Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thảo luận Luật Cạnh Tranh và Bảo Vệ Quyền Lợi NTD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.66 KB, 18 trang )

DANH SÁCH NHÓM 12
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

Trần Thị Thanh Tâm
Hoàng Thị Hải Quỳnh
Đào Diệu Thu
Nguyễn Thị Thu Trang (K49C1)
Nguyễn Thị Yến
Nguyễn Thị Thu Trang (K49C5)
Nguyễn Thị Hoài Thư
Vũ Phương Thảo tốt,
Ngô Thị Loan
Nguyễn Văn Chiêu
Lý Thị Hải
Nguyễn Thị Yến


I.

Doanh nghiệp cần làm gì để tuân thủ quy định về luật cạnh tranh


Theo Luật Cạnh tranh, các tổ chức, cá nhân kinh doanh tại Việt Nam được pháp
luật bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp. Việc cạnh tranh phải đảm bảo tuân thủ pháp luật
và các nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhà nước, công
cộng, các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.
Để thực hiện cạnh tranh lành mạnh, không vi phạm pháp luật thì các doanh nghiệp
cần phải nắm rõ luật cạnh tranh, để biết những hành vi nào là hành vi hạn chế cạnh tranh,
hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Từ đó mà có những biện pháp, hành
động trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh, góp phần tạo ra một môi trường kinh
doanh lành mạnh. Làm được điều đó thì doanh nghiệp cần tuân thủ những điều sau:
 Thực hiện cạnh tranh lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh lành mạnh là loại cạnh tranh theo đúng quy định của pháp
luật, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh. Cạnh tranh có tính chất thi đua, thông qua đó
mỗi chủ thể nâng cao năng lực của chính mình mà không dùng thủ đoạn triệt hạ đối thủ.
Phương châm của cạnh tranh lành mạnh là “không cần phải thổi tắt ngọn nến của người
khác để mình tỏa sáng”.
Một ví dụ điển hình là sự cạnh tranh của hai doanh nghiệp Pepsi và Cocacola - 2
hãng nước ngọt có ga bán chạy nhất trên Thế giới cũng như tại Việt Nam. Sự cạnh tranh
của 2 hãng này đã diễn ra cả thế kỉ, và dường như cuộc chiến này bất phân thắng bại. Tuy
cùng ở trong hoàn cảnh cạnh tranh khốc liệt, nhưng Coca và Pepsi đều được coi là hai
doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, mỗi doanh nghiệp đều tuân thủ đúng quy định của
Pháp luật, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh.
Lấy một ví dụ về cuộc ganh đua trong hoạt động phân phối.
Pepsi đã mở rộng kênh phân phối ra hầu hết các quán café, các cửa hàng thức ăn
nhanh. Mới đây, Pepsi đã kí hợp tác với Kinh Đô, một thương hiệu với hệ thống phân
phối với hơn 5.000 điểm để mở rộng mạng lưới bán hàng, phát triển sản phẩm Pepsi, tập
đoàn này hiện cũng có 6 nhà máy tại Việt Nam.
Hợp tác giữa Coca - Cola và Co.opMart bắt đầu từ ngày 1/1/2013 cũng là một sự
kiện đặc biệt kể từ khi Coca - Cola đầu tư vào Việt Nam. Trước đó, với các "điều khoản"
cam kết với Pepsi, hệ thống siêu thị Co.opMart gần như đóng cửa với Coca - Cola.
Ngoài hệ thống siêu thị, trước đây, Coca-Cola và Pepsi còn giành các hợp đồng

phân phối độc quyền ở các đại lý nhỏ thông qua các chương trình ưu đãi như cung cấp tủ
đựng đồ, bàn ghế, ô, ly hay dịch vụ bảo trì, sửa chữa tủ lạnh miễn phí.
Sự cạnh tranh giữa 2 thương hiệu này còn diễn ra ở nhiều kênh phân phối khác.
Người thích Coca - Cola chắc chắn không bao giờ tìm thấy sản phẩm thuộc thương hiệu
này trong chuỗi cửa hàng Lotteria, Chicken Express, KFC, Subway.
Và ngược lại tại hệ thống của McDonalds, người dùng chỉ có thể tìm được Coca Cola, chứ tuyệt nhiên không có bóng dáng Pepsi.


