Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

QUAN HỆ CỦA NGA VÀ ASEAN TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.87 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
-----------------------o0o----------------------

Bài Tiểu Luận

QUAN HỆ CỦA NGA VÀ ASEAN TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
ĐẾN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI ( 1991-2010)

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Phụng Hoàng
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Phương Thảo
MSSV: K38.608.022
Lớp: QTH2B

TP.HCM, ngày 5 tháng 12 năm 2013

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 3
I.
Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 3
1.1 Bối cảnh quốc tế ........................................................................................................ 3
a. Khái quát quá trình kết thúc chiến tranh lạnh ..................................................... 3
b. Xu hướng mới trong quan hệ quốc tế ................................................................. 4
1.2 Những nhân tố nội tại tác động đến mối quan hệ Nga và ASEAN ........................... 4
a. Nhân tố Nga ........................................................................................................ 4
b. Nhân tố ASEAN ................................................................................................. 5


II.
Quan hệ Nga – ASEAN từ sau chiến tranh lạnh đến những năm đầu thế kỷ XXI
(1991 – 2010) ...................................................................................................... 6
1.1 Khái quát quan hệ ASEAN – Liên Xô trước 1991 .................................................. 6
1.2 Quan hệ Nga – ASEAN giai đoạn năm 1991 đến năm 2010 ................................... 7
a. Quan hệ trên lĩnh vực chính trị - an ninh ............................................................ 7
b. Quan hệ trên lĩnh vực kinh tế ............................................................................ 10
c. Hợp tác trên lĩnh vực năng lượng ..................................................................... 13
d. Quan hệ trên lĩnh vực quân sự .......................................................................... 14
e. Quan hệ trên lĩnh vực khoa học công nghệ và giáo dục ................................... 16
f. Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa du lịch .............................................................. 17
1.3 Tổng quát mối quan hệ Nga – ASEAN trong thời gian qua .................................. 19
III.
Quan hệ Nga – ASEAN trong bối cảnh thời đại mới ....................................... 20
1.1 Triển vọng trong mối quan hệ Nga- ASEAN dựa trên một số lĩnh vực ................ 20
a. Phát triển về chính trị - an ninh ......................................................................... 20
b. Phát triển về kinh tế........................................................................................... 21
c. Phát triển về văn hóa, khoa học và giáo dục ..................................................... 21
1.2 Các giải pháp thúc đẩy quan hệ giữa Nga và ASEAN trong tương lai .................. 22
a. Tăng cường hợp tác chính trị, an ninh gắn với hợp tác kinh tế......................... 22
b. Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.................................. . 22
c. Tăng cường hỗ trợ phát triển giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục và đào tạo ... 23
d. Tăng cường hợp tác trên một số lĩnh vực ưu tiên ............................................. 23
1.3 Vai trò cầu nối của Việt Nam trong mối quan hệ Nga – ASEAN ......................... 24
a. Vai trò của Việt Nam trong mối quan hệ Nga – ASEAN ................................ 24
b. Tác động quan hệ Nga - ASEAN tới Việt Nam............................................... 25
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................. 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 26

2



LỜI MỞ ĐẦU.
Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, trong quan hệ quốc tế đã diễn ra nhiều biến động. Sự
sụp đổ của Liên Xô, việc chấm dứt chiến tranh lạnh đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của thế
giới hiện đại. Sau nhiều thập kỉ đối đầu căng thẳng việc quan hệ Đông – Tây hòa dịu đã mở
ra những triển vọng mới trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đã trở thành xu thế khách quan của thời đại, lôi cuốn hầu hết các quốc gia tham gia
vừa thúc đẩy hợp tác vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế. Quá trình liên kết và hội nhập kinh tế không chỉ diễn ra trên phạm vi thế giới mà còn
diễn ra trên phạm vi khu vực, đặc biệt là những quan hệ song phương, đa phương giữa các
quốc gia cũng ngày càng sâu rộng. Quan hệ Nga - ASEAN cũng không nằm ngoài quá trình
này.
So với nhiều nước lớn khác, lịch sử quan hệ của Nga với khu vực ASEAN được bắt đầu khá
muộn màng và trải qua những giai đoạn phát triển thăng trầm phức tạp. Tuy vậy, bằng việc
thiết lập quan hệ ngoại giao của Liên Xô với các nước Đông Dương và với một số nước
Đông Nam Á khác kể từ đầu thập niên 50, ảnh hưởng của nước Nga với khu vực đã được xác
lập, củng cố và mở rộng rất đáng kể.
NỘI DUNG
I.
Cơ sở lý luận
1.1
Bối cảnh quốc tế
a. Khái quát quá trình kết thúc chiến tranh lạnh.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai một cục diện chiến lược mới xuất hiện với sự nổi lên của hai
siêu cường: Liên Xô và Mĩ. Tháng 3/1947 tổng thống Mĩ - Truman trong diễn văn đọc trước
Quốc hội đã chính thức đưa ra “Chủ nghĩa Truman” đồng thời phát động cuộc chiến tranh
lạnh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của “Chủ nghĩa Truman” và
cuộc “chiến tranh lạnh” do Mĩ phát động đã đánh dấu chấm hết cho mối quan hệ đồng minh
giữa Liên Xô với Mĩ và các nước Phương Tây trong thời kì chiến tranh chống Phát Xít và mở

ra thời kì đầy sóng gió trong quan hệ quốc tế.
Sự đối đầu Đông - Tây đã thổi bùng nên các cuộc chiến tranh cục bộ tàn khốc như chiến
tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam (1945-1975)… khiến cho nhiều dân tộc bị chia cắt.Từ
cuối thập niên 70 của thế kỉ XX khuynh hướng hòa dịu đã dần thay thế khuynh hướng căng
thẳng trong quan hệ quốc tế. Trong khi địa vị cường quốc kinh tế số một thế giới của Mĩ bị
chính các đồng minh là Nhật Bản và Tây Âu cạnh tranh quyết liệt thì Liên Xô đang lún sâu
vào khủng hoảng đòi hỏi phải nhanh chóng có biện pháp cải tổ.
Tình hình đó đã buộc các nhà lãnh đạo Mĩ và Liên Xô phải ngồi lại với nhau, tìm cách tháo
gỡ các mối bất đồng tiến tới chấm dứt chiến tranh lạnh. Nhiều văn kiện hợp tác đôi bên đã
được kí kết mà quan trọng nhất là Hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu (INF) năm
1987. Cuối năm 1989 tại Man ta, Mĩ và Liên Xô đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc chiến
tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm.
Việc chấm dứt chiến tranh lạnh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quan hệ quốc tế, đã dẫn
đến sự thay đổi chiến lược đối ngoại của hầu hết các quốc gia mà trước hết là quan hệ của 5

3


cường quốc trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (Mĩ, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp),
đồng thời mở đường giải quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế bằng phương pháp hòa bình.
b. Xu hướng mới trong quan hệ quốc tế.
Trong những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX trên thế giới diễn ra nhiều sự kiện gây chấn
động mạnh. Trước hết là cuộc khủng hoảng tan rã của Liên Xô (25/12/1991) và Đông Âu xã
hội chủ nghĩa đã kéo theo sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta hình thành sau chiến tranh thế
giới thứ 2, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã đem lại những thành công vang dội cho
những nền kinh tế mới nổi: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Brazil… Những sự kiện này đã
tác động làm nảy sinh các xu hướng mới trong quan hệ quốc tế:
Một là xu thế bao trùm trong quan hệ quốc tế hiện nay là xu thế đối thoại hợp tác trên cơ sở
hai bên cùng có lợi.
Hai là xu thế hợp tác, thỏa hiệp lẫn nhau giữa 5 cường quốc trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp

Quốc gồm: Mĩ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp nhằm giải quyết các vấn đề quốc tế, trong khi
các nước đều phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới.
Bên cạnh đó, xu hướng liên kết khu vực và toàn cầu hóa mặc dù nảy sinh từ rất sớm, ngay từ
thời chiến tranh lạnh, nhưng phải đến giai đoạn này mới phát triển mạnh, với những mô hình
liên kết thành công vượt quá mong đợi như Liên minh Châu Âu (EU); Diễn đàn hợp tác Châu
Á - Thái Bình Dương (APEC); Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… Lần đầu
tiên trong lịch sử nhân loại những liên minh mang tính khu vực đã trở thành những thế lực
kinh tế - chính trị thực sự với sức mạnh của sự đoàn kết.
Có thể thấy rằng những xu hướng mới trong quan hệ quốc tế là sự phản ánh chân thực những
hệ quả của tình hình thế giới trong hai thập kỉ qua. Bỏ lại phía sau những bất đồng về ý thức
hệ, các quốc gia, khu vực trên thế giới có điều kiện thuận lợi để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
dựa trên lợi ích kinh tế quốc gia và hòa bình, an ninh thế giới. Đây cũng chính là cơ sở để
Nga và ASEAN đẩy mạnh hợp tác, như vậy có thể nói quan hệ Nga - ASEAN nằm trong xu
thế tất yếu của thời đại.
1.2
Những nhân tố nội tại tác động đến mối quan hệ Nga và ASEAN
a. Nhân tố Nga.
Nga coi ASEAN là một tổ chức hạt nhân của quá trình liên kết khu vực của APEC, một trong
các trung tâm ảnh hưởng tới nền chính trị thế giới, có khả năng xây dựng một trật tự thế giới
mới. Sự phát triển quan hệ hợp tác với ASEAN mang ý nghĩa quan trọng đối với Nga trong
kế hoạch hình thành trong khu vực hệ thống quan hệ chính trị và kinh tế mới, củng cố vị thế
của Nga, đưa sáng kiến của Nga lên hàng đầu trên lĩnh vực an ninh.
Có thể nới việc điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Nga theo hướng đa phương hóa có ý
nghĩa quan trọng, tích cực thúc đẩy quan hệ giữa Nga và ASEAN. Vì quan điểm của người
Nga cho thấy trở thành đối tác chiến lược của ASEAN để góp phần giải quyết các nhiệm vụ
kinh tế xã hội của Nga.
Xuất phát từ thực tế là từ khi Liên Xô tan rã, các nước cộng hòa tách ra độc lập đã khiến cho
vị trí địa lí của Nga chuyển dịch sang phía đông với toàn bộ vùng duyên hải của Nga nẳm ở
Châu Á – Thái Bình Dương. Đồng thời Nga mất nhiều hải cảng quan trong ở biển Bantic,
biển Đen và tuyến đường bộ qua trung Á. Vì vậy Nga buộc phải tăng cường các hải cảng ở


4


Viễn Đông và các tuyến đường hàng hải ở Thái Bình Dương. Từ đây tuyến đường biển đi qua
Đông Nam Á sang Ấn Độ Dương rồi về các hải cảng ở Tây Nam và Tây Bắc của Nga trở lên
quan trọng hơn bao giờ hết. Điều có khiến Nga ngày càng có sự ràng buộc về lợi ích kinh tế,
quan sự, an ninh, chính tri tại Đông Nam Á đồng thời Nga tất yếu phải chuyển tầm nhìn của
mình sang phía Đông. Châu Á- Thái Bình Dương đặc biệt khu vực Đông Nam Á đã trở thành
khu vực có lợi ích chiến lược đối với Nga.
Mặt khác, ASEAN trong con mắt của các cường quốc là nơi hội tụ của nhiều lợi ích. ASEAN
có vị trí chiến lược nằm ở đông nam lục địa Á-Âu, là nơi tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương. Đã từ lâu khu vực này là ngã ba đường, là hành lang chiến lược, cầu nối giữa
Trung Quốc, Nhật Bản với Tây Á, Ấn Độ và Địa Trung Hải. Đông Nam Á còn là nơi có
nhiều hải cảng lớn như SuBic, Singapo,Cam Ranh… rất thuân lợi cho phát triển thương mại
cũng như quân sự. Với vị trí địa lý và thế mạnh của mình, ASEAN là khu vực địa chính trị
quan trọng và hầu hết các cường quốc trên thế giới đều phải quan tâm trong chiến lược phát
triển kinh tế chính trị và an ninh của mình.
Bước và những năm 80 - 90 của thế kỷ XX, khi trọng tâm kinh tế của thế giới chuyển sang
Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ và Nhật Bản có những dịch chuyển lớn trong chiến lược và
trong thực tiễn quan hệ với các nước châu Á nói chung và ASEAN nói riêng. Tiếp đó EU và
Trung Quốc đã nhảy lên chuyến tàu Châu Á với những ý đồ chiến lược và khả năng riêng.
Nước Nga sau những năm dài chuyển biến chính trị và thực hành bài học quan hệ với phương
tây đã nhận thức rằng mình là một cường quốc Âu - Á nên không thể chậm chân để lỡ
“chuyến tàu Châu Á”, “ khi châu Á đang tăng tốc tiến lên phía trước”.
Cũng cần phải thấy rằng, mối quan tâm của Nga tại Đông Nam Á không chỉ là lợi ích kinh tế
mà còn là đảm bảo an ninh quốc gia nói chung. Sự nổi lên của các vấn đề an ninh cả truyền
thống và phi truyền thống kể từ sau sự kiện ngày 11/9/2001 đã thôi thúc Nga và ASEAN hợp
tác chặt chẽ hơn nhất là trong cuộc chiến chống khủng bố, chống lại chủ nghĩa đơn phương,
đề cao sức mạnh quân sự trong giải quyết mâu thuẫn xung đột … Hầu như các quan điểm của

