Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

PHÁP LUẬT về GIẢI QUYẾT nợ xấu TRONG HOẠT ĐỘNG của NGÂN HÀNG THƯƠNG mại và THỰC TIỄN áp DỤNG tại AGRIBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT

CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM –
CHI NHÁNH CHƯƠNG MỸ

Tên sinh viên
MSV
Lớp
Giáo viên hướng dẫn

: Vì Văn Quý
: CQ534937
: Luật kinh doanh 53B
: TS. Vũ Văn Ngọc

Hà Nội, 2015


MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT.........................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1.............................................................................................................. 3
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT NỢ XẤU TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI........................................................3


1.1. Khái quát về pháp luật giải quyết nợ xấu trong hoạt động của ngân hàng thương mại.........3
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại....................................................................................3
1.1.2. Khái niệm nợ xấu.............................................................................................................5
1.1.3. Phân loại nợ xấu..............................................................................................................6
1.1.4. Pháp luật và cơ chế giải quyết nợ xấu ở Việt Nam hiện nay ...........................................8
1.1.5. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới..............................................12
1.2. Thực tiễn giải quyết nợ xấu trong hoạt động của ngân hàng thương mại............................15
1.2.1. Thực tế xử lý nợ xấu của Việt Nam hiện nay..................................................................15
1.2.2. Thực tiễn giải quyết nợ xấu bởi các ngân hàng thương mại .........................................18

CHƯƠNG 2 ........................................................................................................... 21
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM – CHI NHÁNH CHƯƠNG MỸ
................................................................................................................................. 21
2.1. Tổng quan về ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ...............................................21
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ....21
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ...............................24
2.1.3. Đánh giá hoạt động của ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ........................31
2.1.4. Tình hình thực hiện pháp luật về nghĩa vụ và mối quan hệ của ngân hàng No&PTNT –
Chi nhánh Chương Mỹ với cơ quan nhà nước........................................................................35
Quan hệ với cơ quan nhà nước về tài chính............................................................................38
2.2. Thực trạng giải quyết nợ xấu tại ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ..................38
2.2.1. Thực trạng xử lý nợ xấu.................................................................................................38


2.2.2. Thực trạng việc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại Agribank Chương Mỹ................42

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ
NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN VIỆT NAM – CHI NHÁNH CHƯƠNG MỸ..........................................48

3.1. Định hướng phát triển của ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ..........................48
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả xử lý nợ xấu tại No&PTNT – Chi nhánh Chương
Mỹ...............................................................................................................................................49
3.3. Một số kiến nghị với cơ quan nhà nước...............................................................................54

KẾT LUẬN............................................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................64


DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
AMC
CT-NHNN
DPRR
FED
GDP
KAMCO
NĐ-CP
No&PTNT
NHTM
NHTW
QĐ-NHNN
QĐ-TTg
TCTD
TT-NHNN
TT-NHNN
UBND
USD
VAMC
VNĐ

XHCN

Nguyên văn
Asset Management Company (công ty quản lý tài sản)
Chỉ thị Ngân hàng Nhà nước
Dự phòng rủi ro
Federal Reserve System (Cục Dự trữ Liên bang Mỹ)
Gross Domestic Product (tổng sản phẩm quốc nội)
Công ty quản lý tài sản của Ngân hàng phát triển Hàn Quốc –
KDB
Nghị định – Chính phủ
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Trung Ương
Quyết định – Ngân hàng Nhà nước
Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ
Tổ chức tín dụng
Thông tư – Ngân hàng Nhà nước
Thông tư Ngân hàng Nhà nước
Ủy bân nhân dân
United States dollar (Đồng đô la Mỹ)
Công ty quản lý tài sản ở Việt Nam
Việt Nam Đồng (Đồng tiền Việt Nam)
Xã hội chủ nghĩa


LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn
cầu, Việt Nam đã gặp không ít những thách thức đối với nền kinh tế nói chung và
thị trường tài chính nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, việc suy yếu và

sụp đổ hàng loạt của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế giới đã ảnh hưởng không
nhỏ đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
sụp đổ đó xuất phát từ hậu quả do hoạt động tín dụng mang lại. Việc quản lý và
kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân hàng không tốt đã làm cho nợ xấu gia tăng,
kéo theo đó là lợi nhuận suy giảm, thậm chí là thua lỗ nặng. Hoạt động kinh doanh
của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình hình
nợ xấu ngày một gia tăng, cùng với gánh nặng từ các khoản nợ xấu còn tồn đọng
trong một thời gian dài chưa xử lý được dẫn đến hệ thống ngân hàng ngày càng suy
yếu, ảnh hưởng tới thị trường tài chính nước nhà. Việc quản lý và kiểm soát nợ xấu
luôn cần được chính các ngân hàng cũng như Nhà nước phải nhìn nhận và thực hiện
một cách nghiêm túc và mạnh tay để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng nói
riêng và hoạt động kinh doanh nói chung đối với mỗi ngân hàng, đảm bảo một thị
trường tài chính trong sạch và vững mạnh, thu hút được đầu tư đối với doanh
nghiệp cũng như nhà đầu tư nước ngoài.
Agribank – Chi nhánh Chương Mỹ được thành lập và hoạt động dưới mô
hình là một chi nhánh của ngân hàng thương mại Agribank Việt Nam, Trong quá
trình thực tập tại ngân hàng, được làm việc tham gia và tiếp xúc trực tiếp với bộ
máy làm việc và quản lý của ngân hàng, thấy được phần nào công tác xử lý nợ xấu
tại ngân hàng nên em đã chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết nợ xấu trong hoạt
động của ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng nông
nghiệp và pháp triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Chương Mỹ”
Nhận thức rõ tình hình hoạt động tài chính trong nước cũng như hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn tái cơ cấu mạnh mẽ, việc xử lý
nợ xấu đang diễn ra hết sức mạnh tay tay trong hệ thống ngân hàng nói riêng và
Nhà nước đang có những quy định pháp luật quy định rõ ràng về vấn đề này nói
chung. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề nhằm tìm hiểu và nhận thức rõ những
1


quy định của pháp luật về việc xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại. Từ đây đề ra

