trên địa bàn
phường.
24


4.1.2.2. Thương mại – Tiểu thủ công nghiệp – Dịch vụ Du lịch:
* Thương mại.
Tình hình buôn bán tại chợ Kim Long vẫn duy trì và phát triển thuận lợi,
các mặt hàng kinh doanh ngày càng được nâng cao đáp ứng được nhu cầu đời
sống của người dân.
* Tiểu thủ công nghiệp.
Việc sản xuất kinh doanh các mặt hàng trên địa bàn như: mộc dân dụng, cưa
xẻ gỗ, làm bánh in vẫn duy trì, nhằm tạo việc làm ổn định cho người lao động.
* Dịch vụ, du lịch.
Các cửa hàng ăn uống, giải khát, của các tổ chức, cá nhân hoạt động có hiệu
quả, sức mua bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ngày càng tăng. Các
loại hình kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch như ẩm thực, bánh kẹo, mè
xững và nón lá, mắm tôm ngày càng phát trỉển, góp phần làm đa dạng, phong phú
thu hút nhiều du khách đến với địa phương.
4.1.2.2. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Dân số Phường Kim Long năm 2014 là 14592 người, số hộ là 3194 phân
bố ở 6 khu phố, được thể hiện cụ thể ở bảng sau:
Bảng 4.2: Tình hình dân số và lao động phường Kim Long đến 01/01/2014
Chỉ tiêu


Số lượng

Dân số

14952 người

Nam

7183 người

Nữ

7483 người

Nông nghiệp

519 người

Phi nông nghiệp
Mật độ
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
Lao Động
Số thôn khu phố

14433 người
6014 người/km2
1%
8817
6 khu vực


(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội –
ANQP năm 2014 phương hướng nhiệm vụ năm 2015)
25


×