Nga về các vấn đề cốt lõi trong quan hệ quốc tế như tôn trọng chủ quyền, chống chủ nghĩa áp
đặt, đơn phương, hợp tác bình đẳng cùng tôn tại và phát triển trong hòa bình về cơ bản trùng
hợp với lập trường quan điểm của ASEAN và các nước thành viên.
Trên phương diện chủ quan lẫn khách quan việc tăng cường quan hệ với ASEAN sẽ đem về
cho Nga những lợi ích chiến lược, tăng cường sức mạnh giúp Nga phát huy vị thế nước lớn
của mình trên trường quốc tế.
b. Nhân tố ASEAN.
Đối với ASEAN, Nga là một cường quốc có tầm ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển
trên thế giới. trong chính sách cân bằng giữa các nước lớn mà ASEAN đang áp dụng, Nga
cũng là một đối tác quan trọng trong trung hạn đến dài hạn. mối quan hệ với Nga có thể đem
lại nhiều lợi ích cho ASEAN nói chung và từng thành viên nói riêng.
Về phương diện kinh tế: ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng
động nhất trên thế giới. Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, các nước ASEAN đã thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng tới xuất khẩu, tăng cường thu hút vốn đầu tư từ bên
ngoài. Giống như một thực thể sống đang trong quá trình tích luỹ năng lượng cho sự bùng nổ
về sau, ASEAN đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới nhằm tận dụng tối đa các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài.

5


Nước Nga là một nước rất giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt, có
nhiều lĩnh vực nổi trội như: công nghệ hạt nhân, công nghệ hàng không vũ trụ, chế biến dầu
khí… Với những lợi thế của mình, Nga đã trở thành một bạn hàng nhiều tiềm năng của
ASEAN. Các nước ASEAN quan tâm nhiều đến việc xem Nga là một đối tác nhằm đảm bảo
an ninh năng lượng cho sự phát triển ở hiện tại và trong tương lai, là một thị trường rộng lớn
cho xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ cũng như thu hút khách du lịch từ Nga. Đó là chưa kể
đến những dự án mua vũ khí, thiết bị quân sự Nga của một số nước ASEAN có giá trị lên đến
hàng trăm triệu USD.
Trên phương diện chính trị - an ninh thì quan hệ Nga và ASEAN dựa trên những cơ sở hết

sức thuận lợi. Về mặt địa lý Đông Nam Á không tiếp giáp trực tiếp với lãnh thổ Nga nên
không có những tranh chấp, xung đột về biên giới lãnh thổ giữa hai bên, nhưng về địa chiến
lược Nga và ASEAN lại có những ràng buộc về lợi ích quân sự, kinh tế, hàng hải, an ninh –
chính trị. “các cảng biển vùng Viễn Đông không chỉ có mối quan hệ mật thiết với Thái Bình
Dương mà còn với Ấn Độ Dương. Mặt khác, Nga và ASEAN còn có chung quan điểm trong
nhiều vấn đề như: Cùng đang theo đuổi chiến lược cân bằng trong quan hệ Đông – Tây,
muốn có một thế giới đa cực, ổn định và phát triển, đều muốn củng cố vai trò của Liên Hợp
Quốc và đề cao chủ quyền, quyền lợi quốc gia, dân tộc…
Những cơ sở trên đây đã tạo động lực để Nga và ASEAN hợp tác thực chất và hiệu quả hơn
trên các lĩnh vực chính trị, an ninh – quốc phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.
Thêm vào đó, các quốc gia ASEAN cũng kỳ vọng rằng sự hiện diện của Nga – quốc gia được
thừa kế quyền lực quân sự hùng hậu, cũng như vị thế cường quốc của Liên Xô trước đây
trong khu vựcASEAN sẽ tạo ra thế cân bằng lực lượng với Mỹ và Trung Quốc đem lại sự ổn
định và an ninh trong khu vực. Sự tham gia của Nga vào quá trình giải quyết các vấn đề nổi
cộm trong khu vực như: phân định biên giới lãnh thổ, quy chế ứng xử Biển Đông, chủ nghĩa
khủng bố, chủ nghĩa ly khai… Sẽ góp phần kìm chế tham vọng của một số nước lớn đối với
khu vực địa – chiến lược quan trọng như ASEAN.
Tiểu kết: Rõ ràng tăng cường hợp tác Nga, ASEAN hiện nay có ý nghĩa to lớn đối với cả hai
bên. Với lợi thế riêng, Nga và ASEAN có thể bổ sung cho nhau, trở thành động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế cũng như đảm bảo an ninh chính trị của nhau.
Trong bối cảnh quốc tế mới, cả Nga và ASEAN đều đã sẵn sàng cho những sự hợp tác sâu
hơn, thực chất hơn, đem lại những hiệu quả thiết thực đáp ứng những kỳ vọng của các nhà
lãnh đạo và nhân dân Nga cũng như các nước ASEAN.
Quan hệ Nga – ASEAN từ sau chiến tranh lạnh đến những năm đầu thế kỷ XXI (
1991 – 2010)
1.1 Khái quát quan hệ ASEAN – Liên Xô trước 1991
II.

Khi ASEAN được thành lập (1967) cũng là lúc cuộc chiến tranh lạnh đang trong giai đoạn
căng thẳng nhất, bởi vậy quan hệ Liên Xô – ASEAN chịu sự chi phối mạnh mẽ của mâu

thuẫn Đông – Tây. Mặt khác, trong chiến tranh lạnh Châu Á, trong đó có ASEAN là một bộ
phận của chiến lược toàn cầu hoá của Liên Xô.
Trên thực tế, Liên Xô luôn thể hiện mong muốn có mặt ở khu vực Viễn Đông. Nhưng do
châu Âu luôn là trung tâm điểm của đối đầu Xô – Mỹ nên quan hệ với châu Á không được
chú ý nhiều. Hơn nữa, do giới hạn của khả năng kinh tế nên chính sách và quan hệ của Liên

6


Xô với ASEAN chỉ dừng lại ở mục tiêu đảm bảo các lợi ích an ninh, chính trị, quân sự của
nhà nước Xô Viết.
Trong thời kỳ Liên Xô tiến hành cải tổ, cùng với việc điều chỉnh trong đường lối đối nội đối
ngoại, mặc dù mục tiêu hợp tác kinh tế với châu Á nói chung và ASEAN nói riêng đã được
đề cao nhưng sự hiện diện kinh tế của Liên Xô ở ASEAN vẫn hết sức mờ nhạt.
Nhìn lại quá trình hợp tác Liên Xô – ASEAN thời kỳ trước 1991 ta có thể thấy quan hệgiữa
Liên Xô và ASEAN bị chi phối bởi các mâu thuẫn về ý thức hệ, sự đối đầu, nghi kỵ lẫn nhau
đã cản trở những cơ hội phát triển quan hệ chính trị, an ninh và kinh tế giữa đôi bên. Bên thân
Liên Xô mong muốn có chính sách tăng cường sự hiện diện kinh tế ở khu vực ASEAN với
mục tiêu trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế vùng Viễn Đông, mở rộng quan hệ hợp tác
với châu Á thông qua đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng sản phẩm nguyên liệu, nhiên liệu và
các tài nguyên thiên nhiên khác. Đặc biệt Liên Xô muốn tìm kiếm lợi ích từ khả năng, lợi thế
của mình trong thăm dò, khai thác dầu mỏ, sản xuất máy bay, đóng tàu và các trang thiết bị
thuộc ngành công nghiệp quân sự. Đổi lại Liên Xô muốn nhập được các mặt hàng công
nghiệp tiêu dùng chất lượng tốt, giá rẻ từ Đông Nam Á. Tuy vậy, cho đến khi Liên Xô sụp
đổ, chính sách hiện diện kinh tế này đã không thực hiện được như mong muốn.
Mặc dù còn rất ít ỏi song những lợi ích đem lại từ mối quan hệ Liên Xô – ASEAN đã hé lộ
những tiềm năng to lớn mà hai bên có thể khai thác từ mối quan hệ này. Đây là cơ sở quan
trọng để Nga – ASEAN đẩy mạnh hợp tác với nhau sau này trên tất cả các lĩnh vực.
1.2 Quan hệ Nga – ASEAN giai đoạn năm 1991 đến năm 2010
a. Quan hệ trên lĩnh vực chính trị - an ninh

Lĩnh vực hợp tác chính trị - an ninh là lĩnh vực an ninh hàng đầu trong quan hệ giữa Nga và
ASEAN trong suốt thời gian qua. Điều này đã được hai bên khẳng định trong bản tuyên bố
chung trong hội nghị thượng đỉnh giữa Nga và ASEAN (tháng 12/2005).
Lịch sử quan hệ giữa Nga và ASEAN bắt đầu vào tháng 7/1991 khi phó thủ tướng Liên Xô
tham dự phiên họp khai mạc Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN (AMM) lần thứ 24 tại
Kuala lampur, theo lời mời của nước chủ nhà Malayxia. Trong hội nghị này Nga tham dự với
tư cách đối tác tư vấn. Mặc dù, từ tháng 7-1992 Nga trở thành "bạn hiệp thương" của của
ASEAN và hàng năm với tư cách quan sát viên, Nga tham dự Hội nghị sau Hội nghị ngoại
trưởng ASEAN (PMC); song quan hệ Nga - ASEAN vẫn tiến triển chậm chạp.
Tiếp đó năm 1993, phía Nga chủ động đề xuất một số lĩnh vực hợp tác trong các dự án liên
doanh kinh tế, an ninh khu vực. Bộ trưởng ngoại giao Nga đã mời Tổng thư ký ASEAN và
đại diện các nước thành viên ASEAN thực hiện chuyến thăm làm việc tại Nga để tìm kiếm cơ
hội hợp tác.
Năm 1994 là dấu mốc quan trọng đối với nước Nga nói riêng và đối với quan hệ Nga –
ASEAN nói chung.Tháng 7-1994, Nga trở thành một trong 18 nước tham gia "Diễn đàn an
ninh khu vực ASEAN" (ARF) cùng với các nước Châu Á - Thái Bình Dương thảo luận
những vấn đề an ninh, chính trị khu vực. Sau đó hai năm, tháng 7-1996, Nga chính thức trở
thành một trong 10 bên đối thoại đầy đủ của ASEAN, mở ra triển vọng mới cho quan hệ Nga
- ASEAN.
Sự chuyển biến ấy trước hết là do những thay đổi quan trọng diễn ra trong cục diện khu vực.
Các nước lớn ngày càng quan tâm đến việc mở rộng quan hệ ở khu vực. Với sự cải thiện

7


nhanh chóng quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN, xu thế hợp tác - liên kết
ASEAN phát triển sang một giai đoạn mới về chất. Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma lần
lượt tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên ASEAN; đặc biệt sự kiện Việt Nam
gia nhập ASEAN (28/7/1995) càng làm cho ý tưởng về ASEAN trong "Cộng đồng Đông
Nam Á gồm 10 quốc gia" ngày một trở thành hiện thực. Nga vốn có quan hệ truyền thống với

Việt Nam và các nước Đông Dương, cho nên việc các nước này đã và sẽ gia nhập ASEAN
tạo điều kiện thuận lợi cho Nga tăng cường quan hệ với các nước ASEAN khác, nâng mối
quan hệ đó lên những nấc thang mới cao hơn.
Quan hệ ASEAN-Nga chính thức được thiết lập vào tháng 7/1996 và đã hình thành các cơ
chế đối thoại thường kỳ ở cấp quan chức và Bộ trưởng Ngoại giao. Cơ cấu đối thoại ASEAN
– Nga được định hình nhanh chóng gồm 4 thiết chế:
1.

Ủy ban hợp tác hỗn hợp ASEAN – Nga ( ARJCC )

2.

Ủy ban quản lý hỗn hợp ASEAN – Nga của quỹ hợp tác ASEAN – Nga.

3.

Hội đồng kinh doanh ASEAN – Nga ( ARBC )

4.