định hướng phát triển cũng như giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Chương Mỹ.
Chuyên đề thực tập đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp thống kê, so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống
Kết cấu của chuyên đề thực tập.
Chuyên đề bao gồm các phần sau: Lời mở đầu, nội dung, kết luận. Trong đó
phần nội dung của chuyên đề bao gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT NỢ XẤU
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT NỢ XẤU TẠI NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM – CHI
NHÁNH CHƯƠNG MỸ
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM – CHI NHÁNH CHƯƠNG MỸ
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. VŨ VĂN NGỌC đã giúp tôi hoàn thành
chuyên đề này.

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT NỢ XẤU TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về pháp luật giải quyết nợ xấu trong hoạt động của ngân hàng
thương mại.
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.

 Khái niệm ngân hàng thương mại ở một số nước trên thế giới:
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền
kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng
thì ngân hàng thương mại tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả
ngân hàng thông qua chênh lệch lại suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng.
Ngân hàng với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền
với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được gọi là
Ngân hàng thương mại.
Trải qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển, Ngân hàng thương
mại được các tổ chức tín dụng của các nước trên thế giới đưa ra các nhận định khác
nhau để diễn đạt về hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Sau đây là một số
định nghĩa khác nhau về Ngân hàng thương mại:


Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung

cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Tại
Hoa Kỳ từ "ngân hàng thương mại" thường được sử dụng để phân biệt với ngân
hàng đầu tư do sự khác biệt trong quy định của ngân hàng. Sau cuộc đại khủng
hoảng, thông qua Đạo luật Glass-Steagall1, Quốc hội Hoa Kỳ yêu cầu các ngân hàng
thương mại chỉ tham gia vào các hoạt động ngân hàng, trong khi các ngân hàng đầu

1

Đạo luật cải cách tài chính của Mỹ được ban hành năm 1933
3



tư đã được giới hạn cho các hoạt động thị trường vốn. Sự tách biệt này chủ yếu
được bãi bỏ vào năm 1990.


Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng

thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận
tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính".


Trong luật ngân hàng của Đan Mạch 1930 lại định nghĩa: “ Những nhà

băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương
mại và hành nghề địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các
nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm,…”


Ở ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho

vay hay tài trợ và đầu tư.


Ở Thổ Nhĩ Kỹ: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn được

thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.

 Khái niệm ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị quyết
Đại hội Đảng VI và các Nghị quyết Đại hội Đảng sau đó, công cuộc đổi mới đất
nước được triển khai mạnh mẽ, nền kinh tế chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước và
từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Hệ thống Ngân hàng cũng từng bước đổi mới và phát triển, hoàn thiện về mô
hình tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Mô hình ngân hàng
một cấp chuyển thành mô hình ngân hàng hai cấp, tách bạch dần chức năng quản lý
nhà nước của Ngân hàng Nhà nước với chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng của
các TCTD. Ngân hàng Nhà nước, với vai trò là cơ quan ngang bộ của Chính phủ,
Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã điều hành
chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình, góp phần kiểm soát
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tích cực đổi mới,
4


hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, phát triển nghiệp vụ NHTW; đổi
mới tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát; tăng cường hiện đại hóa công nghệ,
phát triển dịch vụ ngân hàng; đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/1997 hết hiệu lực vào ngày 01/01/2011:
“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.” Cũng theo luật này,
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 do Quốc Hội banh hành có hiệu lực kể
từ ngày 01/01/2011, quy định tại Điều 4, Khoản 3: “Ngân hàng thương mại là loại
hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động

kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” Cũng
theo Luật này,” Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên
một hoặc một số các nghiệp vụ sau: Nhận tiền gửi, Cấp tín dụng, Cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản.”
Như vậy, Ở Việt Nam ngân hàng thương mại có thể được hiểu như sau:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán.
1.1.2. Khái niệm nợ xấu
Tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác nhau mà có những khái
niệm về nợ xấu khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì nợ xấu là các khoản nợ bị
suy giảm khả năng thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi.
 Theo Phòng thống kê – Liên Hợp Quốc: Một khoản nợ được coi là nợ
xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90
ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các

5


khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi
ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
 Theo Ngân hàng Trung ương Châu Âu: Nợ xấu là nợ không được
thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng; Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người vay
phá sản và phần bồi hoàn cho Ngân hàng ít hơn dư nợ phải thanh toán; Những
khoản nợ không thể thu hồi được, bao gồm: Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc
những khoản nợ không có đủ căn cứ đòi thanh toán từ người vay; Người vay bỏ
trốn hoặc mất tích, không có tài sản giữ lại để thanh toán nợ; Những khoản nợ mà
Ngân hàng không thể liên lạc được với người vay hoặc không thể tìm được người
vay; Những khoản nợ mà người vay chấm dứt hoạt động kinh doanh, hoặc thanh lý