Như vậy, mặc dù Coca và Pepsi là hai đối thủ mạnh của nhau, nhưng những hoạt
động cạnh tranh của họ rất trong sáng minh bạch, không vi phạm pháp luật, là hoạt động
cạnh tranh lành mạnh.
 Xem xét kĩ trước khi thực hiện các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2. Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung
ứng dịch vụ;
3. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hóa, dịch vụ;
4. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hóa, dịch vụ, hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải các bên
của thỏa thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Các doanh nghiệp bị cấm hoàn toàn thực hiện các hành vi 6,7,8 phía trên. Đối với
các hành vi còn lại thì chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên

thị trường liên quan từ 30% trở lên.
Tuy nhiên các trường hợp các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh có thị phần kết hợp từ 30% trở lên cũng có thể được miễn trừ nếu đáp ứng được các
điều kiện tại 10 của luật cạnh tranh.
Một ví dụ về việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó là năm 2013, 12 doanh nghiệp
bảo hiểm đã có hành vi ký kết thỏa thuận về thống nhất giá dịch vụ bảo hiểm học sinh.
Đây là hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh.
Trên thị trường bảo hiểm toàn diện học sinh trong phạm vi và giai đoạn bị điều tra,
thị phần kết hợp của 12 doanh nghiệp Bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm 99.81%, vượt
quá ngưỡng 30% trên thị trường liên quan quy định tại khoản 2, Điều 9 Luật Cạnh tranh.


Hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
của 12 Doanh nghiệp bị điều tra là hành vi vi phạm quy định tại khoản 2, Điều 9 của Luật
Cạnh tranh về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.
Sau 3 tháng thực hiện thỏa thuận, Đại diện 12 doanh nghiệp Bảo hiểm đã ký biên
bản làm việc thống nhất hủy bỏ Bản thỏa thuận bảo hiểm học sinh này. Bên bị điều tra đã
tự nguyện chấm dứt hành vi vi phạm do nhận thấy bản thỏa thuận có một số nội dung
không phù hợp với pháp luật cạnh tranh.
Vậy, để không bị vi phạm, không bị xử lý trước pháp luật thì các doanh nghiệp cần
nắm vững mọi quy định của luật cạnh tranh, và tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy
định của pháp luật.
 Không thực hiện các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền.
Điều 12. Doanh nghiệp có vị trí độc quyền
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh
tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.
Điều 13. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm
Cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện
các hành vi sau đây:

1. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh;
2. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
4. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất
bình đẳng trong cạnh tranh;
5. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng;
6. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
Điều 14. Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm
Cấm doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện hành vi sau đây:
1. Các hành vi quy định tại Điều 13 của Luật này;
2. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
3. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng.
Điều 15. Kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước,
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích


1. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước
bằng các biện pháp sau đây:
a) Quyết định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà
nước;
b) Quyết định số lượng, khối lượng, phạm vi thị trường của hàng hoá, dịch vụ
thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước.
2. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công
ích bằng các biện pháp đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước

quy định.
3. Khi thực hiện các hoạt động kinh doanh khác ngoài lĩnh vực độc quyền nhà
nước và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, các doanh nghiệp không chịu sự
điều chỉnh của quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này nhưng vẫn chịu sự điều chỉnh
của các quy định khác của Luật này.
Một ví dụ về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền: Ngày 1/4/2008 các chuyến bay
của hãng hàng không Jestar Pacific Airline (JPA) đã bị ngưng trệ do Công ty xăng dầu
hàng không Việt Nam (Vinapco) đã đơn phương ngừng cung cấp nguyên liệu bay cho
JPA. Sau khi bộ trưởng Bộ GT-VT trực tiếp ra chỉ thị cung cấp lại nhiên liệu cho JPA các
chuyến bay mới được cất cánh sau 2-3h bị ngưng trệ. Tại thời điểm này, Vinapco là đơn
vị duy nhất được phép cung cấp xăng dầu hàng không thương mại cho các hãng hàng
không Việt Nam và nước ngoài tại sân bay nội địa. Giữa Vinapco và JPA có cam kết về
những điều khoản của hợp đồng mua bán xăng dầu và thực hiện các dịch vụ tra nạp tại
sân bay. Cụ thể: ngoài giá xăng dầu thực tế, chi phí vận chuyển, bảo hiểm, thuế nhập
khẩu JPA phải trả cho Vinapco phí nạp xăng dầu 593 nghìn đồng /tấn. Tuy nhiên, ngày
20/3 Vinapco gửi công văn cho JPA đề nghị tăng phí nạp xăng dầu lên 750 nghìn
đồng/tấn từ 01/04. Bên cạnh đó, Vinapco vẫn giữ nguyên phí nạp xăng dầu ban đầu cho
Vietnam Airlines. Điều này được JPA cho là không công bằng và chỉ đồng ý tăng phí nếu
phí nạp xăng dầu của Vietnam Airlines cũng tăng tương ứng. Khi chưa có sự thống nhất
giữa 2 bên thì ngày 01/04 Vinapco đột ngột ngừng cung cấp nhiên liệu cho JPA. Sự việc
này đã ảnh hưởng đến hàng nghìn khách hàng, tác động tiêu cực đến dư luận trong nước
và quốc tế về hàng không Việt Nam.
 Không thực hiện các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Doanh nhiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở
lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
(khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh Tranh).
Theo Khoản 2 Điều 11 Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan.

- Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan.


- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Một doanh nghiệp tuân thủ quy định cạnh tranh là doanh nghiệp không thực hiện
các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường:
- Không bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh: hành vi này là việc doanh nghiệp bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với giá
thành thấp hơn giá thành thực để thu hút khách hàng và gây khó khăn cho những doanh
nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng hoặc cung ứng cùng một loại dịch vụ.
- Không áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán
lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Nếu thực hiện áp đặc giá mua, giá bán hàng
hóa dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng,
khách hàng là những người bị chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải mua quá cao so với giá trị
thực tế của sản phẩm hoặc bán hàng hóa với giá thấp hơn giá thành thực. Giá mua, bán
sản phẩm trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh mà do các doanh nghiệp
thống lĩnh ấn định.
- Không hạn chế sản xuât, phân phối hàng hóa, dịch vụ , giới hạn thị trường, cản
trở phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng, tức là không thực hiện
các hành vi cụ thể sau
• Hạn chế sản xuất, phân phối sản phầm gay thệt hại cho khách hàng - là hành vi giảm khả
năng cung ứng hàng góa, dịch vụ một cách giả tạo để lũng doạn thị trường, làm biến
động quan hệ cung cầu theo hướng có lợi cho doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
trong giao dịch với khách hàng.
• Hạn chế thị trường gay thiệt hại cho khách hàng- là việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn nguồn mua sản phẩm mà không có lý do chính
đáng gây thiệt hại cho khách hàng.
• Hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng- là việc doanh
nghiệp thực hiện nững hành vi nhằm cản trở đối thủ cạnh tranh tiến hành vệc nghiên cứu
phát triển kỹ thuật, công nghệ hoạc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động

kinh doanh.
- Không áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm
tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Theo quy định 29 Nghị định 116/2005/NĐCP, áp đặt
điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong
cạnh tranh là “hành vi phân biệt đối xử với các doanh nghiệp về điều kiện mua bán, giá
cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ tương tự về
mặt giá trị hoặc tính chất hàng hóa, dịch vụ để đặt một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh
tranh có lợi hơn với doanh nghiệp khác”, vì vậy , nó còn được gọi là hành vi phân biệt
đối xủa thương mại.


- Không áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng
hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
- Không ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới
Ví dụ về công ty Samsung Vina Việt Nam: Ông Kim Cheogi, Tổng Giám đốc
Samsung Vina Electronics khẳng định: Với sứ mệnh gia tăng sức cạnh tranh của hàng
“Made in Vietnam” trên thị trường quốc tế, Samsung hiểu rất rõ tầm quan trọng của Luật
Cạnh tranh và Luật bảo vệ Người tiêu dùng. Xây dựng lòng tự hào của người dân về hàng
Việt Nam không chỉ là sứ mệnh của chính quyền mà còn là của các doanh nghiệp. Bằng
những đóng góp của mình, Samsung hi vọng có thể hỗ trợ quảng bá hàng Việt Nam cũng
như bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam với quy tắc: “Chúng tôi cạnh tranh công
bằng, tuân theo pháp luật và đạo đức kinh doanh:
- Chúng tôi tuân thủ luật pháp của các cộng đồng và các quốc gia nơi công ty sở
tại và chúng tôi tôn trọng tiêu chuẩn cũng như thực tiễn của cạnh tranh trong kinh doanh.
- Chúng tôi không chấp nhận bất kỳ lợi nhuận nào có được từ hình thức kinh
doanh bất hợp pháp.
- Chúng tôi không cho phép trao đổi quà tặng, giải trí hoặc dưới bất kỳ hình thức
nào như hình thức mua chuộc ép buộc một người khác dính líu đến đến hoạt động kinh
doanh không lành mạnh”.

 Thực hiện tập trung kinh tế theo luật
Các hành vi tập trung kinh tế được quy định tại điều 16 - 17 Luật cạnh tranh
1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
2. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
3. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.
5. Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật. 
- Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm được quy định tại điều 18 Luật
cạnh tranh
1. Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp được hưởng miễn


trừ được quy định tại Điều 19 LCT hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập
trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
-

Các trường hợp miễn trừ đối với các trường hợp tập trung kinh tế được quy
định tại Điều 19 LCT
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể
hoặc lâm vào tình trạng phá sản
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển

kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ
- Các trường hợp tập trung kinh tế cần phải thông báo
( Điều 20 LCT)
1. Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị
trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ
quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
- Các trường hợp tập trung kinh tế không cần phải thông báo
(Điều 20 LCT)
1. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế được hưởng miễn trừ nộp hồ sơ đề
nghị hưởng miễn trừ thay cho thông báo việc tập trung kinh tế.
2. Trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.
Doanh nghiệp cần xem xét tình hình hiện tại của mình và đối tác về các nội dung
sau trước khi thực hiện hoạt động Tập trung kinh tế:
- Tổng thị phần kết hợp của các bên liên quan khi tham gia Tập trung kinh tế
- Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của DN có nằm trong diện được miễn trừ đối với
TTKT hay không
- Các quy định, thủ tục, hồ sơ, cơ quan thụ lý và giải quyết yêu cầu Tập chung
kinh tế...để có thể thực hiện hoạt động theo đúng pháp luật
Ví dụ về vụ việc tập trung kinh tế của hai liên minh thẻ lớn nhất Việt Nam Banknetvn và Smartlink.
Chủ trương sáp nhập Banknetvn và Smartlink được thống nhất từ tháng 11/2012,
các bên đồng ý mời kiểm toán độc lập định giá tài sản và dự kiến hoàn tất trước 31/12.
Tuy nhiên các thủ tục tiến hành lâu hơn dự kiến trong đó có việc chứng minh để xin miễn
trừ độc quyền, khi mà hai liên minh thẻ duy nhất trên thị trường lại sáp nhập với nhau.
Các quy định hiện hành cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các bên chiếm
trên 50% trên thị trường. Việc tập trung kinh tế (sáp nhập) chỉ được miễn trừ nếu góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và Thủ tướng là người có
thẩm quyền xem xét, quyết định về việc cho hưởng miễn trừ.
Ngày 22/12 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định 2327/QĐ-TTg
chấp thuận cho hưởng miễn trừ tập trung kinh tế sau sáp nhập đối với Banknetvn và



Smartlink. Thời hạn được hưởng miễn trừ tập trung kinh tế là 5 năm và tự động gia hạn
sau mỗi 5 năm nếu các bên tham gia tập trung kinh tế không vi phạm các điều kiện và
nghĩa vụ cho hưởng miễn trừ.
 Không thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Để tuân thủ quy định về luật cạnh tranh, doanh nghiệp phải tuyệt đối tuân thủ các
điều dưới đây của luật cạnh tranh:
Điều 40. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
1. Cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên
thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các
yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về
hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
2. Cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn quy định
tại khoản 1 Điều này.
Ví dụ: Sản phẩm trà chanh Nestea của Nestle và trà chanh Freshtea của Công ty
Thúy Hương
Sản phẩm trà chanh Nestea rất được ưa chuộng trên thị trường nhưng không ít
khách hàng, nhất là khách hàng ở các tỉnh, bị nhầm lẫn với sản phẩm Freshtea của Công
ty Thuý Hương. Theo tài liệu của Công ty sở hữu trí tuệ Banca được công bố công khai
trong cuộc hội thảo do Bộ Công thương tổ chức thì, Công ty Thuý Hương (Thanh Trì, Hà
Nội) đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Cụ thể, Công ty Thuý Hương đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa
Freshtea và Nestea. Sự tương tự về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả về
cách trình bày, bố cục, mầu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát hiện hai gói
trà chanh này là do hai cty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu dùng được hỏi thì cho
rằng, cả Freshtea và Nestea cùng là sản phẩm của cty Nestle, vì trông chúng rất... giống
nhau!
Đây chính là hành vi kinh doanh hàng hóa có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn, bị
cấm tuyệt đối và không có miễn trừ. Vì vậy các doanh nghiệp phải tuyệt đối tuân thủ điều

luật này.
Điều 41. Xâm phạm bí mật kinh doanh
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:
1. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;


2. Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh;
3. Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa
vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh đó;
5. Tiếp cận thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người
này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu
hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước
hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan
đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
Ví dụ: Vụ đánh cắp bí mật kinh doanh của Công ty Coca Cola
Nhân viên của Coca Cola đã xâm nhập vào các dữ liệu và đánh cắp công thức chế
tạo một sản phẩm mới của Coca Cola, sau đó đề nghị bán thông tin cho Pepsico – đối thủ
cạnh tranh hàng đầu của Coca Cola. Một nhân viên bí mật của FBI được giao đặc vụ hẹn
gặp với nhân viên này tại sân bay quốc tế Hartsifield – Jackson tại Atlanta. Trong cuộc
gặp này, anh ta đã đưa ra một phong bì có chứa tài liệu và một chai thủy tinh đựng mẫu
dung dịch lỏng. Nhân viên điều tra FBI cho biết sẽ trả trước 30.000 USD và hứa trả nốt
45.000 USD còn lại sau. Tiếp đó, nhân viên FBI bí mật giao cho một nhân viên khác và
ngỏ ý muốn mua nốt số bí quyết còn lại với giá 1,5 triệu USD với nhân viên đã đánh cắp
bí mật kinh doanh của Coca Cola. Cùng ngày, FBI phát hiện một tài khoản ngân hàng đã
được mở dưới tên Duhaney và Dimson. Ngay sau đó, anh ta bị bắt và bị đưa ra hầu tòa tại
Atlanta, Georgia.
Doanh nghiệp tuyệt đối không thực hiện các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh

theo điều 41 Luật cạnh tranh. Bên cạnh đó cần phải chủ động bảo vệ doanh nghiệp mình
khỏi sự xâm phạm bí mật kinh doanh, chứ không “mất bò mới lo làm chuồng”.
Điều 42. Ép buộc trong kinh doanh
Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác
bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với
doanh nghiệp đó.
Ví dụ: Ủy ban cạnh tranh và người tiêu dùng Úc (ACCC) đã tiến hành tố tụng tại
tòa án Liên bang, Melbourne cáo buộc 2 công ty Bill Express (BXP) và Công ty Kinh
doanh quốc tế Pty (TBI).