Ủy ban ASEAN tại Moscow ( ACM )

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ hợp tác về chính trị, an ninh Nga – ASEAN tiếp
tục được củng cố và mở rộng. ASEAN và Nga đã ký Tuyên bố chung về quan hê ̣ đ ốitác vì
hoà bình , an ninh , thịnhvượng và p háttriểntại khu vực Châu Á -Thái Bình Dương (tháng
6/2003) đặt khuôn khổ cho việc tăng cườnghơ ̣ptác gi ữa hai bên trong các lĩnh vực chính trị,
an ninh,kinh tế và chuyên ngành. Đặc biệt Nga và ASEAN đã đạt được những bước tiến quan
trọng qua việc ký kết hiệp ước thân thiện và hợp tác sau cuộc hợp bộ trưởng ASEAN – Nga
vào ngày 29/11/2004 tại Viên Chăn – Lào. Nga là nước thứ hai sở hữu vũ khí hạt nhân và là
thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ký bản hiệp ước thân thiện và hợp tác với

ASEAN.
Tại Hội nghị Cấ p cao ASEAN -Nga lầ n th ứ nhất (Malaysia, 12/2005), ASEAN và Nga đã ký
Tuyên bố chung xác định phương hướng và các biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện
giữa hai bên, đồng thời thông qua Chương trình Hành động triển khai Tuyên bố chung.
Nga coi ASEAN là lực lượng dẫn dắt tiến trình liên kết khu vực Châu Á – Thái Bình Dương,
do đó ủng hộ việc ASEAN xây dựng cộng đồng an ninh ASEAN. Hai bên tăng cường hợp tác
Châu Á . Hai bên tăng cường hợp tác trong khuôn khổ ARF, APEC và Đối thoại hợp tác
Châu Á . Hai bên sẽ cố gắng hơn nữa xúc tiến sự hợp tác giữa ASEAN và SCO. Hai bên phối
hợp tương tác trong các tổ chức và diễn đàn quốc tế và khu vực.
Có thể thấy rằng tăng cường hợp tác giữa Nga và ASEAN là nhân tố thúc đẩy hòa bình, ổn
định trong khu vực, đồng thời cũng là cơ hội cho Nga tham gia sâu hơn vào quá trình liên kết
Đông Á. Sự tham gia đối thoại của Nga về an ninh – chính trị với ASEAN, với các nước
Đông Á là nhân tố đảm bảo an ninh, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đối với
vùng Sibery và Viễn Đông của Nga.
Một vấn đề khác khá nhạy cảm có tác động đến quan hệ Nga – ASEAN hiện nay là vấn đề
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp trên Biển Đông. Biển Đông không chỉ có mối
quan hệ mật thiết với Thái Bình Dương mà còn với Ấn Độ Dương, bởi vậy, nếu như có sự
căng thẳng trên biển Đông hay eo biển Malacca thì sẽ tác động tiêu cực đến tuyến vận chuyển

8


hàng hải, huyết mạch của không chỉ các nước trong khu vực mà còn các nước lớn khác như:
Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, (những nước mà nền kinh tế phụ thuộc vào nguyên nhiên liệu
nhâp khẩu) hay Mỹ, Trung Quốc xuất phát từ các lợi ích chiến lược vấn đề duy trì hòa bình
và an ninh trên Biển Đông đã thu hút sự quan tâm của nhiều nước châu Á, Nga và phương
Tây.
Trong khi tìm giải pháp cho đàm phán đa phương nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông các
nước ASEAN chú ý đến nước Nga. Vì nước Nga không chỉ là cường quốc nằm trong Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc mà còn vì Nga có những ràng buộc về lợi ích chính trị, kinh tế

và an ninh với Biển Đông. Tuy vậy, cần phải thấy rằng khi thể hiện thái độ về vấn đề nhạy
cảm như tranh chấp biển Đông, Nga cần phải cân nhắc quan hệ với Trung Quốc. Trong thời
gian qua đặc biệt sau khi điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng “cân bằng Đông - Tây”
nước Nga đã coi Trung Quốc là đối tác chiến lược quan trọng nhất của họ ở Châu Á.Trung
Quốc cũng là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Nga ( chỉ xếp sau EU) trong khi ASEAN chỉ
xếp thứ 11. Quan điểm của Nga là không phản đối đưa các vấn đề tranh chấp Biển Đông ra
bàn bạc ở các diễn đàn đa phương, nhưng chủ trương ủng hộ thương lượng song phương.
Các lĩnh vực an ninh truyền thống luôn là mối quan tâm và được bàn nhiều trong các cuộc
họp giữa các quan chức Nga – ASEAN.Hiện nay cả Nga và ASEAN đều có chung các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống như: Chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan và chủ
nghĩa ly khai dân tộc.
Nhận thấy vấn đề này quan trọng trên cơ sở hội nghị cấp cao ASEAN lần 7 và 8 vào những
năm 2001 và 2002 về chống khủng bố thì tới năm 2004 một bước tiến quan trọng là NgaASEAN đã ký tuyên bố chung về chống khủng bố ngày 02/07/2004 tại Jacacta. Đây là cơ sở
pháp lý để cho Nga – ASEAN thành lập một chương trình hợp tác trong việc phòng chống
bọn tội phạm quốc tế qua đó trao đổi các thông tin kinh nghiệm để đạt kết quả cao nhất.
Tháng 7/2005 tại Hội nghị Thượng đỉnh giữa Nga và ASEAN tại KualaLampur vẫn tiếp tục
khẳng định hợp tác trên lĩnh vực an ninh chính trị giữa hai bên. Điều này được thể hiện bằng
hành động là áp dụng các cơ chế hiện có : APEC, ARF, AICO… Cũng như thiết lập một khu
vực ASEAN không có vũ khí hạt nhân theo hiệp ước SEANWFZ và xây dựng một cộng đồng
an ninh ASEAN.
Quan hệ chính trị ASEAN-Nga phát triển khá thuận lợi. Nga đã chính thức tham gia Hiệp
ước TAC (2004). Hai bên đã nhất trí tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEAN-Nga lần thứ 2 tại
Việt Năm 2010 nhằm tăng cường và thúc đẩy hơn nữa quan hệ đối thoại. Hợp tác kinh tếthương mại và hợp tác phát triển là những lĩnh vực mà ASEAN và Nga dự kiến tăng cường
hợp tác hơn nữa trong thời gian tới. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ thành lập Trung tâm ASEANNga tại Học viện Quan hệ Quốc tế Moscow (MGIMO) vào tháng 7/2009.
Tại Cuộc họpQuan chức cao cấp ASEAN-Nga lần thứ 7 đã diễn ra tại Moscow từ ngày 1415/6/2010 do Mianma và Nga đồng chủ trì., các Quan chức hai bên đã thảo luận các biện
pháp tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác ASEAN-Nga và trao đổi các vấn đề khu vực và
quốc tế cùng quan tâm. Về quan hệ hợp tác ASEAN-Nga, các Quan chức hai bên đã đề xuất
nhiều biện pháp hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực như kinh tế-thương mại, năng lượng, văn
hóa, du lịch, quản lý thiên tai, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia… Hai bên nhất trí
xây dựng các Lộ trình hợp tác, Kế hoạch công tác… tạo khuôn khổ cho từng lĩnh vực hợp tác

cũng như tận dụng tiềm năng và thế mạnh của cả hai bên.

9


Nga bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ ASEAN xây dựng Cộng đồng cũng như vai trò trung tâm của
ASEAN trong các tiến trình khu vực do ASEAN khởi xướng và dẫn dắt như ASEAN+3,
EAS, ARF…; đồng thời khẳng định cần tăng cường phối hợp hơn giữa các cơ chế này với
các tổ chức Nga tham gia như Hợp tác Thượng Hải (SCO) và Đối thoại Hợp tác châu Á
(ACD)…
Tóm lại, lĩnh vực hợp tác chính trị - an ninh vẫn là ưu tiên hàng đầu và điêu này được khẳng
định trong tuyên bố chung trong Hội nghị thượng đỉnh giữa Nga – ASEAN vào tháng 122005. Hai bên nhấn mạnh hợp tác chặt chẽ hơn trong việc đối phó, giải quyết các vấn đề toàn
cầu như chống khủng bố, chống ma túy, rửa tiền, buôn lậu người và vũ khí, cũng như các vấn
đề về mội trường dịch bệnh. Hai bên cũng khẳng định hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong khuôn
khổ các tổ chức khu vực như ARF, APEC, Hợp tác đối thoại Châu Á (ADC), ASEAN và Nga
cũng cam kết sẽ tăng cường hợp tác trong khuôn khổ SCO. Rõ ràng, cả Nga và ASEAN đều
đánh giá hợp tác đa phương có tác động to lớn tới quan hệ song phương giữa cá quốc gia
cũng như khu vực nói riêng và toàn cầu nói chung.
Quan hệ đối ngoại Nga và ASEAN ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển
kinh tế cũng như ổn định an ninh chính trị trong khu vực và trên thế giới. Mối quan hệ càng
trở nên quan trọng, đã có tác động tích cực đến quan hệ hợp tác Nga – ASEAN sau khi Nga
điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng Đông – Tây trong bối cảnh quốc tế mới
vào những thập niên đầu thế kỉ XXI dưới sự lãnh đạo của tổng thống Putin.
b. Quan hệ trên lĩnh vực kinh tế.
Về mặt thương mại.
Trong thời gian vừa qua, sau chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với sự ấm lên các quan hệ quốc
tế thì một xu hướng tích cực đang dần hình thành đó là quan hệ chính trị đang dần chuyển
sang ưu tiên phát triển kinh tế.Trong bối cảnh quốc tế đó cả Nga và ASEAN đều nhận thấy
những tiềm năng to lớn của đối phương. Đây là cơ sở để xúc tiến đẩy mạnh quan hệ thương
mại Nga – ASEAN trên tinh thần đối tác chiến lược.

Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1998 thương mại giữa Nga và ASEAN đã
có xu hướng tăng lên. Trên thực tế thì quan hệ đó sẽ được duy trì tổng giá trị năm 2005 là 4,7
tỷ USD. năm 2009 kim ngạch thương mại ASEAN-Nga mới đạt 6,76 tỷ USD, tương đương
0,4% tổng kim ngạch thương mại ASEAN.
Có thể nói cùng với sự phát triển không ngừng của mối quan hệ chính trị- an ninh thì quan hệ
thương mại Nga- ASEAN cũng từng bước tiến triển.Trong đó sự kiện ký kết hiệp định hợp
tác kinh tế và phát triển vào cuối năm 2005 tại Malayxia và “chương trình hành động tổng thể
xúc tiến hợp tác cho thời kỳ 2005 - 2015” đã mở ra một thời kỳ phát triển toàn diện với một
chất lượng mới cho quan hệ Liên Bang Nga- ASEAN.
Tiềm năng lớn nhất trong hợp tác thương mại Nga – ASEAN là trong lĩnh vực năng lượng .
Thời gian qua Nga nổi lên như một cường quốc năng lượng với trữ lượng khổng lồ về dầu mỏ
và khí đốt hàng đầu thế giới. Đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nga.
Nga và ASEAN sẽ đẩy mạnh hợp tác ở các ngành công nghệ cao, công nghệ chế tạo máy,
thiết bị xây dựng, máy móc, thiết bị điện, mở rộng các nghiên cứu đặc biệt là khoáng sản.
Nga chưa phải là đối tác quan trọng với khu vực ASEAN mặc dù tổng thương mại giữa Nga
và ASEAN có tăng từ 0,4% năm 2005 và 0,6% năm 2008 trong các đối tác thương mại của

10


ASEAN thì thương mại của ASEAN có tính tập trung cao chủ yếu với các nước lớn như :
Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU nên thương mại với Nga chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Tương tự như vậy với Nga thì ASEAN cũng không phải là đối tác quan trọng nhất vì phần
lớn thương mại của Nga là các nước SNG và các nước Châu Âu và ASEAN chỉ đứng ở vị trí
thứ 11 trong các nước buôn bán thương mại lớn nhất với Nga trong năm 2005.
Tuy nhiên nếu so sánh về tỷ lệ thì có thể thấy vai trò của ASEEAN đối với thương mại của
Nga lớn hơn vai trò của Nga đối với thương mại của ASEAN. ASEAN chiếm hơn 1%
thương mại của Nga, Năm 2008 chỉ số này cao cho thấy mức độ quan trọng của thương mại
đối với ASEAN càng cao.Đó là về tỷ lệ còn trên bảng xếp hạng các đối tác thương mại của
Nga thì ASEAN được xếp thứ 11 vị trí này vẫn giữ từ năm 2005 đến năm 2008.

