Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT DẠY NGHỀ VÀ KIẾN NGHỊ CÁC NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VÀO LUẬT DẠY NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.08 KB, 25 trang )

BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TỔNG CỤC DẠY NGHỀ

BÁO CÁO TÓM TẮT ĐỀ TÀI
CẤP BỘ NĂM 2013

Tên đề tài:
THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT DẠY NGHỀ
VÀ KIẾN NGHỊ CÁC NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
VÀO LUẬT DẠY NGHỀ
MÃ SỐ: CB2013-04-06

Chủ nhiệm: TS. Vũ Xuân Hùng

HÀ NỘI, NĂM 2013


MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Luật Dạy nghề được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 26 tháng 11 năm 2006 và có hiệu thực thi hành từ ngày 01 tháng 07
năm 2007. Sau 5 năm triển khai thực hiện, Luật Dạy nghề không những
chỉ thể hiện là một đạo luật có giá trị pháp lý cao mà ngày càng khẳng
định là một đạo luật có giá trị thực tiễn, đáp ứng tốt những đòi hỏi khách
quan của thực tiễn. Lần đầu tiên hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ đào
tạo (sơ cấp nghề (SCN), trung cấp nghề (TCN) và cao đẳng nghề (CĐN)
được hình thành và phát triển ở Việt Nam, từng bước đáp ứng nhu cầu đa
dạng về các bậc trình độ đào tạo lao động kỹ thuật trong thực tiễn sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, qua thực tế 5 năm triển khai thực hiện, bên cạnh những


đóng góp quan trọng nêu trên, do nhiều nguyên nhận nhất là những
nguyên nhân khách quan nên một số những quy định trong Luật không
còn phù hợp, ngày càng trở lên bất cập với thực tiễn, cụ thể như bất cập
trong các quy định về các điều kiện đảm bảo cho hoạt động dạy nghề
(giáo viên, chương trình, cơ sở vật chất, thiết bị); chính sách cho người
học nghề; chưa quy định rõ loại hình sở hữu của các cơ sở dạy nghề
(CSDN) thuộc doanh nghiệp nhà nước; không quy định cụ thể việc thành
lập, quản lý các CSDN có vốn đầu tư nước ngoài;; thiếu quy định về dạy
nghề thường xuyên, về hợp tác quốc tế .v.v…
Kể từ khi Luật Dạy nghề được ban hành (năm 2006) đến nay đã có
nhiều Bộ luật, luật khác có liên quan đến Luật Dạy nghề được ban hành
hoặc sửa đổi, bổ sung. Một số quy định của Luật Dạy nghề trái với một
số quy định trong các văn bản luật liên quan.
Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng thi hành Luật Dạy nghề và đề
xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề là việc làm hết
sức cấp thiết, phục vụ tốt nhất cho Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Dạy nghề, góp phần quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao về đào tạo nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2


II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Qua nghiên cứu Luật Giáo dục, dạy nghề, các công trình nghiên cứu
về dạy nghề của các nước cho thấy không có công trình nào trùng với vấn
đề nghiên cứu của Đề tài, tuy nhiên, qua những nghiên cứu này cũng gợi
mở thêm về một số quan điểm, nội dung cần phải luật hóa trong Luật
Dạy nghề của Việt Nam. Mặc khác, pháp luật dạy nghề nói chung, Luật
Dạy nghề nói riêng lại là vấn đề mới còn ít được quan tâm, nghiên cứu.