ACCC cáo buộc BXP và TBI đã có hành vi ép buộc kinh doanh đối với bên thứ 3.
BXP cung cấp các sản phẩm điện tử và dịch vụ theo thỏa thuận mua hàng kèm theo điều
kiện về dịch vụ do TBI cung cấp như thuê các thiết bị để giao hàng và dịch vụ. ACCC
ước tính từ năm 2003 đến nay có khoảng 3500 đến 4500 công ty đã ký hợp đồng thuê
thiết bị từ TBI do phải thực hiện theo thỏa thuận giữa BXP và TBI và hiện còn khoảng
2800 hợp đồng đang còn hiệu lực.
Để tránh những vụ việc như trên, doanh nghiệp tuyệt đối không thực hiện hành vi
ép buộc trong kinh doanh được quy định tại điều 42 Luật cạnh tranh.
Điều 43: Gièm pha doanh nghiệp khác
Gièm pha doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin
không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đó.
Thị trường Việt Nam trong những năm qua đã xuất hiện nhiều dấu hiệu của hành
vi gièm pha, được lưu truyền bằng các thông tin đại chúng, các biện pháp như tin tồn rỉ
tai. Lấy ví dụ như: Otosaigon.com là một trang web thuộc Cty cổ phần ô tô Xuyên Việt
tại TP.HCM, chuyên đưa tin về xe hơi, quảng cáo bán xe, trong đó còn có một diễn đàn
dành cho các thành viên tranh luận về tất cả những chuyện liên quan đến xe hơi. Còn Cty
TNHH cơ khí ô tô Phạm Gia, TP. HCM là một công ty có tầm cỡ chuyên kinh doanh dịch
vụ bảo dưỡng, sửa chữa và buôn bán xe hơi, được chứng nhận Hệ thống quản lý chất

lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9001:2000. Phạm Gia cũng đã ký quỹ 2 triệu USD để
trở thành nhà phân phối cấp 1 đạt chuẩn 3S cho hạng xe hơi Chrysler của Mỹ tại VN và
đầu tư 20 tỷ đồng cho việc xây dựng Showroom trang thiết bị nhà xưởng với diện tích
hơn 7.000m2 ở huyện Bình Chánh, TPHCM.
Thế nhưng theo ông Phạm Trường Hổ, Giám đốc Cty Phạm Gia thì otosaigon.com
đã xây dựng diễn đàn “Bó toàn thân với Phạm Gia- kinh nghiệm cho các bác sửa xe” để
các thành viên của diễn đàn bêu xấu Phạm Gia. Vì vậy ông Hổ đã gửi đơn tố cáo Cty cổ
phần ô tô Xuyên Việt là đơn vị chủ quản của website otosaigon.com, “đã có hành vi đê
hèn suốt 4 năm nay đã tạo diễn đàn nói xấu công ty chúng tôi về chất lượng và dịch vụ,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thương hiệu, hình ảnh, uy tín, tinh thần làm việc của
nhân viên, đe doạ đến công ăn việc làm và cuộc sống của gần 200 nhân viên”.
Doanh nghiệp không được thực hiện hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, điều
này sẽ vi phạm quy định của luật cạnh tranh.
Điều 44: Gây rối hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp khác


Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp
khác bằng hành vi trực tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đó.
Hành vi gây rối loạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là 1 dạng chiến
lược gây cản trở hoặc gây khó cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Tuy
nhiên pháp luật không quy định về hình thức cũng như phương tiện, công cụ được sử
dụng trong hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Vụ việc tranh chấp giữa hai công ty Taxi Thu Hương và V20 tại Hà Nội là một ví
dụ cho hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của người khác. Năm 2001, Taxi V20 có
124 đầu xe, chiếm 5% số xe taxi của Hà Nội, nhưng đã chiếm 30-40% thị phần vận
chuyển hành khách bằng taxi của Hà nội do giá cả và cung cách phục vụ hợp lý. Tuy
nhiên, từ đầu tháng 10/2001, Trung tâm điều khiển vô tuyến điện của V20 bị tê liệt do
một dải tần chèn phá và Trung tâm kiểm soát tần số khu vực I đã phát hiện một số đài
phát sóng lạ trên địa bàn Hà Nội, có vị trí phát sóng thường xuyên thay đổi, gây nhiễu,

