Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tại sao hồ chí minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trọng thời kì quá độ lên XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.48 KB, 12 trang )

Chủ đề: Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trọng thời kì quá độ lên XHCN

1, CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1

Mac-Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX

1.1.1

LLSX quyết định QHSX

Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó
quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái
đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng
sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một
cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất
có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “ xiềng xích” của lực
lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
1.1.2 Quan hệ sở hữu tác động đến kinh tế nhiều thành phần




1

Đi trả lời câu hỏi: Tại sao đang đề cập tới “Tư tưởng HCM về thành phần
kinh tế
lại đề cập tới vấn đề của Mac về LLSX và QHSX”?.

1


Trước tiên thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh té
dựa trên 1 hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, thành phần kinh tế tồn tại ở
những hinihf thức tổ chức kinh tế
nhất định, tròn đó căn cứ vào quan hệ sở hữu nào thống trị để xác định
từng thành phần kinh tế. Cho nên ta sẽ căn cứ theo học thuyết Mác về LLSX và
QHSX,vì quan hệ sở hữu là nội dung quan trọng nhất của QHSX. Đó là quan hệ
kinh tế giữa người với người trong sự chiếm hữu hay nói các khác là hình thức
xã hội của sự chiếm hữu của cải.
Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào
nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện
lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định.

2. Bài học kinh nghiệm từ Liên Xô
2.1. Đặc điểm kinh tế Liên Xô:
2.1.1. Xuất phát điểm của Liên Xô
Tình trạng kinh tế của nước Nga Xô viết sau nội chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả
của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”, tình trạng phân tán và tản mạn của những
người sản xuất, sự nghèo đói, vô văn hoá và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi
hàng hóa giữa thành thị và nông thôn bị ngừng trệ. Nội chiến những năm 19181920 làm khánh kiệt đất nước, cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã
bị tàn phá nặng nề. Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì

vậy tăng thêm những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao
thông và công nghiệp.
Vì vậy, sau nội chiến, Lê-nin đã kịp thời thay đổi chủ trương, chuyển từ cái gọi
là “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới.
. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên
quyết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó có nghĩa là, ngoài phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi thai và về nguyên tắc, được công nhận là có
vai trò chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức sản xuất khác và hơn
nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất định một số thành phần kinh tế khác. Trong
khi vận dụng chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong
2

2


nền kinh tế của nước Nga khi đó “có những thành phần, những bộ phận, những
mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”.
2.1.2. Chính sách kinh tế mới:
Ngày 8-3-1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga, V.I.Lê-nin - lãnh tụ thiên tài
của giai cấp công nhân Nga và cách mạng thế giới đã đề xướng với Đảng việc áp
dụng Chính sách kinh tế mới (NEP) và đã được Đại hội chấp thuận.
Nội dung chính sách kinh tế mới – NEP :










Thực hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán lúa mì, coi
thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh
tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp hàng hoá, giữa thành thị với nông
thôn, và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân.
Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế.Các thành phần
kinh tế nằm trong 1 cơ cấu kinh tế thống nhất. Trong đó Leenin đặc biệt nhấn
mạnh vai trò, tác dụng của nền kinh tế tư bản nhà nước, đó là thứ chủ nghĩa tư
bản mà ¾ là chủ nghĩa xã hội. Lenin coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là chiếc cầu
trung gian để đưa nước tiểu nông lên CNXH.
Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật
chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát
triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
Thực hiện kế hoạch điện khí hoá nước Nga, coi đó như một trong những điều
kiện tiên quyết cho sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa
Củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ
các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê kiểm
soát của nhà nước chuyên chính vô sản đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ
sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về chính trị.

Ý nghĩa của chính sách kinh tế mới đối với các nước quá độ đi lên CNXH bỏ
qua giai đoạn phát triển TBCN



Quá độ đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nhưng không thể xóa bỏ
phát triển hàng hóa và kinh tế thị trường.
Xác định và sử dụng các thành phần kinh tế, trong đó có các hình thức kinh tế
quá độ.