Năm 2005, để phục vụ cho Dự án Luật Dạy nghề, nhóm nghiên cứu
của Tổng cục Dạy nghề đã tiến hành thực hiện Đề tài “Căn cứ lý luận và
thực tiễn để pháp điển hóa những nội dung cơ bản trong luật dạy nghề”
(1) (Mã số: CB.2005-02- 02). Đề tài đã tiến hành rà soát các văn bản
Luật, Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, lựa
chọn những vấn đề cơ bản để pháp điển hóa vào các nội dung của dự án
Luật Dạy nghề, trên cơ sở đó, Đề tài cũng đề xuất những nội dung cơ bản
của Luật Dạy nghề. Mặc dù kết quả của Đề tài chỉ phục vụ cho việc xây
dựng Luật Dạy nghề lúc đó, song quan điểm, cách tiếp cận về pháp điển
hóa vào những nội dung cơ bản trong Luật Dạy nghề vẫn là những định
hướng cơ bản có giá trị cho Đề tài.
Đề tài “Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục giai đoạn
2010 - 2020” (2) (Mã số: B2009-37-08NV) do nhóm tác giả của Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã tiến hành nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn công
tác xây dựng văn bản quy phạm pháp quy pháp luật về giáo dục, đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật giáo dục. Tuy nhiên,
phạm vi của Đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu về công tác soạn thảo văn
bản quy phạm pháp luật, xác định quy trình soạn thảo văn bản, thực trạng
của việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực giáo dục. Đề tài
không đề cập đến pháp luật dạy nghề và chỉ hướng đến hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật dưới Luật.
Về thực trạng dạy nghề hiện nay cũng được trình bày trong một số
báo cáo, chương trình, đề án về dạy nghề như Chiến lược phát triển dạy
1 PGS. TS. Mạc Văn Tiến (2005), Đề tài “Căn cứ lý luận và thực tiễn để pháp điển hóa những nội
dung cơ bản trong luật dạy nghề”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Mã số: CB.2005-02- 02
PGS.TS. Chu Hồng Thanh (2010), Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục giai đoạn
2010 - 2020”. Đề tài khoa học cấp Bộ. Mã số: B2009-37-08NV, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam;

2


3


nghề thời kỳ 2011 - 2020(3); Báo cáo dạy nghề Việt Nam năm 2011(4),
Dự thảo Đề án đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020 v.v…, song
cũng chỉ mang tính tổng quát, số liệu hầu hết từ báo cáo do các địa
phương, CSDN cung cấp. Tuy nhiên, từ những thực trạng đã được nêu ở
trên, sẽ làm cơ sở định hướng cho Đề tài trong việc nghiên cứu thực trạng
của dạy nghề dưới phương diện pháp luật.
Thực hiện Nghị quyết số 20/2011/QH13 về chương trình xây dựng
Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Tổng cục Dạy nghề
đang tiến hành thực hiện Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Dạy nghề. Quá trình thực hiện Dự án, cơ quan quản lý đã tiến hành
tổng kết, đánh giá 5 năm thi hành Luật Dạy nghề, nêu lên những mặt đạt
được, những hạn chế, yếu kém và có đề xuất một số nội dung cần sửa
đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề. Tuy nhiên, những đánh giá, cũng như
những đề xuất sửa đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề còn mang tính hành
chính, việc đánh giá cũng dựa trên các báo cáo. Do vậy, có những đề xuất
sửa đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề không phải là những hạn chế, bất
cập từ những quy định của pháp luật mà là từ việc tổ chức triển khai
trong thực tiễn hoặc từ nhận thức chủ quan của người quản lý.
Như vậy, qua nghiên cứu lịch sử vấn đề cho thấy, chưa có nghiên cứu
nào cụ thể, đầy đủ về thực trạng thi hành pháp luật về dạy nghề và giải
pháp sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề phù hợp với yêu cầu hội nhập. Do
vậy, việc nghiên cứu Đề tài là cần thiết trong giai đoạn hiện nay và không
trùng lắp với những nghiên cứu trước đó.
III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về dạy nghề và thực hiện pháp
luật về dạy nghề, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị những nội dung cần sửa đổi,

bổ sung vào Luật Dạy nghề, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về dạy
nghề.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3

Chính phủ (2012), Quyết định số 630/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020;
4
Viện Nghiên cứu khoa học Dạy nghề (2012), Báo cáo dạy nghề Việt Nam năm 2011, Nhà xuất bản
Lao động - Xã hội, Hà Nội

4


Hệ thống dạy nghề; hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo, dạy nghề;
hệ thống pháp luật về dạy nghề (Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục và các
văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề); thực trạng thi hành pháp Luật
Dạy nghề (thực trạng công tác triển khai, thực trạng phát triển dạy nghề
tính từ khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành); những đề xuất sửa đổi,
bổ sung vào Luật Dạy nghề; kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và áp dụng
pháp luật về dạy nghề.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Về nội dung nghiên cứu
- Thực trạng thi hành Luật Dạy nghề bao gồm cả các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật và các văn bản khác dưới Luật;
- Đề tài chỉ đề xuất những vấn đề chính, cơ bản cần sửa đổi, bổ sung
vào Luật Dạy nghề, cụ thể như: (1) Về cơ sở dạy nghề; (2) Về trình độ
dạy nghề; (3) Về giáo viên dạy nghề; (4) Quyền, nghĩa vụ của doanh
nghiệp trong hoạt động dạy nghề; (5) Chính sách đối với cơ sở dạy nghề