tài sản, hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
Còn ở Việt Nam, kể từ sau khi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam được ban hành, Việt Nam
mới thực sự đề cập đến khái niệm về nợ xấu. Mặc dù đã dần tiếp cận với những
chuẩn mực quốc tế, đề cập đến việc đánh giá các khoản nợ trên cả khía cạnh định
lượng và định tính, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt nhất định. Theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được định nghĩa như sau: "Nợ xấu là các khoản nợ
thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có
khả năng mất vốn) quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.
Quan niệm về nợ xấu giữa các quốc gia và theo thông lệ quốc tế đều căn cứ
trên hai yếu tố là định tính và định lượng. Từ đây có thể đưa ra khái niệm nợ xấu ở
Việt đó là: Nợ xấu là những khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho vay không được
thanh toán đầy đủ cho ngân hàng hoặc được đánh giá là không có khả năng thu
hồi, bao gồm cả các khoản nợ xấu thông thường (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo
Điều 7 – Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN) và các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự
phòng của ngân hàng được theo dõi tại ngoại bảng.
1.1.3. Phân loại nợ xấu
Việc phân loại nợ xấu có vai trò vô cùng quan trọng, phân loại được nợ xấu
giúp cho ngân hàng có thể rà soát, phân loại, đánh giá lại các khách hàng vay, tài
sản bảo đảm và các khoản nợ đã mua để xác định khả năng thu hồi nợ và có giải
6


pháp xử lý phù hợp; triển khai thực hiện việc mua, bán nợ xấu theo cơ chế thị
trường theo quy định của pháp luật và phương án được duyệt; thường xuyên, kịp
thời công khai các hoạt động mua, bán, xử lý nợ xấu theo đúng quy định của pháp
luật…
- Căn cứ việc xử lý bằng quỹ DPRR (quỹ dự phòng rủi ro), nợ xấu được chia
thành:
 Nợ chưa được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán nội bảng

 Nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán ngoại bảng
- Căn cứ vào nguyên nhân, nợ xấu được chia thành:
 Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ chế
chính sách, ốm đau, ...
 Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh
tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình chây ỳ không trả nợ…
 Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kém
dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách hàng; thông
đồng với những sai phạm của khách hàng.
- Căn cứ vào đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, nợ xấu được chia
thành:
 Nợ xấu thông thường: đảm bảo thu hồi đầy đủ trong một khoảng thời
gian nhất định.
 Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần hoặc thu hồi đầy
đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài.
 Nợ xấu mất trắng: không có khả năng thu hồi.
Tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi
nhánh Chương Mỹ thì tuân thủ theo quy định của pháp luật đặc biệt trong hai văn
bản thứ nhất là Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Ban hành Quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng, và thứ hai là Thông tư 02/2013/TT-NHNN, Quy định về
phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài; về xử lý nợ xấu cũng đã thành lập quỹ DPRR để xử lý kịp thời
7


những vấn đề liên quan tới nợ xấu, việc thành lập và quản lý quỹ được thông qua
Giám đốc chi nhánh: Bà Trần Thị Kim Thanh.
1.1.4. Pháp luật và cơ chế giải quyết nợ xấu ở Việt Nam hiện nay

 Pháp luật về xử lý nợ xấu ở Việt Nam
Trong giai đoạn tái cơ cấu khu vực ngân hàng bắt đầu vào những năm 2000,
do hậu quả nặng nề của nền kinh tế tập trung, bao cấp và tác động không thuận lợi
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới, hoạt động của hệ thống
các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khó khăn và
bộc lộ nhiều yếu kém. Trong đó nổi bật là tình hình tài chính không lành mạnh, tỷ lệ
nợ xấu cao và tập trung tại các NHTM nhà nước. Ðể khắc phục vấn đề này, về cơ
bản Việt Nam cũng đã áp dụng các giải pháp truyền thống trong tiến trình xử lý nợ
xấu như phần lớn các nước. Mô hình AMC sử dụng trong quá trình xử lý nợ xấu là
mô hình phân tán.
Theo báo cáo tổng kết thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng, nhìn chung đến hết
năm 2005, các NHTM đã xử lý được gần hết các khoản nợ xấu (95%), tuy nhiên
đóng góp của các AMC trong quá trình tận thu hồi nợ thông qua việc bán, khai thác
tài sản bảo đảm còn thấp (gần 20%), nợ xấu trong giai đoạn này chủ yếu được xử lý
bằng nguồn vốn của Chính phủ và dự phòng rủi ro của các ngân hàng. Cho đến nay,
các AMC vẫn tiếp tục được duy trì nhưng hoạt động cũng như cơ chế hoạt động của
các đơn vị này chưa được phát huy triệt để. Ðây là điều cần phải được khắc phục để
nâng cao tính hiệu quả và hợp lý trong sự tồn tại và hoạt động của các AMC. Tuy
nhiên, trong thời kỳ này vẫn chưa có những cơ chế pháp luật rõ ràng để có thể giải
quyết được vấn đề xử lý nợ xấu.
Khác với xuất phát điểm của chương trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng của
những năm 2000, chương trình cải cách giai đoạn 2011 - 2015 được tiến hành đồng
thời với chương trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn
diện hệ thống các TCTD để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các TCTD đa
năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa
dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền
tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc
8



tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân
hàng của nền kinh tế. Kèm theo chương trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng là sự ra
đời của một loạt các quy định pháp luật rõ ràng nhằm đưa ra những quy định cụ thể,
thiết lập một bộ khung pháp lý tương đối rõ ràng cho vấn đề giải quyết nợ xấu trong
ngân hàng thương mại nói riêng và trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng nói chung. Một số quy định của pháp luật về nợ xấu:
+ Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 do Quốc Hội ban hành có hiệu lực kể
từ ngày 01/01/2011.
+ Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, Về thành lập, tổ chức và hoạt động của
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
+ Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Ban hành Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng.
+ Thông tư 02/2013/TT-NHNN, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích,
phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Thông tư 09/2014/TT-NHNN Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của thống đốc ngân hàng nhà
nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng
rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Chỉ thị số 02/CT-NHNN về tăng cường xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng
(2015).
 Các cơ chế giải quyết nợ xấu ở Việt Nam hiện nay:
Xử lý nợ xấu là một bước đi quan trọng hàng đầu trong quá trình tái cấu
trúc hoạt động ngân hàng. Tổng kết kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong tiến trình tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới cho thấy các nước thường
triển khai theo những hướng cơ bản như sau:
- Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ thông qua việc bơm vốn;