Một đặc điểm quan trọng nữa là từ năm 2005 về trước Nga thặng dư thương mại với ASEAN
thậm chí thặng dư còn rất lớn trong giai đoạn 2000 - 2003. Điều này có nghĩa là hàng hóa của
ASEAN vào Nga còn hạn chế trong giai đoạn này. Tuy nhiên từ 2006 - 2008 Nga trở thành
nước nhập siêu lớn từ ASEAN. Sự đảo chiều này cho thấy một sự thay đổi lớn trong cơ cấu
cũng như các sản phẩm trao đổi giữa hai bên.
Xuất khẩu từ Nga sang ASEAN vẫn phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm năng lượng, kim loại,
hóa phẩm và các sản phẩm thiên nhiên trong khi ASEAN xuất khẩu sang Nga các sản phẩm
thiết bị điện, máy nông sản, thực phẩm, công nghiệp tiêu dùng … Trong năm 2007, tổng kim
ngạch thương mại dịch vụ chiếm khoảng 15% kim ngạch thương mại Nga – ASEAN (so với
khoảng 10% năm 2005) Điều này cho thấy quan hệ thương mại Nga - ASEAN vẫn chủ yếu là
thương mại hàng hóa.
Các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất giữa Nga với các nước ASEAN còn ít và quy mô
không lớn. Trong số đó, các liên doanh vận tải biển và đánh bắt hải sản với Thái Lan,
Singapore, Philippine là hoạt động tương đối có hiệu quả hơn cả. Hợp tác nghiên cứu khoa
học, giáo dục - đào tạo, phát triển và ứng dụng công nghệ cao giữa Nga với các nước ASEAN
(trừ Việt Nam) mới bắt đầu triển khai những bước đi đầu tiên.
Tóm lại, cả Nga và ASEAN đều nhận thấy tiềm năng hợp tác thương mại song phương là rất
lớn, cả Nga lẫn ASEAN đều coi đối phương là đối tác chiến lược. Song cần nhìn vào thực tế
là kim ngạch thương mại Nga – ASEAN chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch của
mỗi bên, và mặc dù trong thời gian qua tốc độ gia tăng thương mại Nga - ASEAN được coi là
nhanh so với các khu vực khác nhưng còn xa mới đáp ứng được kỳ vọng. Nhìn một cách tổng
quát, tuy đang có những chuyển động tích cực hơn, song quan hệ kinh tế - thương mại giữa
Nga với ASEAN vẫn còn phát triển chậm, quy mô nhỏ.Đây là bài toán khó cho giới lãnh đạo
Nga cũng như ASEAN trong thời gian tới.
Về mặt đầu tư.
Nếu quan hệ thương mại Nga - ASEAN mới chỉ dừng lại ở bước đầu thì quan hệ đầu tư còn
hạn chế hơn.Trong những năm qua hoạt động đầu tư giữa hai bên cũng biến động theo tình
trạng chung của kinh tế Nga, ASEAN và thế giới. Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thì nền
kinh tế nga có những bước tiến mới quan trọng nhất là nền kinh tế đã phục hồi đây là yếu tố
cơ bản thu hút đầu tư vào Nga.Tuy nhiên đầu tư của ASEAN vào Nga vẫn còn rất thấp, lĩnh

vực này chỉ tập trung vào các công ty của Singapore vì Singapore là trung tâm tài chính và
kinh doanh hàng đầu của Châu Á, với hơn 7000 TNCs (công ty đa quốc gia) hoạt động ở đây.

11


Trong những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, đã có nhiều dự án đầu tư của các doanh
nhân Nga vào Châu Á nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Các lĩnh vực được người
Nga ưu tiên là nghề cá và khai thác cá, dầu mỏ, đồ trang sức, thiết bị máy tính cá nhân… Nga
cũng mong muốn tham gia các dự án xây dựng tàu điện ngầm ở Thái Lan, hệ thống đường sắt
nối Thái Lan với Lào, Việt Nam và Trung Quốc, đường ống dẫn ga và hàng không ở
Malayxia…
Các nhà đầu tư ASEAN cũng đã có những dự án đầu tư vào Nga như khai thác rừng, quặng,
các sản phẩm giấy các ngành dệt may… Tuy nhiên đầu tư trực tiếp hai chiều (FDI) đến năm
1998 mới đạt 200 triệu USD. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng đầu tư của ASEAN vào Nga
không đáng kể là do các điều kiện kinh tế bấp bênh và thiếu khung pháp lí đảm bảo cho cá
nhà đầu tư nước ngoài và thái độ của nước Nga cũng chưa quan tâm nhiều đến khu vực
ASEAN trong thời gian này.
Các nhà đầu tư ASEAN khác cũng đã có những dự án đầu tư vào Nga như khai tác rừng,
quặng và các sản phẩm giấy, các ngành dệt may, khách sạn và viễn thông. Tuy nhiên, đầu tư
trực tiếp của ASEAN vào Nga chủ yếu là các dự án nhỏ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng
đầu tư xang Nga 13 dự án ( tính đến 22/4/2007 các dự án còn hiệu lực) với tổng vốn trên 73
triệu USD, chủ yếu trong lĩnh vực dệt may, chế biến thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng.
Không chỉ đầu tư của ASEAN ở Nga còn hạn chế mà đầu tư của Nga vào ASEAN cũng
không đáng kể. Nga cũng đang tiến hành dự án đầu tư giữa các doanh nhân Nga với các nước
Philippin, Singapo, Thái Lan và các nước khác trong lĩnh vực như nghề cá và khai thác cá
dầu mỏ, các thiết bị máy tính cá nhân. Nga cũng mong muốn đầu tư vào xây dựng các dự án
tàu điện ngầm ở Thái Lan, Lào, Việt Nam và Trung Quốc, đường ống dẫn gas và hàng không
ởMalayxia, xây dựng các nhà máy thủy điện ởMalayxia, Mianma, Thái Lan, Lào…
Đầu tư giữa Nga – ASEAN chủ yếu là các dự án nhỏ lẻ vào một số lĩnh vực nhất định nhưng

đầu tư của Nga vào ASEAN đã có tăng trưởng nhanh những năm gần đây năm 2008 dòng
đầu tư ròng của Nga vào ASEAN đã chiếm 0,1% trong tổng đầu tư ròng vào ASEAN. Hiện
nay Nga và ASEAN đang mở rộng các lĩnh vực đầu tư khác và tính đến trên cơ sở những lĩnh
vực tiềm năng. Những lĩnh vực tiềm năng này được Nga và ASEAN đưa ra trong rất nhiều
cuộc gặp thượng đỉnh.
Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất giữa Nga và ASEAN “Thông cáo chung về đối tác
phát triển toàn diện và chương trình hành động tổng thể về hợp tác phát triển giữa Nga và
ASEAN trong các năm 2005 – 2015” điều này đã tạo nên cơ sở pháp lý cho mối quan hệ cho
phép mở rộng hợp tác đầu tư.
Lĩnh vực năng lượng được xem là lĩnh vực đầu tư tiềm năng nhất bởi Nga theo đánh giá của
quốc tế là một “cường quốc năng lượng”, là nhà xuất khẩu hàng đầu đầu thế giới.Nga sẽ mở
rộng hợp tác đầu tư với các nước ASEAN trong lĩnh vực năng lượng để đóng góp vào việc
đảm bảo an ninh năng lượng cho các nước này không chỉ trong việc cung cấp nguồn nguyên
liệu dài hạn và ổn định mà còn trong việc thực hiện các dự án chung thăm dò và khai thác các
mỏ và lắp đặt các đường ống dẫn dầu, khí đốt.
Một trong lĩnh vực đang được mở rộng sự hợp tác nữa là hợp tác kỹ thuật quân sự của Nga và
ASEAN. Trong số 100 tổ hợp quân sự lớn nhất thế giới có 7 công ty của Nga. Những nước
có hợp đồng kỹ thuật quân sự lớn với Nga là Thái Lan, Việt Nam và Indonesia.

12


Một lĩnh vực tiềm năng nữa để hợp tác đầu tư là lĩnh vực vũ trụ. Trong cuộc gặp thượng đỉnh
tại KualaLumpur, công ty viễn thông CosmicheskjaSviaj của Nga và Telekomunikasi
Indonesia Tbk của Indonesia đã ký kết thỏa thuận xem xét việc xây dựng và khai tác trạm
truyền thông vũ trụ và tổ hợp điều khiển mặt đất. Vào tháng 12/2005 đã diễn ra “Hội nghị
thượng đỉnh” trong thời gian đó đã diễn ra triển lãm công nghệ cao của Nga “Russia-HI-Tech
2005” với hệ thống tính toán đường đạn “Kondor”. Đây là hệ thống tính toán đường đạn hoàn
toàn do Nga chế tạo hiệu quả cao và tính cạnh tranh cao.
Cũng tại tháng 12/2010 một lĩnh vực đầu tư mới giữa Nga và ASEAN được thực hiện là lĩnh

vực bảo hiểm, lãnh đạo trung tâm bảo hiểm Nga thực hiện hàng loạt các chuyến công tác với
mục tiêu tiếp tục phát triển hợp tác với các đại diện bảo hiểm và tái bảo hiểm xã hội của các
nước Đông Nam Á và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và trung tâm bảo hiểm Nga cho
rằng thị trường Đông Nam Á là thị trường tiềm năng theo quan điểm hỗ trợ bảo hiểm cho
chương trình hợp tác kỹ thuật quân sự của Nga.
Mỗi nước ASEAN biểu lộ sự quan tâm đầu tư vào Nga là khác nhau nhưng cơ hội mới thuận
lợi đang xuất hiện sau khi Nga thông qua bộ luật mới về khu vực kinh tế tự do. Bộ luật này sẽ
kích thích việc đầu tư vào phát triển các lĩnh vực công nghệ cao. Như vậy đã mở ra rất nhiều
tiềm năng hợp tác giữa Nga và ASEAN trong thời gian hiện nay và trong tương lai.
c. Hợp tác trên lĩnh vực năng lượng.
Hợp tác về năng lượng giữa Nga và các nước ASEAN là một trong những điểm mạnh trong
quan hệ Nga – ASEAN. Cho tới nay đầu tư chủ yếu của Nga ở ASEAN vẫn chủ yếu tập trung
vào các lĩnh vực có liên quan đến năng lượng từ những dự án về thăm dò khai thác dầu khi ở
thềm lục địa cho đến những dự án về lọc dầu, nhà máy thủy điện… Nga có một trữ lượng lớn
tại vùng Viễn Đông và Siberia chưa khai thác. Còn ASEAN có một biển Đông giàu tài
nguyên vô cùng nhất là về năng lượng. Vì vậy điều này sẽ thúc đẩy sự gắn bó quan hệ giữa
Nga và ASEAN.
Để khai thác thế mạnh của mình cũng là để xuất khẩu công nghệ hạt nhân Nga đã chủ động
thắt chặt quan hệ hợp tác với các nước ASEAN trong lĩnh vực hạt nhân bước tiến của Nga
vào thị trường Châu Á – Thái Bình Dương còn gắn liền với việc khai thác nguyên liệu
khoáng chất ở Đông Siberia và Viễn Đông.
Trong thời gian gần đây ba thị trường quốc tế lớn mà Nga quan tâm là: các nước SNG, Châu
Âu, Châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay khí đốt của Nga chỉ chuyển sang SNG và Châu
Âu, còn những đường ống dẫn khí đốt xuất sang Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật BẢn đang
nằm trong các dự án thiết kế.
Trong tương lai sẽ thành lập một hệ thống dẫn khí đốt thống nhất qua các mỏ của Nga, Trung
Quốc, Bruney, Indonesia. Điều này sẽ làm tăng khả năng cung cấp khí đốt cho các nước
ASEAN và tăng cơ hội cho Nga tham gia vào dự án này. Một số nước ASEAN có nguồn
nguyên liệu khoáng sản phong phú như (Indonesia, Malayxia) tích cực khai thác, còn các
nước khác như Singapo, Campuchia không có nguồn nguyên liệu này và hoàn toàn phụ thuộc

vào nhập khẩu của một số nước còn lại chỉ có trữ lượng ít đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.
Chính điều này đã khiến các nước ASEAN xây dựng “ Hành lang đường ống vận chuyển khí
đốt ASEAN” (TAGP).