phá liên lạc của hãng Taxi V20. Ngày 19/10, Trung tâm kiểm soát tần số khu vực I đã
xác định được 2 vị trí phát sóng vô tuyến điện gây nhiễu vô tuyến điện trên cột ăngten
(tại 25 Láng Hạ, Đống Đa, trụ sở của Công ty xe Du lịch Hà Nội) và tại nhà số 5, phố
Tây Sơn, Đống Đa (trụ sở Công ty Thương mại và Du lịch Hoàn Thắng, chủ sở hữu Taxi
Thu Hương). Đêm 22/10 Lực lượng cảnh sát điều tra đã cùng các cán bộ Trung tâm kiểm
soát tần số khu vực I phát hiện tại trụ sở của hãng Taxi Thu Hương 5 thiết bị phát sóng,
khuyếch đại gây nhiễu loạn hệ thống thông tin của Taxi V20. Chủ nhân của các thiết bị
cũng là chủ hàng Taxi Thu Hường đã thừa nhận sai phạm(www.vnexpress.net ngày
24/10/2001.). Hành vi gây rối nói trên đã làm cho gần 10.000 cuộc gọi của khách hàng
gọi tới V20 không thể thực hiện, gây thiệt hại trên dưới 300 triệu đồng trong 10 ngày
thực hiện việc phá hoại, gây những tổn hại về uy tín của Taxi V20 trước khách hàng.

Điều 45: Quảng cáo nhằm cạnh trạnh không lành mạnh
Theo điều 45 luật cạnh tranh, những hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh bao gồm:
1. So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác.


Quảng cáo so sánh là việc khi thực hiện quảng cáo, doanh nghiệp đã đưa ra những
thông tin có nội dung so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với sản phẩm cùng
loại của doanh nghiệp khác.
Công ty cà phê Trung Nguyên với thương hiệu G7 nổi tiếng cũng bị quy vào một
trong những doanh nghiệp có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Công ty Trung Nguyên đã sử dụng nhãn hiệu ba chiều hình cốc đỏ của Nestlé để so sánh
trực tiếp sản phẩm G7 của họ với sản phẩm Nescafé của Nestles. Đó thực chất là việc so
sánh trực tiếp sản phẩm nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
2. Bắt trước 1 sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Sự hấp dẫn của cách thức trình bày và nội dung trong sản phẩm quảng cáo quyết
định mức độ thu hút của nó đối với khách hàng làm cho mục đích quảng cáo sẽ đạt được

hiệu quả. Trước tình hình đó, xuất hiện nhiều toan tính không lành mạnh bằng cách bắt
chước sản phẩm quảng cáo của người khác nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng:
Luật Cạnh tranh cấm doanh nghiệp thực hiện hành vi đưa thông tin gian dối hoặc
gây nhầm lẫn cho khách hàng trong hoạt động quảng cáo về một trong các nội dung sau:
a. Giá, số lượng, chất lượng công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản
xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công,
nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; và các nội
dung gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
b. Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành.
c. Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
Các thông tin về giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại…
được liệt kê trong Luật Cạnh tranh là những thông tin có ý nghĩa quan trọng tác động đến
sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm quảng cáo. Các thông tin bị sai lệch sẽ làm
cho sự lựa chọn sẽ không chính xác. Hành vi gian dối trong quảng cáo bằng cách làm sai
lệch nhận thức, gây nhầm lẫn trong ý thức lựa chọn của khách hàng đều là không lành
mạnh.
Ví dụ cụ thể: Ngày 14/11/2008, Panasonic Việt Nam giới thiệu dòng máy điều hòa
không khí mới Envio I2 và Envio P2. Dòng máy điều hòa Envio I2 và P2 mới không chỉ
làm lạnh hiệu quả, tiết kiệm đến 50% lượng điện năng tiêu thụ mà còn có khả năng lọc
không khí tuyệt vời, làm sạch đến hơn 99% bụi bẩn, vi khuẩn và nấm mốc. Hệ thống lọc
khí e-ion đã chứng tỏ khả năng thu gom bụi nhanh 5,5 lần so với thông thường và hiệu
quả hơn 10% so với các model năm 2007,… Bên cạnh đó, Panasonic còn cho ra đời sản
phẩm tủ lạnh mới mà theo quảng cáo thì tủ lạnh này có tính năng tăng cường thành phần
vitamin của thực phẩm lên tới 12%.


Tuy nhiên sau khi điều tra, quảng cáo của Panasonic với tính năng “bất hoạt đến
99,9% vi khuẩn và nấm mốc” là không đúng thực tế, trong khi doanh nghiệp mới chỉ thử
nghiệm tác động kháng khuẩn với đối với 02 loại vi khuẩn là Staphylocccus và