9


- Thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management Company - AMC) để
thu mua nợ xấu;
- Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và
bên đi vay.
Chính sách xử lý nợ qua bơm vốn là phương pháp hỗ trợ trực tiếp từ Chính
phủ cho các ngân hàng và định chế tài chính khác nhằm đối phó với khủng hoảng.
Việc tạo ra một cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các TCTD và bên đi vay nhằm
làm trung gian cho các chủ nợ (ở đây là các TCTD) và các doanh nghiệp đi vay
thương lượng phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức như thanh lý tài sản, gia hạn
hợp đồng, điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng. Việc thành lập các công ty
quản lý tài sản trên thế giới được tổ chức theo 2 hình thức: tập trung hoặc phân tán.
- Hình thức tập trung: Các khoản nợ xấu sẽ được tách khỏi bảng cân đối của
ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được chuyển sang một công ty quản
lý tài sản hoặc một cơ quan quản lý về thanh khoản ngân hàng để các đơn vị này
phụ trách việc thu hồi các khoản nợ xấu. Công ty quản lý tài sản được thành lập
dưới hình thức này trong giai đoạn đầu hoạt động chủ yếu là các doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước.
- Hình thức phân tán: Các khoản nợ xấu vẫn được giữ trên bảng cân đối của
ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được xử lý bởi những đơn vị được
thành lập trong chính ngân hàng. Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng các
ngân hàng có đủ thông tin về các doanh nghiệp hoạt động yếu kém để có thể thúc
đẩy quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp đó; đồng thời, các ngân hàng cũng chính
là chủ thể có nhiều động lực nhất để cố gắng thu hồi đến mức tối đa các khoản nợ
xấu.
Tuy nhiên, ở Việt Nam việc xử lý nợ xấu được thực hiện theo hai cách chủ
yếu sau đây và được quy định rõ ràng trong các quy định của pháp luật:
+ Cách thứ nhất đó là sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, việc trích lập và sử

dụng quỹ dự phòng rủi ro được quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Ban
hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, tại quyết định này có nêu ra:
10


"Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng" (sau đây gọi tắt
là "rủi ro") là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình theo cam kết (Điều 1, Khoản 2). Và tại Điều 2, Khoản 2 quy định:
"Dự phòng rủi ro" là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có
thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam
kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động
của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và Dự phòng
chung.
+ Cách thứ hai đó là bán nợ xấu cho Công ty quản lý tài sản của TCTD
Việt Nam ( VAMC): Về thành lập và tổ chức Công ty quản lý tài sản của TCTD
Việt Nam được quy định tại Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, Về thành lập, tổ chức và
hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
• Về việc thành lập VAMC, quy định tại Điều 3 “Thành lập Công ty Quản
lý tài sản: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước)
thành lập Công ty Quản lý tài sản nhằm xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng
hợp lý cho nền kinh tế; Công ty Quản lý tài sản là doanh nghiệp đặc thù, được tổ
chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do Nhà nước sở
hữu 100% vốn điều lệ và chịu sự quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát của Ngân
hàng Nhà nước.”
• Về cơ cấu tổ chức VAMC, quy định tại Điều 10: “Cơ cấu tổ chức của

Công ty Quản lý tài sản: Công ty Quản lý tài sản có trụ sở chính tại thành phố Hà
Nội và được thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số tỉnh, thành phố lớn

trực thuộc Trung ương sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận; Bộ máy
quản lý của Công ty Quản lý tài sản bao gồm Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát
và Tổng Giám đốc.”
• Về hoạt động của VAMC, quy định tại Điều 12 “Hoạt động của Công ty
Quản lý tài sản: Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý,
bán nợ, tài sản bảo đảm; Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển
nợ thành vốn góp, vốn cổ phần của khách hàng vay; Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp,
11


khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã được Công ty Quản lý tài sản thu
nợ; Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có liên
quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ xấu và
bảo đảm tiền vay; Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản; Đầu tư tài chính, góp
vốn, mua cổ phần; Tổ chức bán đấu giá tài sản; Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân vay vốn của tổ chức tín dụng; Hoạt động khác phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của Công ty Quản lý tài sản sau khi được Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước cho phép. Công ty Quản lý tài sản được ủy quyền cho tổ chức tín dụng
bán nợ thực hiện các hoạt động được quy định tại các Điểm b, c, d và đ Khoản 1
Điều này.”
Như vậy, dù là nợ xấu được xử lý theo cơ chế nào thì đều cần có sự tham gia
và chia sẻ tích cực của doanh nghiệp có nợ, ngân hàng chủ nợ và Chính phủ. Chính
phủ tạo điều kiện cho thị trường tài chính phát triển đúng mức, kịp thời; xây dựng
môi trường kinh tế, chính trị ổn định với những cơ hội đầu tư hấp dẫn. Trong khi
đó, doanh nghiệp và ngân hàng là những đối tượng trực tiếp tham gia và có ảnh
hưởng lớn tới quá trình định giá các khoản nợ xấu, thỏa thuận mua bán lại nợ, và
đặc biệt là giai đoạn phục hồi/thu hồi lại giá trị của các tài sản xấu đã mua lại.
1.1.5. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới2
 Kinh nghiệm từ Mỹ
Cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall năm 2008 bắt nguồn từ bong bóng bất