Giải quyết đúng đắn mối quan hệ kinh tế giữa khu vực thành thị và khu vực
nông thôn, thực chất là mối quan hệ giữa hai giai cấp công nhân và nông dân.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đầu thế kỷ
XX, ở nước Nga khi đó có những thành phần kinh tế sau đây:
“1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự
nhiên;
3

3


2. Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mỳ);
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân;
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước;
5. Chủ nghĩa xã hội”.
2.1.3.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Nga:

Theo Lênin, nếu như “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” trước đây được rất
nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục
trong chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì
thực tế đã cho thấy, sau chiến tranh, không thể tiếp tục con đường đó, bởi nó
đối lập Đảng với quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm
trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước.
Tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng sản Nga đã nhất
trí thông qua chính sách kinh tế mới.Đảng đã quyết định áp dụng ở nước
Nga Xôviết những biện pháp khẩn cấp, kiên quyết nhằm cải thiện tình cảnh
của nông dân và phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn.
Thế nhưng, không phải tất cả những người Bônsêvích đều ủng hộ chính

sách kinh tế mới, trong dư luận xã hội vẫn còn có nhiều quan điểm khác
nhau về vấn đề này. Vì vậy, điều quan trọng là phải hiểu đúng thực chất của
chính sách kinh tế mới. Bởi lẽ, một số người cho rằng, chính sách kinh tế
mới chỉ là biện pháp nhất thời; số người khác lại coi đó chỉ là thời kỳ khôi
phục kinh tế đất nước sau nội chiến; số thứ ba thì nhìn nhận đó là tổn thất
của cách mạng, là sự chệnh hướng sang tư bản chủ nghĩa. Chỉ có một số
người hiểu đúng rằng, chính sách kinh tế mới là một trong những hình thức,
phương thức hợp lý nhất để chuyển từ “chế độ cộng sản thời chiến” sang chủ
nghĩa xã hội.
2.2 Các thành phần kinh tế mà Lê-nin xây
2.2.1 Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng
2.2.2 Sản xuất hàng hóa nhỏ
2.2.3 Chủ nghĩa tư bản tư nhân
2.2.4 Chủ nghĩa tư bản nhà nước
2.2.5 Chủ nghĩa xã hội

2.3

4

dựng:

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mới là sự kết hợp nhiều hình thức sở
hữu khác nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
4


quan hệ sản xuất khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ
nhằm tăng cường phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp

và nông nghiệp để nó đủ khả năng phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát
triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng
sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử - cụ thể
của nước ta. Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang
nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có
một thành phần kinh tế là “thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả
khu vực quốc doanh và khu vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những biện
pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong
sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội
3, Thực tiễn Việt Nam.
3.1

Xuất phát điểm của nước ta đi lên CNXH là bắt đầu từ nước nông nghiệp
lạc hậu.
3.1.1.Lực lượng sản xuất thủ công.
Lực lượng sản xuất thủ công của nước ta thể hiện ở: công cụ lao động
thủ công, chưa áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, tư liệu lao
động thủ công, số lao động còn ít, trình độ thấp.
3.1.2.Kết cấu kinh tế xã hội phức tạp.
Đặc điểm Hồ Chí Minh khẳng định lớn nhất khi nước ta bước vào quá
độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu không qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Do vậy lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công,
tính chất cá nhân hóa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu
thuẫn, khó khăn, phức tạp và chi phối tất cả những đặc điểm khác, thể
hiện trong tất cả những lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy
sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu
thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát

triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế xã
hội quá thấp kém của nước ta.

5

5


Trong tình trạng đó, nước ta còn xảy ra tình trạng quan liêu hóa làm
ảnh hưởng đến toàn bộ sự phát triển của kinh tế và xã hội: kinh tế phát
triển thụ động, thiếu linh hoạt, các nguồn lực không được khai thác
hiệu quả, sản xuất kém do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp.
3.2.Việt Nam không kinh qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
3.2.1.Các loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


Đối với các nước kinh tế lạc hậu như Việt Nam thì cũng có thể quá độ
thẳng lên CNXH không cần qua giai đoạn phát triển TBCN. Đây gọi là
quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Loại hình này phản
ánh quy luật phát triển nhảy vọt của TBCN. Song đối với loại hình này
phải có đầy đủ những điều kiện:
o Phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến để
xây dựng CNXH đặc biệt là về vốn, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý.
o Giai cấp vô sản đó phải giành được chính quyền, phải có Đảng
lãnh đạo và phải xây dựng được khối đoàn kết công nông vững
chắc.