13


Như vậy có thể thấy không phải tất cả các thành viên ASEAN đều có khả năng bảo đảm cung
cấp năng lượng cho mình mà không cần nhập khẩu, kể cả các nước ASEAN +3. Theo đánh
giá của Thông tấn xã năng lượng thế giới, nhu cầu năng lượng ở các nước Châu Á tăng nhanh
hơn so với nhiều nước trên thế giới: tiêu thụ dầu hàng năm tăng 3-4%, khí đốt tăng 4-6%.
Điều này đã tạo ra một cơ hội lớn cho Nga mở rộng xuất khẩu dầu khí sang các nước ASEAN
như một bước cần thiết trên con đường biến nước Nga thành một cường quốc năng lượng
hàng đầu và tạo dựng một vị thế quan trọng ở khu vực này.
d. Quan hệ trên lĩnh vực quân sự.
Hợp tác quân sự của Nga với các nước ASEAN khá phát triển và có tiềm năng lớn. Nga là
một cường quốc về quân sự và khoa học quốc phòng, trong khi đó nhiều nước ASEAN đang
muốn mua sắm trang thiết bị vũ khí quân sự nâng cấp hệ thống quốc phòng của mình và
nhiều nước trong khu vực ASEAN trong chính sách mua trang thiết bị quân sự của mình
đang tránh tập trung vào một thị trường nào đó mà muốn đa dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí
từ nhiều thị trường và Nga là một trong những nhà cung cấp được coi là lựa chọn hàng đầu.
Trong những năm gần đây, tình hình an ninh ở ASEAN chứa đựng những nguy cơ bất ổn,
chứa đựng những yếu tố phức tạp, trong khi đó kinh tế của các nước ASEAN hồi phục và
phát triển năng động nên nhu cầu mua sắm vũ khí rất cao để nhằm bảo đảm an ninh cho nước
mình. Chính vì thế mà Cục Hợp tác kỹ thuật – quân sự Liên Bang Nga đã coi ASEAN và
Châu Á – Thái Bình Dương là hướng ưu tiên quan trọng cho các hoạt động của mình.
Có thể khẳng định đối với Nga, Đông Nam Á là một thị trường đầy tiềm năng khi mà ngân
sách quốc phòng của các nước ASEAN tăng liên tục trong thời gian qua.Hiện nay Nga đứng
hàng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu vũ khí, chiếm 12% thị phần vũ khí thế giới, trong đó có
một phần đáng kể vũ khí của Nga là xuất xang Châu Á. Hoạt động mua bán vũ khí của Nga

diễn ra rất sôi đọng với hầu hết các nước ASEAN. Ngay cả khi hoạt động buôn bán thương
mại hàng hóa cong nhỏ bé nhưng mua bán vũ khí lại không nhỏ.
Năm 2003 xuất khẩu vũ khí và kỹ thuật quân sự từ Nga sang các nước trên thế giới lần đầu
tiên đạt trên 5,1 tỷ USD so với 3,2 tỷ USD năm 2001, mà tăng trưởng chủ yếu nhờ từ các
nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và ASEAN ( trước hết là Malayxia, Indonesia, Việt
Nam). Nga chủ yếu bán máy bay Su – 30 cho các nước Đông Nam Á, Nga đã bán 12 chiếc
Sukhoi cho Thái Lan, hợp đồng trị giá 500 triệu USD.
Quan hệ quân sự giữa Nga và Indonesia được nối lại vào năm 1997 sau hơn 30 năm gián
đoạn. Đầu tháng 7/1997 Indonesia đã cử một phái đoàn sang Moscow để tìm hiểu các loại
máy bay quân sự hiện đại của Nga như MiG-29, Su -27, Su-30 … Trên cơ sở đó ngày
5/8/1997 chính phủ Indonesia tuyên bố kế hoạch mua 20 chiếc máy bay của Nga trị giá nhiều
đô-la. Tuy vậy do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á mà Indonesia là nước
chịu thiệt hại nặng nề mà do đó kế hoạch này tạm gác lại.
Sau khi phục hồi nền kinh tế , đến đầu thế kỷ XXI Indonesia lại tiếp tục đẩy mạnh quan hệ
quân sự với Nga. Tháng 4/2003 Tổng thống MeegaoatliSucacnoputui đã đến thăm Nga và ký
kết các hiệp định về hợp tác quân sự.
Bước tiến quan trọng trong hợp tác quân sự giữa Nga và Indonesia là vào tháng 9/ 2005 đã
diễn ra cuộc họp đầu tiên của hội đồng liên Chính phủ về hợp tác kỹ thuật quân sự . Đặc biệt
trong chuyến thăm Nga của tổng thống Susilo Ban (tháng 12/2006) hai bên đã ký một loạt

14


hiệp định song phương về quân sự. Ngày 27/8/2009, công ty xuất khẩu vũ khí Nga
Rosoboroexport và Bộ Quốc phòng Indonesia đã ký hợp đồng mua 20 xe bọc thép lội nước
BMP-3F, theo đó việc chuyển giao được tiến hành vào năm 2010.
Hợp tác về quân sự giữa Nga và Malayxia mới chỉ được thực hiện trong khoảng hơn một thập
kỷ qua song lại không ngừng gia tăng về giá trị và hiện nay Malayxia đứng đầu trong số các
đối tác kỹ thuật quân sự của Nga ở khu vực Đông Nam Á . Năm 1994 Nga ký hợp đồng
cung cấp cho Malayxia máy bay MIG-29, ngoài ra Nga và Malayxia cùng xây dựng một

doanh nghiệp liên doanh kỹ thuật hàng không (ATSC) để bảo dưỡng , sửa chữa và hiện đại
hóa những máy bay mà Nga bán cho Malayxia.
Từ năm 1999 đến năm 2002 Nga đã tích cực tham các hội chợ triển lãm quốc tế về vũ khí tổ
chức ở Malayxia như triển lãm tại đảo Lancavi (12/1999), triển lãm UMA (2001), triển lãm
DSA (2002) … Trong các cuộc triển lãm này các loại máy bay quân sự của Nga đã thu hút sự
quan tâm của giới lãnh đạo ASEAN nói chung và Malayxia nói riêng đặc biệt là thế hệ máy
bay SU-30. Vì vậy năm 2003 hai nước đã ký một hợp đồng trong đó Nga cung cấp cho
Malayxia máy bay tiêm kích SU-30 MKM 18 tổng giá trị lên tới 900 USD, sau khi mua 18
máy bay MIG29 S . Chính bản hợp đồng này đã đưa Malayxia trở thành khách hàng lớn thứ
tư về mua bán máy bay quân sự Nga (sau Trung quốc, Ấn Độ, Angiêri). Có thể nói, đối với
Nga thị trường vũ khí Malayxia có dung lượng lớn và trong những năm gần đây có sức tăng
trưởng nhanh.
Đối tác mang tầm cỡ trung bình của Nga ở ASEAN là Thái Lan. Một bước tiến quan trọng
trong lĩnh vực quân sự là trong chuyến thăm Thái Lan của Tổng thống V.Putin vào tháng
10/2003 hai bên đã ký bản ghi nhớ Liên chính phủ về hiểu biết lẫn nhau về các vấn đề đảm
bảo hậu cần quân sự, vấn đề hiện nay và thực hiện chúng. Nga giúp đỡ Thái Lan nhiều về vũ
khí kỹ thuật quân sự hiện đại đào tạo cán bộ quân đội, nhân viên kỹ thuật, xây dựng các trung
tâm vũ khí.
Hợp tác quân sự Nga - Việt Nam bao gồm việc mua, bán vũ khí, khí tài được tiếp tục dựa trên
cơ sở truyền thống và lâu dài.Phần lớn lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng các vũ khí thiết
bị của Nga và phía Nga cũng sẵn sang bán vũ khí và giúp đào tạo nhân sự ngành quốc phòng
cho Việt Nam.Tháng 1-2007, Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã ký với công ty xuất khẩu quốc
phòng Nga một hợp đồng trị giá 300 triệu USD. Trong năm 2008, lần đầu tiên trong suốt lịch
sử hợp tác quốc phòng giữa Nga và Việt Nam, giá trị các hợp đồng kí kết đã vượt qua con số
1 tỷ đô-la Mỹ, năm 2009 – 3,5 tỷ đô-la, và quý 1 năm 2010, khối lượng xuất khẩu vũ khí đã
đạt hơn 1 tỷ đô-la.Nga và Việt Nam đã kí những hợp đồng cung cấp vũ khí cho Không quân,
Phòng không và Hải quân Việt Nam.
Với quá trình hợp tác giữa Nga và ASEAN trên lĩnh vực quân sự thì sau chiến tranh lạnh Nga
đã thực hiện hợp tác về quân sự với một số nước là thành viên của ASEAN. Thông qua đây
Nga khẳng định vị thế nước lớn của mình, tìm kiếm lợi ích và góp phần tạo ra sự cân bằng

ảnh hưởng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, việc hợp tác với từng thành viên
trong ASEAN thì đều có lợi cho cả hai bên và phía Indonesia ký được với Nga hiệp định hợp
tác trên cơ sở trung lập cân bằng… với Việt Nam, Malayxia Nga đã giúp đỡ rất nhiều ở các
lĩnh vực khác không riêng gì lĩnh vực này. Và việc hợp tác quân sự giữa Nga và một số nước
ASEAN thời kỳ “hậu đối đầu” minh chứng rằng hiện nay lợi ích quốc gia dân tộc là vấn đề
quan trọng hàng đầu trong quan hệ quốc tế.

15


Tóm lại, ASEAN là một thị trường tiềm năng cho nền công nghiệp quốc phòng của Nga, hợp
đồng vũ khí đem lại lợi ích cho cả 2 bên.
e. Quan hệ trên lĩnh vực khoa học công nghệ và giáo dục.
Trong quan hệ hợp tác toàn diện Nga – ASEAN thì hợp tác khoa học kỹ thuật và công nghệ
cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Hội nghị Thượng đỉnh Nga – ASEAN lần thứ nhất tại
KualaLumpur ngày 13/12/2005 nhấn mạnh những tiềm năng to lớn mà hai bên sẵn có đối với
hợp tác thương mại và đầu tư. Trong lĩnh vực công nghiệp hợp tác chặt chẽ đối với các ngành
máy khai thác mỏ, máy công cụ, máy làm đường, xây dựng, thiết bị điện và máy công
nghiệp. Mở rộng hợp tác trong nghiên cứu, cải tiến và ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong
khai thác tài nguyên. Trao đổi các bí quyết trong các lĩnh vực khác nhau của năng lượng, bao
gồm sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn năng lượng
( mặt trời, gió, thủy triều và sóng biển, hydro, sinh học..) thúc đẩy các công nghệ và nguồn
năng lượng thân thiện với môi trường.
Nga còn có thế mạnh về khoa học vũ trụ và đã từng hợp tác với nhiều nước trong việc phát
triển khoa học vũ trụ. Trong khuôn khổ ASEAN+1 ( ASEAN + Nga) một trong những sang
kiến mới nhất của Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN) gần đây là việc thết lập
quan hệ hợp tác khoa học ASEAN-Nga. Tháng 10/2000 Hội thảo “Quan hệ đối thoại Nga –
ASEAN” đã thu hút các quan chức chính phủ các nhà khoa học, giáo dục, thương nhân Nga
bàn luận sôi nổi về hợp tác hàn lâm ASEAN – Nga.
Năm 2005, trước hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Nga lần thứ nhất diễn ra tại KualaLumpur,

Malayxia, và trước khi Bộ trưởng Ngoại giao Nga tới Lào dự cuộc họp các Bộ trưởng Ngoại
giao ASEAN+10, người phát ngôn Bộ ngoại giao Nga đã thông báo: Nga coi hợp tác khoa
học kỹ thuật, ngăn chặn và giảm thiểu các hậu quả của thiên tai là một trong 10 lĩnh vực ưu
tiên hợp tác với ASEAN trong đó thúc đẩy hoạt động của Nhóm công tác chung về Hợp tác
khoa học kỹ thuật Nga –ASEAN.
Ngày 9/10/2006 tại Hội thảo “Nga – Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: hướng tới quan hệ
chiến lược và kinh tế đối thoại giữa các nền văn minh” diễn ra tại Moscow.Tổng thư ký
ASEAN Ong Keng Yong nói, ASEAN muốn tăng cường quan hệ với Nga về năng lượng, kỹ
thuật máy, nghiên cứu khoa học và du lịch.
Cuối cùng để củng cố vị thế của Nga ở thị trường ASEAN trước hết phụ thuộc vào khả năng
xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại mềm dẻo và hiệu quả của Nga với các nước này,trong
điều kiện cạnh tranh với các nước đã thành công trên thị trường ASEAN như Trung Quốc,
Pháp, Nhật Bản, Đài Loan. Với khả năng tài chính của mình Nga sẽ có khả năng và sẽ không
bỏ qua cơ hội thuận lợi trong việc mở rộng hợp tác khoa học kỹ thuật – sản xuất với các nước
ASEAN vì vậy mối quan hệ kinh tế thương mại khoa học của Nga và ASEAN sẽ phát triển
trong thời gian tới.
Quá trình hợp tác giáo dục Nga – ASEAN diễn ra theo 2 cơ chế : APEC và ASEAN+1.
Trong khuôn khổ APEC, sự hợp tác giữa ASEAN và Nga chủ yếu xoay quanh các hoạt động
của quỹ APEC về giáo dục. Những năm 2000 – 2001, quỹ này đã cấp kinh phí cho các nước
trong 3 lĩnh vực chính là hợp tác giáo dục, nghiên cứu và trao đổi học giả, xây dựng hội. Hội
đồng quản trị của quỹ tập trung vào việc xây dựng mạng lưới thông tin trao đổi trực tuyến để