động sản tan vỡ - tình cảnh khá tương đồng với Việt Nam hiện nay. Để giải cứu
những tổ chức tín dụng sắp "chết", Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định
bơm 700 tỷ USD. Lượng tiền này được phân bổ một phần để mua lại nợ xấu ngân
hàng thương mại, một phần dùng để giải quyết thanh khoản tạm thời cho những đơn
vị yếu kém. Phần còn lại - nhưng chiếm tỷ trọng lớn - là để mua cổ phiếu ưu đãi của
các ngân hàng.
Với mục đích thứ ba, FED lựa chọn mua cổ phiếu ưu đãi thay vì loại phổ
thông. Cổ phiếu ưu đãi được hưởng mức cổ tức cố định, không phụ thuộc vào khả
(website thuộc
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc Gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
2

12


năng sinh lời nhưng lại không có quyền tham gia vào việc điều hành ngân hàng.
FED chỉ muốn đẩy một ít dòng tiền để ngân hàng có vốn đầu tư và thoát khỏi tình
trạng tồi tệ - về mặt bản chất chính là FED cho vay - nhưng họ chủ trương nắm
quyền kiểm soát các ngân hàng nên việc họ chọn loại cổ phiếu ưu đãi như phân tích
ở trên là rất thích hợp. Nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam nên học cách làm của
Mỹ để giải quyết bài toán hiện nay. Theo tính toán của Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu chuyên gia ngân hàng từng có kinh nghiệm làm việc ở Mỹ, Việt Nam cần khoảng 7
tỷ USD (tương đương hơn 140.000 tỷ đồng) để mua lại nợ xấu như phương án thứ
nhất của Mỹ. Nếu để ngân hàng tự bán nợ xấu sẽ gây thiệt hại thêm bởi với chất
lượng nợ như vậy, tỷ lệ chiết khấu rất cao, có thể lên tới 80%-90%.
Phương án mua lại cổ phần giống như Mỹ cũng thích hợp với Việt Nam. Nhà nước
không can dự vào công tác điều hành, quản lý sẽ tạo cơ hội tốt cho các ngân hàng tự
tái cơ cấu.
 Kinh nghiệm từ Hàn Quốc
Tính đến năm 1998, nợ xấu của toàn bộ hệ thống tài chính Hàn Quốc lên tới
118 ngàn tỉ won, bằng 18% tổng dư nợ (tương đương khoảng 27% GDP của Hàn

Quốc năm 1998), trong đó có 42% là nợ quá hạn từ 3 – 6 tháng, và 58% là nợ quá
hạn trên 6 tháng. Để giải quyết lượng nợ xấu khổng lồ, Chính phủ Hàn Quốc đã cải
tiến lại chức năng và nhiệm vụ của KAMCO, vốn là một Công ty quản lý tài sản nợ
thuộc ngân hàng phát triển Hàn Quốc - KDB. KAMCO được sở hữu bởi ba đơn vị:
Bộ Tài chính và Kinh tế (đóng góp 42,8% vốn), KDB (28,6%), và các định chế tài
chính khác (28,6%). Cty này được vận hành bởi một uỷ ban gồm các đại diện đến từ
Bộ Tài chính và kinh tế, Bộ Kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban Giám sát tài chính,
Hiệp hội các ngân hàng, Cty bảo hiểm tiền gửi KDB và ba chuyên gia độc lập
Tính tới tháng 4/2003, KAMCO đã mua tổng cộng 1.101 ngàn tỉ won nợ xấu
theo giá sổ sách của toàn bộ hệ thống tín dụng với tổng số tiền 39,8 ngàn tỉ won và
đồng thời bán được 65,9 ngàn tỉ won theo giá sổ sách với tổng số tiền thu về là 31,1
ngàn tỉ won. KAMCO mua các khoản nợ xấu của các tổ chức tài chính dựa trên các
tiêu chí và phương pháp khác nhau. Khi một tổ chức tài chính đề nghị bán nợ xấu,
KAMCO sẽ phân tích, định giá, và đàm phán vớí giá bán cuối cùng. Việc định giá
13


nợ xấu của KAMCO được dựa trên khả năng mất vốn của các khoản nợ, theo các
quy định về an toàn vốn. Sau đó, KAMCO tiến hành định giá nợ xấu dựa trên đặc
điểm của từng khoản nợ. Có thể nói, những hành động quyết đoán của KAMCO
trong giai đoạn đầu đã giúp cho các Cty MBN xấu tư nhân của Hàn Quốc mạnh dạn
hơn tham gia vào thị trường. Nếu như năm 1997, toàn bộ giá trị các thương vụ mua
bán nợ xấu tại Hàn Quốc đều do KAMCO tiến hành thì con số này giảm xuống còn
58,15% vào năm 1998 và 2,81% vào năm 2000. Chính nhờ có sự tham gia của các
Cty MBN xấu tư nhân mà nợ xấu của Hàn Quốc đã giảm mạnh từ 17% tổng dư nợ
vào tháng 3/1998 xuống còn 2,3% vào cuối năm 2002.
Bên cạnh đó, để khuyến khích khả năng bán các khoản nợ xấu, Chính phủ
Hàn Quốc đã ban hành những luật thuế đặc biệt - một số đã tỏ ra rất có hiệu quả
trong một khoảng thời gian nhất định như:
 Giảm thuế trên thặng dư vốn: Thặng dư vốn thu đươc từ việc chuyển đổi