3.2.2.Nhận thức lại sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất.





6

Trong thời lì quá độ lên CNXH, do mắc sai lầm chủ quan duy ý chí,
muốn có ngay chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã vi phạm quy luật khách
quan là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
được tiến hành rập khuôn theo mô hình Liên Xô (một nước đi lên chủ
nghĩa xã hội với xuất phát điểm cao hơn nước ta rất nhiều), thủ tiêu
kinh tế thị trường, duy trì nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ
quan hệ với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, kết quả là kinh tế bị
suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn.
Nước ta cũng mắc phải sai lầm khi tiến hành quan hệ sản xuất tiên tiến
rồi mới thúc đẩy lựa chon lực lượng sản xuất phát triển, biến đổi theo,
điều đó không phù hợp với lý luận của Mác.
6


3.3.Chiến tranh tàn phá.
3.3.1.Tác động của chiến tranh đến nước ta.
Sau chiến tranh, nước ta bị tàn phá nặng nề, đời sống nhân dân khổ
cực, toàn bộ khu công nghiệp, hệ thống giao thông thủy lợi bị phá hủy
hoàn toàn.
3.3.2.Tác động của chiến tranh đến lực lượng sản xuất.
Chiến tranh còn gây ra sự xáo trộn trong phân bố lực lượng sản xuất,
và các vấn đề xã hội như tệ nạn xã hội, số người thất nghiệp đặc biệt là
số người mù chữ chiếm tỉ lệ cao, khiến cho trình độ của lực lượng sản
xuất càng thấp kém.

4.HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
4.1.
4.1.1. HCM là người đầu tiên chủ trương cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
HCM chủ trương xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để xây dựng
QHSX phù hợp với trình độ và tính chất LLSX còn thấp kém ở nước ta..
Theo HCM,trong điều kiện nước ta sản xuất nhỏ lạc hậu,có chiến tranh,cho
nên phải phát triển nhiều thành phần kinh tế.Tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế phát triển nước ta lúc này trước hết là tạo ra nhiều của cải
vật chất cho xã hội.Nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,năng suất lao động thấp,sản
phẩm làm ra không đủ đáp ứng nhu cầu xã hội. Trong khi đó ,kẻ thù đánh
phá quyết liệt, bao vây cô lập cách mạng Việt Nam. Để đảm bảo cuộc sống
nhân dân, để cung cấp cho cuộc kháng chiến ngày cáng phát triển, tất yếu
chúng ta phải phát triển nhiều thành phần kinh tế, giúp tạo ra nhiều sản
phẩm đa dạng phong phú.
4.1.2)HCM xác định các thành phần kinh tế của nước ta
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn luôn vận động, phát triển
trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trong nền
7

7


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bình đẳng trước pháp luật.Mỗi
thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật hoạt động riêng, dựa trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, có khả năng tái sản xuất một cách
tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái
sản xuất là điều kiện tồn tại và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu
hướng mở rộng hay thu hẹp khả năng tái sản xuất quy định vai trò và triển vọng
của mỗi thành phần kinh tế trong nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên, các thành phần

kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối quan hệ và tác động qua lại, đan
xen.
4.2 Các thành phần kinh tế ở nước ta
4.2.1 Các thành phần kinh tế còn tồn tại ở nước ta
Một là: - Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh
tế của chế độ xã hội phong kiến. Trong đó, giai cấp địa chủ chiếm ruộng
đất và nông cụ nhưng không cày cấy, "không nhắc chân đụng tay mà lại
cửa cao nhà rộng, phú quý phong lưu" còn nông dân phải mướn ruộng của
địa chủ phải nộp tô, phải hầu hạ "nông dân không khác gì nô lệ" .Trong chế
độ mới, thành phần kinh tế đó đã lỗi thời, chỉ còn là tàn dư. Nhưng để thực
hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, phục vụ chiến lược giải phóng dân
tộc, nhằm thu hút số địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng, ủng hộ kháng
chiến, Hồ Chí Minh không chủ trương xóa bỏ thành phần kinh tế này mà
chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức, tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này
đóng góp cho kháng chiến.
Hai là: - Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà
nước, là của chung nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội... Đây là thành
phần kinh tế ra đời trong chế độ dân chủ mới, có vai trò đáp ứng yêu cầu
to lớn và quan trọng của toàn xã hội, của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Theo Hồ Chí Minh, kinh tế quốc doanh 7 là "nền tảng
và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức
phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó"
Ba là: - Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản
dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư bản
nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên "về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến
8