Escherichia Coli mà không thể diệt hay vô hiệu hóa tất cả các loại virus, vi khuẩn. Đối
với mẫu quảng cáo tủ lạnh, kết quả thử nghiệm mà công ty cung cấp lại chỉ áp dụng với
rau quả chứ không phải thực phẩm nói chung.
Sau đó Cục Quản lý cạnh tranh đã ra quyết định số 66/QĐ- QLCT xử phạt Công ty
TNHH Panasonic Việt Nam với số tiền là 30 triệu đồng đối với hành vi Quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm quy định tại khoản 3, Điều 45 Luật Cạnh tranh.
d. Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.
Điều 46: Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Cấm các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại sau đây:
1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng.
2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa
dối khách hàng.
3. Phân biệt đối xử đối với khách hàng như nhau tạo các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại.
4. Tặng hàng hóa cho khách dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa
cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng
hóa của mình.
5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.
Ví dụ: Theo một công bố của Ban Điều Tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, thì công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình khuyến mại bột canh: người tiêu dùng có
thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định
là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh “tặng hàng hóa
cho khách hàng dung thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại đang sử
dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”.
Điều 47: Phân biệt đối xử của hiệp hội
Cấm hiệp hội ngành nghề thực hiện các hành vi sau đây:
1. Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc
từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh

tranh.
2. Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan
tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.
Điều 48: Bán hàng đa cấp bất chính
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi nhuận bất chính từ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:


1. Yêu cầu người muốn mua tham gia phải đặt cọc,phải mua một số lượng hàng
hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp.
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại.
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng,tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ
yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
4. Cung cấp thông tin gian dối về lượi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng
đa cấp,thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham
gia.
Ví dụ về bán hàng đa cấp bất chính: Nino Vina là một công ty phân phối sản phẩm
nước trái nhàu ở Việt Nam. Công ty này qui định: Để có thể trở thành thành viên cấp I
của mạng lưới phân phối, các phân phối viên phải mua 1 thùng 4 chai nước Tahitian Noni
Juice với giá gốc là 2,7 triệu đồng, giá phân phối là 3,2 triệu đồng. Nếu thành viên cấp I
giới thiệu thêm được 3 người khác tham gia vào mạng lưới (mỗi người lại đóng 2,7 triệu
đồng) thì sẽ được hoa hồng 20% tổng số tiền những người này mua sản phẩm. 3 người
sau này được coi là thành viên cấp II. Nếu các thành viên cấp II này giới thiệu thêm được
3 người khác tham gia vào mạng lưới thì thành viên cấp I sẽ tự động được hưởng thêm
5% tổng số tiền mà 3 thành viên cấp III nộp để mua sản phẩm.
Theo tính toán, khi mạng lưới phát triển đến tầng thứ 8 thì số tiền hoa hồng được
chuyển về tài khoản của “người lôi kéo” ban đầu là 56,2 triệu đồng mặc dù người này
không phải làm gì ngoài việc rủ rê được 3 người mới tham gia vào mạng lưới phân phối.

Như vậy theo mô hình trả hoa hồng này, thu nhập thu được không phải xuất phát việc bán
sản phẩm mà là do chiếm dụng tiền của các thành viên tiếp theo trong mạng lưới. Đây là
một hình thức bán hàng đa cấp bị cấm.
II.

Khi bị vi phạm về luật cạnh tranh thì doanh nghiệp phải làm gì để được bảo
vệ trước những quy định của luật cạnh tranh
Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành
vi nói trên có quyền khiếu nại đến Cục Quản lý cạnh tranh.
Theo khoản 1 điều 2 Luật khiếu nại 2011: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ
chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”
a. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý cạnh tranh (Điều 49)
- Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh;


- Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trường Bộ trưởng Bộ
Thương mại quyết định hoặc trình Thú tướng Chính phủ quyết định;
- Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành
vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Lưu ý: Hội đồng cạnh tranh (Không phải là cơ quan quan lý cạnh tranh)
- Hội đồng cạnh tranh do Chính phủ thành lập
- Nhiệm vụ của Hội dồng cạnh tranh: tổ chức xử lý giải quyết khiếu nại đối với
các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật
cạnh tranh.

- Hoạt động của Hội đông cạnh tranh:
+ Khi giải quyết vụ việc cạnh tranh, Hội động cạnh tranh hoạt động độc lập và chỉ
luân theo pháp luật
+ Biểu quyết theo đa số, trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định theo ý
kiến của Chủ toạ phiên điều trần.
b. Trình tự, thủ tục giãi quyết vụ việc cạnh tranh
Khiếu nại vụ việc cạnh tranh (Điều 58): tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại đến
cơ quan quản lý cạnh tranh nếu cho ràng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm do hành vi vi phạm quy định của Luật cạnh tranh.
Bên khiếu nại phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của các chứng cứ đã cung
cấp cho cơ quan quản lý cạnh tranh.
Thụ lý hồ sơ khiếu nại (Điều 59): Cơ quan quàn lý cạnh tranh có trách nhiệm thụ
lý hồ sơ khiếu nại. Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo cho bên khiếu
nại về việc thụ lý hồ sơ trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ.
Điều tra vụ việc cạnh tranh (Mục 4)
+ Điều tra sơ bộ: Việc điều tra sơ bộ được tiến hành theo quyết định của Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi hồ sơ vụ việc khiếu nại được cơ quan quản lý cạnh
tranh thụ lý và phát hiện có dấu hiệu vi phạm luật này.
Thời hạn diều tra sơ bộ là 30 ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ. Kết
thúc điều tra sơ bộ, Thủ trưởng cơ quan quàn lý cạnh tranh phải ra quyết dịnh đình chỉ
điều tra hoặc điều tra chính thức.
+ Điều tra chính thức:
Đối với vụ việc thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, nội dung điều tra bao gồm: xác
minh thị trường liên quan, xác minh thị phần trên thị trường liên quan đến bên bị điều tra,
thu thập và phân tích chứng cứ về hành vi vi phạm. Thời hạn điều tra là 180 ngày, trong
trường hợp cần thiết Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh có thể gia hạn nhung không
quá 2 lần, mồi lần không quá 60 ngày.