các tài sản sở hữu bởi các tổ chức tài chính như KAMCO đều được giảm 50% thuế.
 Tính vào chi phí: Khi tổ chức tín dụng có số nợ xấu nhiều hơn mức dự
phòng mất vốn, tổ chức tín dụng được phép bù phần nhiều hơn đó với dự phòng
định giá lại tài sản. Phần bù đó được tính vào chi phí khi tính thu nhập chịu thuế của
tổ chức tín dụng.
 Miễn giảm thuế giao dịch chứng khoán: Khi KAMCO hay tổ chức tài
chính nào mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tổ
chức lại tổ chức này và chuyển đổi lượng cổ phiếu đó cho bên thứ ba sẽ được miễn
giảm thuế.
 Kinh nghiệm từ một số nước Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia và Thái Lan)
Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1997-1998, phần
lớn các nước Đông Á đã lập các Công ty Quản lỷ tài sản (AMC) trực thuộc Nhà
nước nhằm thanh lý nợ xấu đồng thời với thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Chính phủ các nước Indonesia, Malaysia và Thái Lan đã thành lập các công
ty quản lý tài sản tập trung (AMCs) để xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ
xấu của ngân hàng. Cụ thể: Indonesia thiết lập Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng
14


(IBRA), với Malaysia là Tổ chức xử lý nợ quốc gia (DANAHARTA). Riêng Thái
Lan ban đầu chỉ thành lập Cơ quan tái cấu trúc tài chính để xử lý các vấn đề của các
công ty tài chính và đến năm 2001, Thái Lan mới thành lập Công ty Quản lý Tài sản
(TAMC). Các công ty này chỉ hoạt động trong một số năm nhất định.
Đặc điểm chung của 3 công ty xử lý nợ nói trên là được Chính phủ tài trợ
vốn và tổ chức tập trung hơn việc sử dụng một mô hình chỉ dựa vào ngân hàng.
Điều này có lẽ là do tính chất đặc thù có hệ thống về các vấn đề ngân hàng và quy
mô nợ xấu. Chính phủ các nước nói trên áp dụng hình thức mua sỉ tất cả các khoản
cho vay có vấn đề và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng.
Mô hình AMCs mang tính khả thi cao do nhiều ngân hàng không đủ nguồn

lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu của mình thông qua các đơn vị trực thuộc
hay các công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, cơ sở pháp lý so với các chuẩn mực
thế giới ở các nước này vẫn còn lạc hậu cũng góp phần tạo ra sự cần thiết phải có
AMCs.
Các công ty xử lý nợ tập trung cũng có các quyền hạn đặc biệt để cắt giảm
các thủ tục pháp lý. Ví dụ, Tổ chức xử lý nợ quốc gia Malaysia có quyền xử lý tất
cả các khoản nợ xấu chuyển giao mà không cần phải xin phép các chủ tài sản.
TAMC của Thái Lan cũng sử dụng quyền hạn của mình để buộc các con nợ phải
ngồi vào bàn đàm phán cho việc thanh toán các khoản nợ vay của mình…
1.2. Thực tiễn giải quyết nợ xấu trong hoạt động của ngân hàng thương mại
1.2.1. Thực tế xử lý nợ xấu của Việt Nam hiện nay3
Năm 2012, Nợ xấu đang làm cho tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng
không lành mạnh, thanh khoản khó khăn, một số ngân hàng thương mại đứng trước
3

Tham khảo từ các bài viết: ThS. Đào Thị Hồ Hương Bộ môn Tài chính Doanh nghiệp, Khoa Tài

chính, Học viện Ngân hàng “Bàn về hướng xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam”; TS. Nguyễn Thị Kim Thanh: “Lựa chọn mô hình xử lý nợ xấu ở Việt Nam”, Tạp chí Tài
chính số 11/2012. TS. Nguyễn Đại Lai: “Làm gì để xử lý nợ xấu”, Tạp chí Cộng sản, 05/01/2013.
Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại kì họp thứ 8,
Quốc Hội Khóa XIII

15


nguy cơ đổ vỡ, đe dọa an toàn hệ thống và ổn định kinh tế vĩ mô. Gần như cùng
thời điểm với vấn đề nợ xấu, còn hàng loạt vấn đề kinh tế vĩ mô ở thời điểm đó cần
xử lý mà biểu hiện rõ nhất là lạm phát tăng cao. Tình hình đòi hỏi những quyết sách
khẩn trương, quyết liệt nhưng bình tĩnh, tỉnh táo. Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa

XIII, Thủ tướng đã báo cáo về tình hình nợ xấu. Thủ tướng cho biết, theo kết quả
giám sát của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm tháng 9/2012, tỷ lệ nợ xấu của các
TCTD lên đến 17%. Nợ xấu làm cho nhiều doanh nghiệp không vay được vốn, sản
xuất kinh doanh khó khăn đình trệ, ảnh hưởng đến việc làm, đời sống và tăng
trưởng kinh tế. Nợ xấu còn làm cho tình hình tài chính của các TCTD không lành
mạnh, thanh khoản khó khăn, một số ngân hàng đứng trước nguy cơ đổ vỡ, đe dọa
an toàn hệ thống và ổn định kinh tế vĩ mô. Tại kì họp này Chính phủ đã đặt mục
tiêu là cải thiện thanh khoản, tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tổ chức tín dụng, đáp ứng yêu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm
an toàn hệ thống. Phấn đấu đến cuối năm 2015 đưa nợ xấu về mức bình thường
trong kinh tế thị trường. Cùng với sự tham gia của Chính Phủ trong vấn đề giải
quyết vấn đề nợ xấu, NHNN đã đưa ra một số chính sách lớn nhằm tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng tự xử lý nợ xấu, cơ cấu nợ và xử lý các tài sản bảo đảm.
Tạo một khung pháp lý hoàn chỉnh để xử lý vấn đề nợ xấu trong các tổ chức tín
dụng nói chung và ở các ngân hàng thương mại nói riêng.
Năm 2013, tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Ngân hàng năm 2013, về
hướng xử lý nợ xấu, Thủ tướng Chính phủ cho rằng điều này phụ thuộc vào chính
các ngân hàng thương mại, bởi chỉ có bản thân các ngân hàng mới hiểu được
nguyên nhân nợ xấu và hướng xử lý. Cùng với đó là Thông tư 02/2013/TT-NHNN
quy định về phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Nghị định số 53/2013/NĐ-CP,
Về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam ra đời đã tạo ra một hệ thống khung pháp lý rõ ràng hơn cho các
ngân hàng thương mại có cách thức xử lý nợ xấu. Việc trích lập dự phòng rủi ro có
tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là một phương thức
xử lý nợ xấu được đưa vào luật hóa đã tạo cơ chế pháp lý cho các ngân hàng có thể
16


vận dụng để xử lý nợ xấu. Ngoài ra, NHNN còn tiến hành các hoạt động thanh tra giám

sát với nhiều phương pháp, hình thức mới. Ðây là yếu tố quan trọng góp phần tái cơ cấu
nhanh các tổ chức tín dụng.
Nhờ việc thực hiện đồng bộ các biện pháp triển khai của Ngân hàng Nhà
nước và các TCTD, đến tháng 10/2014 đã xử lý được 54,3% tổng số nợ xấu được
xác định tại thời điểm tháng 9/2012 (465.000 tỷ đồng). Việc xử lý nợ xấu chủ yếu
thông qua các kênh: Thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, sử dụng dự phòng rủi ro, bán nợ và
phát mại tài sản bảo đảm tiền vay, trong đó có bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài
sản của các TCTD (VAMC)...
VAMC được thành lập từ giữa năm 2013. Đến ngày 23/12/2014, theo ông
Đoàn Văn Thắng, Phó Tổng Giám đốc VMAC, thì VAMC đã mua được 123 ngàn
tỷ đồng dư nợ gốc nợ xấu. Trong năm 2014, VAMC đã xử lý nợ xấu được hơn 4
ngàn tỷ, với số nợ xấu đã xử lý được gồm xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ tập trung
chủ yếu cho các khoản mua nợ của 2013, đây là một nỗ lực của VAMC. Ngoài việc
hỗ trợ giải quyết nợ xấu của các tổ chức tín dụng, VAMC hỗ trợ đắc lực cho các
khách hàng của tổ chức tín dụng, hỗ trợ điều chỉnh lãi suất, điều chỉnh kỳ hạn nợ,
gia hạn nợ. Còn theo báo cáo của các TCTD, tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9/2014
còn khoảng 3,8% và có xu hướng giảm: tháng 6/2014 là 4,17%; tháng 7 là 4,11%;
tháng 8/2014 là 3,9%; ước tính đến cuối năm 2014 còn khoảng 2,5 - 2,7%. Tuy
nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9/2014
khoảng 5,4%, ước đến cuối năm 2014 còn khoảng 3,7 - 4,2% so với mức 17% vào
tháng 9/2012. Việc Ngân hàng Nhà nước đánh giá tỷ lệ nợ xấu cao hơn là do thực
hiện giám sát và đánh giá lại chặt chẽ hơn việc phân loại nợ của các TCTD.
Như vậy, tính chung trong 3 năm qua (2012-2014), hệ thống ngân hàng đã
xử lý được 249.000 tỷ đồng nợ xấu, ngoại trừ một số xử lý qua VAMC, các TCTD
chủ động xử lý nợ, còn lại nợ xấu được xử lý qua trích lập dự phòng của TCTD.
Đến hết tháng 7/2014, số dự phòng các TCTD đã trích lập là 78.000 tỷ đồng để cuối
năm 2014 tiếp tục xử lý nợ xấu. Đặc biệt, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước,
hiện nay, tài sản đảm bảo có giá trị cao gấp 2 lần số nợ xấu.

17



Mặc dù được thành lập từ giữa năm 2013, nhưng tiến trình xử lý nợ xấu của
VAMC vẫn còn chưa thực sự hiệu quả. VAMC chưa thay đổi trong cách tiếp cận nợ
xấu, dứt khoát và xử lý nhanh các tài sản đảm bảo, đặc biệt là với bất động sản, hoạt
động của VAMC bị lệ thuộc rất lớn vào Ngân hàng Nhà nước. Lệ thuộc cả về cơ
chế chính sách, đến nhân sự. Đồng thời, nhà nước cần trao cơ chế đặc biệt cho
VAMC để có thể xử lý nhanh các vướng mắc hiện nay.
Để tăng hiệu quả hoạt động của VAMC là phải tạo khuôn khổ pháp lý cho
thị trường mua bán nợ hiện nay. Cho phép các nhà đàu tư nước ngoài tham gia để
mang lại luồng tiền sạch cho nền kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư
tham gia vào thị trường mua bán nợ.
1.2.2. Thực tiễn giải quyết nợ xấu bởi các ngân hàng thương mại
Quy trình và cơ sở pháp lý trong việc xử lý nợ xấu.