16


phục vụ cho các mục tiêu giáo dục dài hạn. Cho đến nay quỹ đã hoạt động được 10 năm và
mỗi năm lại có một chủ đề đặc biệt liên quan đến giáo dục.
Trong khuôn khổ ASEAN+1, các hoạt động hợp tác giáo dục giữa Nga và ASEAN diễn ra
phong phú hơn. Tiêu biểu là sáng kiến mạng lưới trường đại học ASEAN (AUN) về việc thiết
lập quan hệ hợp tác khoa học Nga – ASEAN nhằm tận dụng tiềm năng của nguồn khoa học –

công nghệ khá tiên tiến của Nga. Tháng 10/2000, Giám đốc AUN Tiến sỹSupa Chai đã tham
dự Hội thảo “Quan hệ đối thoại Nga – ASEAN” tại đây ông đã giới thiệu với các quan chức
chính phủ, các nhà giáo dục, các thương nhân Nga về AUN, giới thiệu các sáng kiến về hợp
tác hàn lâm ASEAN – Nga. Rất nhiều trường đại học và viện nghiên cứu Nga bày tỏ ý muốn
tham gia vào các hoạt động của AUN.
Đối với các nước ASEAN, Nga đang trở thành thị trường giáo dục khá hấp dẫn do trình độ
khoa học cơ bản của Nga được đánh giá là tiên tiến trong khi giá cả lại thấp hơn so với các thị
trường giáo dục khác như Mỹ, Anh, Úc,... đồng thời Chính phủ Nga cũng có chính sách ưu
đãi như cấp học bổng cho các sinh viên đến từ ASEAN theo học tại Nga. Trong các nước
ASEAN, Việt Nam là nước đi đầu trong hợp tác giáo dục với Nga, có hơn 4000 sinh viên
đang theo học tại Nga, trong đó có 1200 sinh viên là theo diện học bổng. Malayxia hiện có
hơn 2000 sinh viên theo học tại Nga cả diện tự túc lẫn học bổng, và con số này đang ngày
càng tăng lên do Malayxia đã công nhận bằng do Nga cấp. Một quốc gia nữa cũng rất quan
tâm đến nền giáo dục và quan hệ giáo dục với Nga đó là Thái Lan. Năm 2005, hai nước đã ký
thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực giáo dục ở cấp bộ.
f. Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa du lịch.
Sự hợp tác giao lưu văn hóa du lịch giữa Nga và ASEAN cũng được chú ý phát triển cùng
với các quan hệ khác. Sự giao lưu văn hóa giúp cho người dân của hai bên hiểu biết lẫn nhau
và đó cũng là cơ sở để phát triển các lĩnh vực khác nhất là du lịch.
Để tăng cường quảng bá về đất nước, con người Nga đến gần hơn với dân tộc Đông Nam Á,
chính phủ Nga đã cho mở nhiều trung tâm ngôn ngữ, văn hoá Nga ở Việt Nam, Thái Lan,
Malayxia... thu hút nhiều người đến học tiếng Nga và tìm hiểu về văn hoá Nga. Những “ngày
văn hoá Nga” được tổ chức đều đặn ở một số nước ASEAN đã giới thiệu nền văn hoá Nga
giàu bản sắc riêng bản sắc thông qua các món ăn, phim ảnh, sách báo... Ngược lại các nền
văn hoá cuả các nước ASEAN cũng được tổ chức ở Nga.
Các đoàn nghệ thuật Nga đã đến thăm và tổ chức biểu diễn ở nhiều quốc gia ASEAN, tương
tự các đoàn nghệ thuật của các nước ASEAN cũng đã tổ chức nhiều chuyến lưu diễn đưa văn
hoá ASEAN đến giới thiệu với bạn bè Nga. Trong dịp kỷ niệm 42 năm thành lập ASEAN Đại
sứ các nước ASEAN cũng tổ chức “Ngày văn hóa _ ẩm thực ASEAN” tại Nga để giới thiệu
văn hóa ASEAN với người dân Nga.

Tóm lại, trong xu thế hội nhập của văn hoá thế giới, việc đẩy mạnh giao lưu văn hoá giữa
Nga với các nước ASEAN không chỉ giúp các nước tăng cường hiểu biết lẫn nhau, xích lại
gần nhau bất chấp khoảng cách về địa lý, quan trọng hơn văn hoá chính là cách tiếp cận mềm
dẻo cho các mối quan hệ ở mức cao hơn giữa Nga và ASEAN.
Trong những năm vừa qua ngành du lịch Nga và ASEAN đã phát triển với nhiều loại hình du
lịch như du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng và mới đây là du lịch sinh thái thu hút hàng triệu
khách mỗi năm từ khắp các vùng miền trên thế giới.

17


Những năm gần đây, do mức sống của người dân Nga và nhiều nước ASEAN tăng nhanh,
phát triển du lịch giữa hai phía Nga và ASEAN mạnh hơn. Ngày càng nhiều người Nga tìm
đến các nước ASEAN như điểm đến của du lịch, ASEAN được coi như một vùng đất đầy kỳ
thú.Kể từ năm 1998 cùng với tăng trưởng của nền kinh tế Nga lượng khách du lịch Nga ra
nước ngoài đã tăng đáng kể. Năm 1998, số người Nga đi du lịch nước ngoài hàng năm là
10,25 triệu, năm 2001 con số này đã tăng gấp đôi là 20,25 triệu và năm 2004 là 24,5
triệu.Theo Tạp chí ManilaTimes số ra ngày 06/12/2005 thì tỷ lệ tour Châu Âu – Đông Nam Á
ở Nga là 50-50 và điều này không chỉ ởMoscow mà còn ở nhiều thành phố khác.
Trước đây Thái Lan là địa chỉ quen thuộc thì hiện nay các điểm du lịch đã đa dạng hơn bao
gồm Việt Nam, Malaixia, Lào, Singapo, Campuchia, Philippin, Mianma.. Nếu như năm 2002
Thái Lan đón 40.341 lượt khách du lịch Nga thì con số đó tăng lên gấp đôi vào năm 2004 với
80.489 người. Đến năm 2006 con số đó tăng kỷ lục lên trên 200.000 người. Đặc biệt giữa
Nga và Thái lan có những chính sách nhằm đào tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy du lịch giữa
2 bên.
Sự đa dạng nhân chủng ở Indonesia đã tạo điểm riêng độc đáo thu hút khách du lịch ở Nga.
Năm 2003 số lượng du khách Nga tới Indonesia đạt 14.413, chiếm 0.32% lượng khách du
lịch nước ngoài tới Indonesia năm đó, đến năm 2005 con số này tăng lên đến 17,138 du
khách. Đến Malayxia du khách có thể tham gia môn lặn có bình dưỡng khí và các chương
trình mạo hiểm có tên là Robinsonada và thăm hòn đảo Bali xinh đẹp. Malayxia với nhiều

chiến lược quảng bá du lịch trên các phương tiện truyền thông đại chúng đặc biệt trên
Internet, đã và đang thu hút ngày càng nhiều du khách ở Nga.
Philippin đầu năm 2006 đưa ra thông báo về số lượng du khách tăng đột biến vào Philippin
năm 2005 ( tăng gấp 3 lần từ hơn 3000 khách năm 2004 lên hơn 10.000 năm 2005). Đầu năm
2006 Philippin đã tham gia vào hoạt động “SpaandHealthMoscow 2005” và
“LeisureFairMoscow 2005” tại Moscow nhờ đó có cơ hội quảng bá cho ngành du
lichPhilippin đến tất cả nước Nga rộng lớn.
Trong số các nước thành viên của ASEAN, Việt Nam là nước có quan hệ văn hóa với Nga
khá phát triển đây cũng là điều kiện tốt để phát triển quan hệ du lịch. Việt Nam và Nga đã ký
Hiệp định Hợp tác Du lịch ngày 19/11/1997 kể từ đó Việt Nam trở thành điểm đến cho khách
du lịch Nga. Khoảng 12.500 du khách Nga đến Việt Nam năm 2004, tăng 42% so với năm
2003, năm 2005 con số này là 23.800 và trong 8 tháng đầu năm 2006 số lượng du khách Nga
tới Việt Nam đã là 19.000( số liệu của bộ ngoại giao Việt Nam).
Hiện nay các nước ASEAN đang nỗ lực đưa ra các sáng kiến nhằm thúc đẩy sự phát triển của
ngành du lịch, đặc biệt chú ý tới các khách hàng mới và đầy tiềm năng như Nga - hiện đang
được xếp thứ mười thế giới về số lượng dân đi du lịch hàng năm.
Trong xu thế gia tăng mạnh mẽ khách du lịch trên thế giới trong đó có cả Nga và ASEAN
ngành du lịch của Nga và ASEAN cho thấy tiềm năng hợp tác rất lớn và hứa hẹn khả năng
sinh lời cao cho các nhà đầu tư và hoạt động du lịch của cả 2 bên. Vì vậy Nga và ASEAN đã
ký Hiệp định Hợp tác văn hóa ASEAN-Nga Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN – Nga lần thứ 2
ngày 30/10/2010.
1.3 Tổng quát mối quan hệ Nga – ASEAN trong thời gian qua

18


Kể từ nửa cuối thập kỷ 1990 mối quan hệ Nga – ASEAN mới được chú ý phát triển cho đến
nay theo đánh giá của nhiều chuyên gia cũng như các nhà quản lý, quan hệ Nga – ASEAN
vẫn chưa xứng tầm của hai bên trên tất cả các lĩnh vực từ quan hệ chính trị an ninh đến kinh
tế và văn hóa xã hội. Nhưng quan hệ Nga – ASEAN đang ngày càng phát triển mạnh và đạt

được nhiều thành tựu to lớn trong những năm qua.
Về mặt chính trị an ninh: Đây được đánh giá là lĩnh vực có sự tiến bộ nhanh nhất trong thời
gian vừa qua. Nga đã trở thành đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN từ năm 1996. Từ đó đến
nay quan hệ hai bên không ngừng được nâng lên. Đặc biệt sau khi Nga trở thành đối tác đối
thoại đầy đủ của ASEAN và thực hiện chiến lược đối ngoại theo hướng “cân bằng Đông Tây”, nước Nga ngày càng khẳng định vai trò của mình ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương
nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng. Trước biến động của tình hình thế giới và
trong nước, nước Nga cải cách đã chủ động hơn trong các mối quan hệ với các đối tác trong
đó có ASEAN. Thông qua các diễn đàn khu vực Đông Nam Á (ARF), diễn đàn châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) nước Nga đã có những đóng góp sáng kiến quan trọng nhằm duy trì hoà
bình và ổn định trong khu vực.
Nhiều hiệp định, tuyên bố chung đã được hai bên ký kết, nổi bật là Hội nghị thượng đỉnh lần
đầu tiên giữa Nga – ASEAN diễn ra năm 2005. Đông Nam Á không tiếp giáp trực tiếp với
lãnh thổ Nga như Đông Bắc Á nhưng trên bình diện địa chiến lược Nga lại có sự ràng buộc
với tiểu khu vực này về lợi ích chính trị, an ninh, quân sự, kinh tế, hàng hải rất quan trọng
nên chính sách Đông Nam Á luôn trở thành bộ phận không thể thiếu trong chiến lược toàn
cầu của Liên Bang Nga.
Trong quan hệ kinh tế - thương mại của Nga với các nước ASEAN hiện đang tiến triển tích
cực so với mấy năm trước. Quan hệ song phương Nga - ASEAN được cải thiện, trong đó bạn
hàng lớn nhất của Nga là Singapore và Thái Lan. Các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất
giữa Nga với các nước ASEAN còn ít và quy mô không lớn. Trong số đó, các liên doanh vận
tải biển và đánh bắt hải sản với Thái Lan, Singapore, Philippin là hoạt động tương đối có hiệu
quả hơn cả.
Quá trình lưu chuyển vốn giữa Nga với các nước Đông Nam Á thời gian qua có những nét
mới so với trước đây. Nga không còn là một trong những nước cung cấp viện trợ, đầu tư lớn
nhất ở Đông Nam Á như Liên Xô (chủ yếu do Đông Dương). Nga hiện nay cung cấp vốn cho
một số nước ASEAN nhưng chủ yếu là thông qua hình thức vay để thanh toán các khoản tiền
mua vũ khí, kỹ thuật quân sự của Nga. Đổi lại, Nga cũng được các nước ASEAN cho vay để
mua gạo, nông sản và các hàng hóa tiêu dùng khác.
Quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư Nga – ASEAN có thể nói mới trong giai đoạn đầu của
quá trình phát triển. Quan hệ kinh tế Nga – ASEAN mới chỉ dựa vào một số lĩnh vực là thế

mạnh của cả hai bên, chưa có sự hợp tác toàn diện với Nga lĩnh vực năng lượng và vũ khí vẫn
là thế mạnh để thâm nhập khu vực Đông Nam Á. Đầu tư của Nga cũng chỉ tập chung chủ yếu
ở một số lĩnh vực về năng lượng như dầu khí.
Quan hệ của Nga mới chỉ tập trung vào một số nước ASEAN như với Singapo, Việt Nam,
Thái Lan, Malayxia, Indonesia và một số có quan hệ ít hơn như là Philippin còn những nước
như Lào, Campuchia, Mianma hay Bruney, quan hệ kinh tế với Nga không đáng kể.
Về các mặt khác: như lĩnh vực hợp tác khoa học công nghệ, văn hóa giáo dục Nga – ASEAN
còn rất hạn chế. Các ý tưởng mới hình thành, các hành động đang ở bước đầu của sự thử