8



thì chế độ tư bản là một tiến bộ to" .Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử
dụng vốn, khoa học kỹ thuật "cho nên, Chính phủ cần giúp họ phát triển.
Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân"
Bốn là: - Kinh tế tư bản quốc gia: Đây là thành phần kinh tế do Nhà nước
và nhà tư bản cùng góp vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh
đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản chủ nghĩa.Tư bản của Nhà nước là xã
hội chủ nghĩa. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là nấc thang, bước
trung gian để một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Và thành
phần kinh tế "nửa chủ nghĩa xã hội" này sẽ tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Năm là: - kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất
nửa xã hội chủ nghĩa;
Sáu là: - kinh tế cá thể của nông dân và của thủ công nghệ.
4.2.2 Các thành phần kinh tế dưới chế độ dân chủ mới
Ngay từ năm 1953, Hồ Chí Minh đã cho rằng: Dưới chế độ dân chủ mới
có 5 loại thành phần kinh tế khác nhau là:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung nhân
dân).
- Kinh tế hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến lên chủ nghĩa
xã hội).
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
- Kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế tư bản của nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân
để kinh doanh).
Và, trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, để khỏi chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng phải làm cho kinh tế quốc doanh phát
triển nhanh hơn và giữ vai trò chủ đạo.
9


9


4.2.3 Hồ Chí Minh đề ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ
Thứ nhất: Công tư đều lợi.
Thứ hai: Chủ thợ đều lợi.
Thứ ba: Công nông giúp nhau.
Thứ tư: Lưu thông trong ngoài.
"Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta". Chỉ
bằng những câu ngắn gọn Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những
nguyên tắc, mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần là:
các thành phần kinh tế phải tồn tại trong mối quan hệ bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.

5.CHỨNG MINH TÍNH ĐÚNG ĐẮN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ TRƯƠNG

5.1. Kinh tế Việt Nam trước đổi mới (trước năm 1986)
Thực tế trước đổi mới, nhất là của hơn 10 năm tiến hành xây dựng CNXH trên
phạm vi cả nước (1975 - 1986), chứng tỏ rằng trong nền kinh tế mang đậm bản
sắc nông dân - nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, mô hình phát triển
gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung có những khiếm khuyết lớn trong việc giải
quyết các nhiệm vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.
Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động
thiếu năng động và kém hiệu quả.
Tình hình đó đã khiến đổi mới trở thành một nhu cầu hết sức bức bách, một đòi
hỏi vô cùng bức thiết của cuộc sống .

5.2. Kinh tế Việt Nam sau đổi mới (từ năm 1986 đến nay)


* ĐẠI HỘI VI( 12/1986)
10

10




Đại hội lần VI đã phân tích sâu sắc những khuyết điểm, trong đó nhấn mạnh
những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ những thành phần phi XHCN.



Đại hội VI khẳng định : “ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất , đi
đôi với việc bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng ,
phải xác định đúng thành phần cơ cấu kinh tế ”.

Các thành phần kinh tế khác bao gồm:


Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa



Kinh tế tư bản tư nhân



Kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức mà cao nhất là công tư hợp
doanh




Kinh tế tự nhiên, tự cấp ,tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số Tây nguyên.

*ĐẠI HỘI VII( 6/1991)
ĐH khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn do Đại hội VI ( 12.1986) đề ra. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên XHCN thong qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần, đó là:


Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo



Kinh tế tập thể



Kinh tế cá thể



Tư bản tư nhân

Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức

*ĐẠI HỘI VIII( 6/1996)
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức


11

11


Đại hội VIII (6-1996)xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần: Kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân.

*ĐẠI HỘI VIII(6/1996)
Quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tiếp tục được đảng ta khẳng
định và phát triển trong đại hội IX của Đảng “ thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh doanh theo pháp luật
đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
Theo đó,nền kinh tế nước ta bao gồm 6 thành phần:kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài.

12

12



×