Cơ sở pháp lý xử lý nợ xấu

Sau khi khoản nợ của khách hành được xác định là nợ xấu, Ngân hàng tiến
hành các biện pháp xử lý nợ xấu, cơ sở pháp lý để xử lý là Hợp đồng tín dụng được
ký kết giữa Ngân hàng với khách hàng cho khoản vay. Hợp đồng tín dụng là một
dạng của Hợp đồng kinh tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng
được Quốc hội thông qua ngày 01/01/2011. Ngoài ra, theo Thông tư 02/2013/TTNHNN, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng có thể trích lập quỹ dự phòng
rủi ro để xử lý những khoản nợ xấu. Cùng với đó, các ngânh hàng còn có thể bán
những khoản nợ xấu của mình cho công ty VAMC theo đúng những quy định tại
Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, Về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn Việt Nam về xử lý nợ xấu, khi một khoản nợ được xác định là nợ
xấu, Ngân hàng được phép sử dụng các biện pháp xử lý để thu hồi nợ như phát mại
tài sản bảo đảm, yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay, khởi kiện ra toà, thực hiện nghiệp
vụ mua bán nợ và tất cả các biện pháp để thu hồi nợ.
18




Quy trình xử lý nợ xấu

Khi khoản vay được xác định là nợ xấu thì các NHTM thường áp dụng quy trình
xử lý như sau:
- Bước 1: Nợ xấu được phân loại theo giá trị và khả năng thu hồi chuyển cho
Tổ (hoặc bộ phận) xử lý nợ xấu của Ngân hàng, các bộ cho vay các khoản vay đó phải
cung cấp thông tin, chứng cứ về tình trạng nợ của khách hàng, nguyên nhân phát sinh nợ
xấu, đánh giá sơ bộ khả năng thu hồi.
- Bước 2: Sau khi tiếp nhận khoản nợ xấu, trên cơ sở hồ sơ, phân tích thông tin
khách hàng chuyển giao cho chuyên viên xử lý nợ xấu đồng thời gửi báo cáo chi tiết cho
khối quản trị rủi ro.
- Bước 3: Khối quản trị rủi ro sau khi nhận được hồ sơ, báo cáo phân tích nợ
xấu từ Tổ xử lý nợ xấu có trách nhiệm đánh giá lại và đưa ra kế hoạch hành động tiếp
theo: như phát mại tài sản, yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khởi kiện,
bán nợ …
- Bước 4: Sau khi kế hoạch được khối quản trị vạch ra, Tổ xử lý nợ xấu, cán bộ
tín dụng phụ trách khoản vay có trách nhiệm thực hiện cập nhật dữ liệu vào hệ thống
thông tin nợ xấu, tập trung các biện pháp để thu hồi nợ đạt hiệu quả cao nhất, giảm thiệt
hại thấp nhất cho Ngân hàng, tiến hành xử lý rủi ro toàn bộ hoặc phần nợ còn lại bằng
quỹ dự phòng rủi ro, chuyển ra ngoại bảng theo dõi và tiếp tục đôn đốc thu hồi nợ.
Nợ xấu vẫn còn cao trong thời gian gần đây phản ánh chính sách minh bạch

hoá và giám sát chặt việc thống kê nợ xấu của ngân hàng: tình huống gia tăng nợ
xấu phản ánh một điều rằng, NHNN đã và đang chủ trương minh bạch hoá quan hệ
tín dụng, thông tin tài chính. Nhưng hầu hết các NHTM Việt nam hiện nay đều
phân loại nợ dựa vào định lượng mà thiếu đi phần định tính như tình hình tài chính,
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc phân loại nợ
không phản ánh thực chất khoản nợ. Đồng thời các ngân hàng chỉ xếp phần nợ đến
hạn không trả được vào nợ xấu, trong khi phần còn lại của nhóm nợ vẫn là nợ đủ
tiêu chuẩn. Nhưng đồng thời nợ xấu trong thời gian gần đây cũng phản ánh năng
lực thanh tra, giám sát của NHNN trong một thời gian dài còn hạn chế, chưa phát
huy hiệu lực, hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm
và rủi ro trong hoạt động tín dụng của các TCTD, nhất là các vi phạm quy định về
19


hạn chế cấp tín dụng và việc đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.

20


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM – CHI NHÁNH CHƯƠNG MỸ
2.1. Tổng quan về ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh Chương Mỹ
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng No&PTNT – Chi nhánh
Chương Mỹ
 Địa vị pháp lý của ngân hàng No&PTNT Việt Nam - chi nhánh Chương Mỹ
Tên Ngân hàng:
- Tên thương mại: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam - chi nhánh Chương Mỹ
- Tên viết tắt: Agribank chi nhánh Chương Mỹ

- Tên tiếng anh: Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development Chương Mỹ Branch
- Tên viêt tắt bằng tiếng anh: Agribank - Chương Mỹ Branch
Hình thức pháp lý:
- Hình thức pháp lý: Thương mại cổ phần
- Mã số danh nghiệp: 0100686174-157 ngày cấp 31/07/2013
Cơ quan cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Địa chỉ giao dịch:
- Trụ sở giao dịch: Số 6, khu Yên Sơn, Thị trấn Chúc Sơn, Huyện Chương
Mỹ, Hà Nội
 Sự ra đời của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam – chi nhánh Chương Mỹ
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
(NHNo&PTNT) huyện Chương Mỹ được biết tới như là chi nhánh loại 3 của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Sau nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về tổ chức bộ máy ngân hàng nhà nước Việt Nam, trong đó có Ngân
hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Tiền thân của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi
nhánh huyện Chương Mỹ chính là Ngân hàng nhà nước huyện Chương Mỹ, được
thành lập năm 1951, sau Quyết định số 53/HĐBT thì Ngân hàng nông nghiệp huyện
21


×