19


nghiệm. Hợp tác khoa học công nghệ còn quá nghèo nàn so với tiềm năng khoa học công
nghệ dồi dào của Nga và nhu cầu lớn của các nước ASEAN. Quan hệ về văn hóa, xã hội Nga
– ASEAN bị cản trở rất nhiều vì người dân các nước ASEAN hiểu biết rất hạn chế về nước
Nga và ngược lại người dân Nga cũng biết ít về các nước Đông Nam Á.
Một đặc điểm nổi trội trong quan hệ Nga – ASEAN là các quan hệ song phương trong khi
hợp tác đa phương trong khuôn khổ ASEAN mới đạt được những bước đi ban đầu. Khởi sắc
sớm và phát triển tương đối hoàn chỉnh là quan hệ Nga – Thái Lan. Hiện nay hai bên đã xúc
tiến xây dựng các liên doanh mới trên lĩnh vực vận tải, du lịch, công nghiệp giấy, hóa chất,
khai thác đá quý… Đặc biệt hợp tác Nga – Thái trong lĩnh vực kỹ thuật tên lửa và vũ trụ diễn
ra khả quan. Quan hệ Nga – Việt cũng khá nổi bật, Nga có quan hệ khá chặt chẽ với Việt
Nam và đã từng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam và đã từng có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam và quan hệ truyền thống này tạo thuận lợi
không nhỏ trong việc thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam – Liên Bang Nga. Tuy nhiên
quan hệ này vẫn phát triển chậm không thỏa đáng so với nền tảng đã có.
III.
Quan hệ Nga – ASEAN trong bối cảnh thời đại mới
1.1 Triển vọng trong mối quan hệ Nga- ASEAN dựa trên một số lĩnh vực
Đài Tiếng nói nước Nga ngày 25/12 có bài bình luận về mối quan hệ giữa Nga và ASEAN,

trong đó nhấn mạnh: "Năm 2010, Nga và ASEAN đã xích lại gần nhau hơn không phải về
mặt địa lý mà về mặt chính trị. Số phận của Nga không tách rời số phận châu Á. Moscow chủ
trương tích cực tham gia quá trình liên kết ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương"
a. Phát triển về chính trị - an ninh
Lĩnh vực hợp tác về an ninh, chính trị giữa Nga và ASEAN hiện nay và trong thời gian tới là
sự phối hợp hành động trong khuôn khổ ARF. Nga vừa là một trong những thành viên sáng
lập (từ 1994), vừa là Đồng chủ tịch các cuộc họp giữa kỳ của ARF về hợp tác khắc phục
thiên tai (1998 - 2000) và về chống chủ nghĩa khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia (2003 2004).
Nga và ASEAN đã bày tỏ sự ủng hộ những nỗ lực của nhau trong việc sử dụng các cơ chế
hiện có như APEC, ARF, ACD( đối thoại hợp tác Châu Á), SCO, cũng như việc thiết lập khu
vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân theo Hiệp ước SEANWFZ và xây dựng cộng
đồng an ninh ASEAN.
Việc tăng cường hợp tác chính trị và an ninh trong thời gian tới được xác định là vẫn phát
triển dựa trên các cơ sở đã có được, đồng thời thường xuyên tiến hành các cuộc tiếp xúc trong
phạm vị các cơ chế đối thoại. Nhấn mạnh hợp tác trong lĩnh vực chống khủng bố và tội phạm
xuyên quốc gia. Thường xuyên tiến hành các cuộc họp các nhân vật cấp cao Nga – ASEAN
về chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia. Trao đổi thông tin về tội phạm xuyên quốc
gia và khủng bố ngăn chặn chúng vẫn là định hướng chính.
Một trong những quan hệ khá nổi bật hiện nay giữa ASEAN và Nga và sẽ tiếp tục được chú ý
phát triển trong thời gian tới là hợp tác an ninh quốc phòng, trong đó có việc mua bán vũ khí,
đào tạo và trao đổi nhân viên quốc phòng. Sự xuất khẩu vũ khí của Nga đã và đang trở thành
một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đưa về cho đất nước nhiều ngoại tệ và làm tăng ảnh
hưởng chính trị, an ninh của Nga trên trường quốc tế, trong đó có khu vực các nước ASEAN
còn các nước ASEAN ngày càng đầu tư lớn hơn cho ngân sách quốc phòng và đang đa dạng

20


hóa các khách hàng của mình và hướng tới Nga. Sự hợp tác quân sự giữa các nước ASEAN
và Nga được thể hiện rõ qua các bạn hàng như Indonesia, Malayxia và Việt Nam.

b. Phát triển về kinh tế
Trong 10 năm tới Nga và ASEAN sẽ phát triển theo chiều sâu với sự tăng dần thị phần hàng
hóa có giá trị tăng cao và các công nghệ phức tạp hơn. Sự thay đổi rộng lớn và đa dạng của
xuất khẩu sẽ cuốn hút cả hai phía, xong các đặc tính về chất lượng sẽ khác nhau. Các nước
ASEAN rõ ràng tập trung vào kỹ thuật đa dạng của cuộc sống hàng ngày, công nghệ thông
tin, các sản phẩm công nghiệp, một số dạng sản phẩm kỹ thuật máy và công cụ sản xuất công
nghiệp. Còn nước Nga phù hợp với sự chuyên môn hóa đã có, tập trung vào ngành công
nghiệp hàng không và vũ trụ, thiết bị luyện kim, năng lượng thủy nhiệt điện, năng lượng
nguyên tử, các dạng khác của chế tạo máy hạng nặng và giao thông, công nghệ sinh học, các
vật liệu mới.
Nga và ASEAN đã và đang xây dựng các chương trình phát triển chung các khuôn khổ hợp
tác chặt chẽ hơn và đồng thời Nga cũng đang tìm kiếm hợp tác song phương với từng thành
viên ASEAN. Trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh 2005 hai bên đã ký Hiệp định Hợp tác
Kinh tế và phát triển, đây được xem là nền tảng của chương trình hợp tác toàn diện 10 năm
giữa Nga và ASEAN.
c. Phát triển về văn hóa, khoa học và giáo dục
Trong hội nghị thượng đỉnh Nga – ASEAN tại KualaLumpur hai bên đã thông qua chương
trình hành động toàn diện nhằm thúc đẩy hợp tác Nga – ASEAN giai đoạn 2005 – 2015.
Chương trình này nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra giữa chính phủ Nga và chính phủ các
nước ASEAN tăng cường hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó, lĩnh vực trao đổi
văn hóa, khoa học nằm trong nội dung hợp tác thứ tư gọi chung là hợp tác chức năng.
Nga và ASEAN đã nhấn mạnh việc mở rộng quan hệ về nhân văn và tăng cường giao lưu trên
phạm vi địa phương và khu vực. Với mục đích này, Nga và ASEAN đã tính đến việc xây
dựng cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN và không gian thống nhất về du lịch ASEAN và sẽ
nghiên cứu, thực hiện các chương trình trao đổi văn hóa giáo dục, thể thao, các chương trình
trao đổi khác nhằm củng cố không khí hiểu biết tin tưởng lẫn nhau giữa 2 bên.
Thêm vào đó, trong thời gian tới để phát triển kinh tế Nga cần đa dạng hóa các mối quan hệ,
trước hết là các sản phẩm khoa học, chế tạo máy, dịch vụ viễn thông, hàng không vũ trụ. Các
nhà khoa học Nga cũng cho rằng thị trường ASEAN có tiềm năng hơn so với các nước phát
triển vì các mặt hàng xuất khẩu của Nga đặc biệt là chế tạo máy đã bước đầu trở lên quen

thuộc với nhiều người dân ASEAN, mức độ phát triển của hầu hết các nước ASEAN đang ở
tầm mà họ không đòi hỏi quá phức tạp đối với sản phẩm. Mặt khác đồ chế tạo máy của Nga
tương đối rẻ so với các sản phẩm có tính năng tương tự của các nước EU. Dựa vào điều kiện
các dự án công nghiệp cao dựa trên tiềm lực kỹ thuật cao của Nga và sức lao động rẻ nhưng
hiệu quả của khu vực Đông Nam Á.
Quan hệ hợp tác khoa học giáo dục giữa Nga và các nước ASEAN đã có từ rất lâu ít nhất là
từ nửa sau thế kỷ XIX. Trong thời kỳ chiến tranh các nước như Việt Nam, Lào, Campuchia
có quan hệ mật thiết với Liên Xô. Hợp tác trên các lĩnh vực từ kinh tế quân sự giáo dục đào
tạo văn hóa thể thao phát triển chưa từng có các trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà
máy, hầm mỏ, lực lượng vũ trang đâu đâu cũng in đâm dấu ấn văn hóa Nga do đó quan hệ

21


văn hóa khoa học kỹ thuật giáo dục Nga – ASEAN trong thời gian tới tiếp tục dựa trên nền
tảng đã có.
1.2 Các giải pháp thúc đẩy quan hệ giữa Nga và ASEAN trong tương lai
a. Tăng cường hợp tác chính trị, an ninh gắn với hợp tác kinh tế.
Việc tăng cường hợp tác chính trị an ninh sẽ làm cơ sở cho hợp tác toàn diện Nga – ASEAN
trong thời gian tới. Nga và ASEAN cần có cách tiếp cận tổng thể về cấn đề an ninh đồng thời
gắn hợp tác chính trị an ninh với hợp tác kinh tế và hợp tác trong các lĩnh vực khác mà mục
tiêu tối cao là nâng cao vị thế của Nga ở Đông Nam Á cũng như vị thế của ASEAN ở Nga.
Đảm bảo an ninh và ổn định ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt ở khu vực biển
Đông. Đây là tuyến đường biển quan trọng không chỉ với các nước có tiếp giáp tiếp với các
nước có tiếp giáp trực tiếp với biển Đông như 7 nước ASEAN (Việt Nam, Indonesia,
Malayxia, Philippin, Brunây, Singapore, Thái Lan), mà còn đối với các cường quốc khác
trong đó có Liên bang Nga. An ninh của khu vực biển Đông có ý nghĩa quyết định đối với
các hoạt động kinh tế trong khu vực và trên toàn cầu.
Một lĩnh vực mà Nga có ưu thế và lĩnh vực được các nước ASEAN quan tâm đó là việc hợp
tác dự báo và phòng chống thiên tai những định hướng và giải pháp cụ thể vấn đề này đã

được xác định khá chi tiết trong Chương trình hành động tổng thế.Giới thiệu công nghệ của
Nga và kinh nghiệm giám sát việc xử lý môi trường và công nghệ gây nguy hiểm và phát
triển phần mềm dành cho việc đưa ra các quyết định về ứng đối với thảm họa.
Một vấn đề khác cũng được quan tâm như là một trong những hợp tác an ninh Nga – ASEAN
là đảm bảo an ninh liên quan đến quá trình di cư quốc tế đặc biệt là việc đảm bảo an toàn cho
các cư dân và khách du lịch của mỗi bên đang hoạt động và sinh sống trên lãnh thổ của nhau.
Hai bên cũng xem xét việc tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh Nga – ASEAN lần tiếp theo sau lần
thứ 2 được tổ chức vào 30/10/2010 để hoàn thiện hơn quan hệ Nga ASAEN và tạo thêm một
nấc thang nữa cho quan hệ hai bên.
b. Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Hợp tác về lĩnh vực thương mại và đầu tư giữa Nga và ASEAN vẫn còn chưa tương xứng vậy
nên Nga và ASEAN cần sớm nghiên cứu một Hiệp định thương mại tự do Nga – ASEAN đây
là một hướng ưu tiên và giải pháp hàng đầu để thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai bên về cơ
bản hiệp định này bao gồm cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ tuy nhiên cần xác
định những danh mục ưu tiên tự do hóa phù hợp với đặc điểm kinh tế của mỗi bên.
Đa dạng hóa những hàng hóa và dịch vụ trong thương mại đôi bên, trước hết là xuất nhập
khẩu những sản phẩm lợi nhuận cao và có sức cạnh tranh về giá cả. Tăng khối lượng cùng
với tăng tỷ phần hàng hóa có lợi nhuận và kỹ thuật cao trong thương mại song phương.
Thúc đẩy hợp tác ở cấp động doanh nghiệp, ngành và địa phương của các nước ASEAN và
Nga. Sự tham gia của các khu vực, các chủ thể kinh tế, trong đó có cả đại diện của những
doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được tính đến nhiều hơn và đòi hỏi phải thành lập một hệ thống
thông tin rõ ràng và tin cậy về những điều kiện kinh tế tài chính của các chủ thể ở Nga và các
nước ASEAN.
Một trong những hạn chế trong quan hệ kinh tế Nga – ASEAN là tốc độ cũng như giá trị đầu
tư hai chiều không cao mà nguyên nhân cơ bản là do thủ tục pháp lý rườm rà, hai bên chưa có