Đối với các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, điều tra viên phải xác định căn
cứ cho rằng bên bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thời hạn điều tra đối với các vụ việc này là 90 ngày, kể từ ngày có quyết định. Trong
trường hợp cằn thiết Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh có thể gia hạn nhưng không
quá 60 ngày.
Sau khi kết thúc điều tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh chuyển báo cáo
điều tra cùng hồ sơ liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh đến Hội đồng cạnh tranh.
Nếu có dấu hiệu tội phạm thì chuyển cơ quan có thẩm quyền để khởi tố vụ án hình sự.
Thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh: Sau khi nhận được báo cáo điều tra
và hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh quyết định thành lập Hội đông
xử lý vụ việc cạnh tranh.
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ phải ra một trong các quyết định: mở phiên diều trần, trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Phiên điều trần được thực hiện đối với các vụ việc cạnh tranh thuộc thẩm quyền
giải quyết của Hội đồng cạnh tranh.
Phiên điều trần được tổ chức công khai. Trường hợp nội dung điều trần có liên
quan đến bí mật quốc gia, bí mật kinh doanh thì phiên điều trần được tổ chức kín. Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tiến hành thảo luận, bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số,
sau khi nghe những người tham điều trần trình bày ý kiến và tranh luận.
Ví dụ: do nhận thấy các dấu hiệu của việc vi phạm luật cạnh tranh của công ty
TNHH Truyền thông MegaStar có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và hoạt động kinh
doanh của mình nên vào tháng 3/2010, 6 doanh nghiệp điện ảnh: Công ty điện ảnh
Truyền thông Sài Gòn, Trung tâm PHP&CB Đồng Nai, Công ty Điện ảnh Sài Gòn, Công
ty CP phim Thiên Ngân, Công ty Điện ảnh 212 và Công ty TNHH MTV Điện ảnh Hà
Nội, khởi kiện Megastar với nội dung: Megastar đang lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường để ấn định giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý, gây thiệt hại cho khách hàng khi
áp dụng chính sách định phí thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem.
Ngày 18/6/2010, Cục Quản lý cạnh tranh ra quyết định chính thức điều tra vụ việc.
Đến ngày 17/9/2010, bên khiếu nại đã gửi tiếp bản giải trình bổ sung cho đơn

khiếu nại, đồng thời, rút lại cáo buộc hành vi ấn định giá bán của Megastar: "Không
khiếu nại và không đưa ra lý lẽ để khẳng định Megastar có hành vi áp đặt giá vé tối thiểu
cho người xem phim."
Ngày 6/11/2010, Megastar đã nộp bản giải trình chi tiết tới Cục Quản lý cạnh
tranh và đề nghị ngừng điều tra với Megastar vì các cáo buộc của 4 đơn vị là không có cơ
sở.
Do tính chất phức tạp của vụ việc, phải đến 14/5/2015 thì cục quản lý cạnh tranh
mới có quyết định chính thức về vụ việc này. Quyết định đã kết luận như sau:


1. Công ty Megastar có vị trí thống lĩnh trên thị trường cho thuê phim nhựa chiếu
rạp ở Việt Nam.
2. Không đủ chứng cứ để kết luận hành vi áp đặt giá thuê phim dựa trên chính sách
định phí thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem của Công ty Megastar là hành vi quy
định tại Khoản 2, Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP, vi phạm Khoản 2 Điều 13 Luật
Cạnh tranh.
3. Hành vi gắn việc cho thuê phim Transformers: Revenge of The Fallen với việc
phải thuê phim Ice Age 3 là hành vi được quy định tại Điều 30 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP. Hành vi này bị cấm tại khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh.
4. Hành vi của Công ty Megastar buộc doanh nghiệp khác thực hiện thêm một
hoặc một số nghĩa vụ do Megastar chỉ định phòng chiếu và áp đặt suất chiếu nằm ngoài
phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng là hành vi được quy định tại Điều 30 Nghị định
số 116/2005/NĐ-CP. Hành vi này bị cấm tại khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh.
Megastar đã bị xử phạt vì các hành vi vi phạm của mình.



×