22


cơ chế khuyến khích đầu tư bởi vậy thời gian qua thị trường Nga thiếu sức hấp dẫn đối với

các nhà đầu tư ASEAN và ngược lại các nhà đầu tư đến từ Nga cũng không mặn mà đối với
thị trường ASEAN.
Thuận lợi hóa đầu tư cũng là một xu hướng chung và tiềm năng quan hệ kinh tế Nga –
ASEAN trong lĩnh vực này là rất lớn đặc biệt khi xem xét triển vọng kinh tế của Nga và
ASEAN trong thời gian tới.
Để thuận lợi hóa đầu tư, Nga và ASEAN cần: Cùng nhau đưa ra các giải pháp cải thiện môi
trường đầu tư (bao gồm thủ tục cấp phép, quy chế hoạt động, chính sách thuế quan, dịch
vụ…). Đặc biệt trong các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm như: đầu tư của Nga vào tam giác
phát triển, tiểu vùng sông Mê Kông, thăm dò khai thác và chế biến dầu khí; đầu tư của
ASEAN vào Nga như: chế biến thực phẩm, công nghiệp phục vụ cuộc sống, vật liệu xây
dựng…
Bảo hiểm đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt là đầu tư của ASEAN vào Nga, thị trường Nga về
cơ bản mang tính bảo hộ cao và các quan hệ thị trường chưa hoàn toàn phát triển. Điều này
làm tăng tính rủi ro cho các nhà đầu tư càng khiến các nhà đầu tư e ngại khi tham gia các dự
án kinh doanh ở Nga.
Cần gắn kết các hoạt động đầu tư với hoạt động thương mại hóa và thương mại dịch vụ. Theo
hướng này, trong giai đoạn tới những ưu đãi thương mại cần gắn với các lĩnh vực đầu tư ưu
tiên như đã nêu trong Hiệp định về hợp tác kinh tế và phát triển.
c. Tăng cường hỗ trợ phát triển giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục và đào tạo.
Để thúc đẩy hợp tác giao lưu văn hóa, giáo dục đào tạo, ASEAN và Nga cần đầu tư nhiều
hơn vào Quỹ phát triển hợp tác ASEAN – Nga. Hàng năm các nước ASEAN và Nga nên tổ
chức các ngày văn hóa của nhau ở mỗi nước.
Tăng cường tiếp xúc con người thông qua trao đổi chuyên giao trong lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật, sân khấu, âm nhạc, tạp kỹ, múa, kịch, bảo tàng và thư viện. Tạo điều kiện cho các nghệ
sĩ trẻ được tham gia các khóa học, hội thảo về lĩnh vực mà họ quan tâm và tạo điều kiện trao
đổi văn hóa trên cơ sở thương mại. Đẩy mạnh hợp tác giữa Itar – Tass và thông tấn xã của
các nước ASEAN, tạo điều kiện cho các nhà báo của ASEAN và của Nga trao đổi giao lưu.
Tăng cường triển lãm giáo dục tổ chức hội nghị, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về giáo dục –
đào tạo.
d. Tăng cường hợp tác trên một số lĩnh vực ưu tiên.

Tập trung cải thiện và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông:
Giữa Nga và ASEAN có một khoảng cách địa lý khá lớn cộng thêm tình trạng kém phát triển
kết cấu hạ tầng giao thông đã gây trở ngại lớn cho quan hệ mọi mặt đặc biệt là quan hệ kinh
tế giữa đôi bên.
Phát triển tuyến đường biển từ các cảng của ASEAN đến cảng Vladivostoc của Nga hiện nay
tuyến đường này chủ yếu có các tàu của Hàn Quốc và Nhật Bản hoạt động hàng hóa từ Việt
Nam và các nước ASEAN khác khóa đi vào vùng Viễn Đông của Nga. Song song với phát
triển tuyến đường biển này thì cần nối lại và phát triển tuyến đường sắt Âu – Á nối Nga nới
các nước Đông Nam Á. Vận tải hàng không cũng là một lĩnh vực cần được hai bên quan tâm

23


và phát triển. Hiện nay các chuyến bay và dịch vụ hàng không giữa Nga và ASEAN chưa
phát triển đủ mức cần thiết để thúc đẩy hoạt động thương mại và du lịch phát triển.
Hợp tác năng lượng và an ninh năng lượng:
Nga mặc dù không phải thành viên của tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) nhưng
nước Nga chiếm một vị trí quan trọng trong cung cấp dầu mỏ và khí gas lớn trên thế giới .
Một mặt Nga và ASEAN hợp tác xây dựng các đường cung cấp dầu khí từ phía Đông nước
Nga sang các nước ASEAN mặt khác Nga có thế mạnh về công nghiệp năng lượng như kỹ
thuật xây dựng các nhà máy điện kể cả điện hạt nhân. Rõ ràng, hợp tác năng lượng và an ninh
năng lượng giữa Nga và ASEAN là một trong những hướng hợp tác ưu tiên của Nga trong
những năm đầu thế kỷ XXI.
Thúc đẩy hợp tác khoa học và công nghệ:
Thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, trong xu hướng đó hợp tác khoa học và công
nghệ là lĩnh vực có nhiều tiềm năng và góp phần thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác khác. Ưu tiên
hợp tác trong lĩnh vực này là phối hợp nghiên cứu cơ bản trong những mảng thế mạnh của
Nga như: thăm dò, khai thác dầu khí, năng lượng, hàng không vũ trụ…Cần khuyến khích các
nhóm nghiên cứu chung triển khai ý tưởng và các dự án hợp tác đã được các cấp lãnh đạo của
đôi bên thông qua.

Phát triển các hình thức thuê mua các dịch vụ công nghệ cao của Nga. Tổ chức các diễn đàn
khu vực và trong nước và các hoạt động có liên quan để khuyến khích chương trình hợp tác
chuyển giao công nghệ giữa Nga và ASEAN. Khuyến khích chuyển giao công nghệ và trao
đổi cùng có lợi giữa các thành viên của ASEAN với Nga tăng cường hợp tác trao đổi thông
tin khoa học và công nghệ và thực hiện các dự án liên kết chính.
Quan hệ về khoa học và công nghệ giữa Nga và ASEAN sẽ được xác định phương hướng ưu
tiên và hình thức hợp tác trên cơ sở: Quan điểm tiếp cận nhu cầu giữa Nga và Ủy ban
ASEAN trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Phát triển hợp tác trong lĩnh vực truyền thông và thông tin, đặc biệt với việc sử dụng tiềm
năng vũ trụ của Nga.Cuối cùng là lĩnh vực du lịch cũng cần được coi trọng hơn nữa, các dự
án phát triển du lịch cần được đẩy mạnh.
1.3 Vai trò cầu nối của Việt Nam trong mối quan hệ Nga – ASEAN
a. Vai trò của Việt Nam trong mối quan hệ Nga – ASEAN
Việt Nam và Liên Bang Nga có quan hệ truyền thống lâu đời, kinh nghiệm hợp tác Nga –
Việt và việc coi Việt Nam như một trung gian đặc biệt để tìm kiếm những dự án và những
hướng hợp tác mới với những nước khác của ASEAN sẽ góp phần vào phát triển quan hệ
kinh tế của Nga với các nước ASEAN.
Nga đã coi Việt Nam như “cầu nối” có vai trò điều phối thúc đẩy quan hệ Nga – ASEAN.
Thậm chí trong quan hệ song phương Nga xếp Việt Nam là đối tác quan trọng thứ tư trong
khu vực châu Á – Thái Bình Dương (chỉ sau Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ). Tuy vậy vai
trò điều phối thúc đẩy quan hệ Nga – ASEAN phụ thuộc vào nhiều yếu tố trước hết là phụ
thuộc vào quan điểm của Nga đối với ASEAN, vào quan hệ Việt – Nga và vị thế của Việt
Nam trong ASEAN cũng như trong quan hệ hợp tác đa phương của ASEAN.

24


Bước tiến quan trọng đưa quan hệ Việt – Nga lên tầm chiến lược là chuyến thăm chính thức
Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin (2/2001). Đây là chuyến thăm đầu tiên của một
người đứng đầu nhà nước trong lịch sử quan hệ Việt – Nga. Hai bên đã kí “Tuyên bố về đối

tác chiến lược” khẳng định quan hệ hữu nghị truyền thống giờ đây được phát triển trên cơ sở
phi tư tưởng hóa.
Với vai trò là điều phối viên, trong những năm qua Việt Nam luôn ủng hộ Nga trong việc
tăng cường quan hệ đối thoại với ASEAN cũng như trong các tổ chức hợp tác khu vực khác.
Năm 2004, khi Việt Nam là chủ nhà của diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Nga thể hiện
nguyện vọng muốn gia nhập tổ chức này và được Việt Nam nhiệt tình ủng hộ. Mặc dù Nga
chưa gia nhập ASEM nhưng đây cũng là tiền đề cơ sở để ý tưởng này sớm trở thành hiện
thực.
Sau hội nghị thượng đỉnh Nga - ASEAN, Việt Nam tiếp tục khẳng định nỗ lực góp phần thúc
đẩy quan hệ Nga – ASEAN, cũng như thực hiện các mục tiêu của tuyên bố chung. Có thể nói,
trong thời gian vừa qua, vai trò của Việt Nam trong quan hệ Nga - ASEAN không ngừng
được nâng cao. Điều này có được xuất phát từ thành công của Việt Nam trong công cuộc đổi
mới và vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao.
Với việc Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC (2006), trở thành
thành viên không thường trực của hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc (nhiệm kì 2008 - 2009) và
đặc biệt trong năm 2010 với cương vị chủ tịch ASEAN Việt Nam đã đứng ra tổ chức Hội
nghị cấp cao ASEAN với sự tham gia của các đối tác, trong đó có Hội nghị thượng đỉnh Nga
- ASEAN. Có thể nói uy tín của Việt Nam trên thế giới nói chung và trong ASEAN nói riêng
đã tăng lên đáng kể, điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ phát huy tốt hơn vai trò cầu
nối cho quan hệ giữa Nga và ASEAN.
b. Tác động quan hệ Nga - ASEAN tới Việt Nam
Trong nửa cuối thập kỷ 90 thế kỉ XX khi Nga triển khai chiến lược đối ngoại “chim ưng hai
đầu”, tăng cường quan hệ giữa ASEAN nói riêng và Châu Á nói chung thì quan hệ Việt Nga
càng bắt đầu khởi sắc, Việt Nam trở thành đối tác hàng đầu của Nga trong khu vực.
Trong hơn 10 năm qua Việt Nam và Nga đã thường xuyên trao đổi các chuyến thăm của
Tổng thống, Chủ tịch nước và các cấp lãnh đạo chính phủ, Quốc hội, đặc biệt là Tổng thống
V.Putin đã hai lần sang thăm Việt Nam (2001 và 2006) và dự kiến Tổng thống đương nhiệm
D.Medvedew sẽ thăm Việt Nam trong năm 2010 đã chứng tỏ Nga rất coi trọng mối quan hệ
hữu nghị và tin cậy với Việt Nam.
Sự ấm lên trong quan hệ chính trị, ngoại giao đã tác động tích cực đến quan hệ kinh tế Việt Nga trong thời gian qua, cụ thể là kim ngạch thương mại hai chiều không ngừng gia tăng. Có

thể nói sự gia tăng liên tục về quan hệ thương mại và đầu tư trong thời gian qua đã chứng tỏ
nỗ lực của hai phía và đã đưa Việt Nam trở thành một trong ba đối tác kinh tế quan trọng nhất
của Nga ở khu vực Đông Nam Á.
Ngoài ra Nga đã dành cho Việt Nam những ưu tiên trong các lĩnh vực hợp tác mà Nga có thế
mạnh như khoa học, kỹ thuật, giáo dục, quân sự. Đặc biệt hiện nay, Nga vẫn là nước góp
phần đào tạo nguồn nhân lực chính cho Việt Nam. Hàng năm Nga cấp cho Việt Nam khoảng
300 suất học bổng đào tạo đại học, sau đại học tại các trường đại học và học viện ở Nga.
Ngoài ra số lượng du học sinh tự túc sang Nga đã lên đến hơn 5000 người.

25


×