tư thục; (6) Hợp tác quốc tế về dạy nghề; (7) và một số sửa đổi, bổ sung
khác.
2. Về không gian nghiên cứu
- Việc áp dụng pháp luật về dạy nghề tại các Bộ, ngành, địa phương,
CSDN tính từ khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành (năm 2007) đến nay;
- Hệ thống pháp luật về dạy nghề và các bộ luật, luật có liên quan: Bộ
Luật lao động, Luật Giáo dục 2005, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Giáo dục, Luật Doanh nghiệp v.v…
3. Về thời gian nghiên cứu: 12 tháng
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu nhưng tập trung trong
các phương pháp chủ yếu sau:
1. Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, số liệu thông qua việc
thu thập các thông tin thứ cấp và các thông tin do đề tài trực tiếp thu thập,
thực hiện (thông tin sơ cấp), cụ thể:
- Các thông tin thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao
gồm: Nguồn số liệu, thống kê từ Tổng cục Dạy nghề, các Sở Lao động -

5


Thương binh và Xã hội; số liệu tại địa điểm khảo sát; tài liệu từ công
trình nghiên cứu, tư liệu có liên quan;
- Thông tin sơ cấp thu thập thông qua điều tra xã hội học, phỏng vấn
qua bảng hỏi với các câu hỏi soạn sẵn. Đề tài sử dụng 03 phiếu khảo sát:
Phiếu khảo sát thực trạng thi hành Luật Dạy nghề; Phiếu khảo sát Dự
thảo Luật; Phiếu khảo sát chuyên đề (doanh nghiệp);
2. Phương pháp chuyên gia: Sử dụng thông qua 2 hình thức chủ yếu
là hội thảo và lấy ý kiến cá nhân các chuyên gia. Đề tài đã tổ chức 02 Hội
thảo lấy ý kiến của 10 chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực dạy

nghề về những bất cập cần sửa đổi, bổ sung và về những đề xuất sửa đổi,
bổ sung.
3. Tham vấn và khảo sát thực tế một số địa phương, CSDN ở 3 miền
Bắc, Trung, Nam. Đề tài đã tổ chức lấy ý kiến chính thức 337 người
(trong đó có 227 cán bộ quản lý dạy nghề, 58 giáo viên dạy nghề, 52 cán
bộ doanh nghiệp và chuyên gia) thông qua các Hội thảo, Hội nghị về
công tác dạy nghề do Tổng cục Dạy nghề tổ chức. Nội dung khảo sát tập
trung vào: Thực trạng thi hành Luật Dạy nghề (những hạn chế, bất cập);
đề xuất nội dung cần sửa đổi, bổ sung vào Dự thảo Luật; sự cần thiết, khả
thi của những nội dung cần sửa đổi, bổ sung.
VII. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT DẠY NGHỀ
1.1. Thực trạng Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành
1.1.1. Thực trạng chỉ đạo triển khai thi hành Luật Dạy nghề
Theo báo cáo của 52 Bộ, ngành, địa phương và Tập đoàn thì ngay sau
khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành, các Bộ, ngành, địa phương đều
chuẩn bị kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của Bộ, ngành, địa phương
mình theo quy định của Luật Dạy nghề.
Tuy nhiên trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thi hành Luật Dạy nghề
vẫn còn một số những tồn tại, hạn chế nhất định. Còn một số Bộ, ngành,
địa phương vẫn chưa nhận thức đúng mức về vai trò của dạy nghề trong
việc đào tạo nhân lực kỹ thuật là một trong những nhân tố quyết định
thành công và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

6


1.1.2. Thực trạng tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề
Theo báo cáo của 52 Bộ, ngành, địa phương và Tập đoàn, ngay trong

cuối năm 2007, các Bộ, ngành, địa phương đều đã tổ chức quán triệt đến
cán bộ quản lý, chuyên viên về việc thực hiện triển khai thi hành Luật
Dạy nghề, xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề. Các
CSDN, các cơ sở giáo dục có tham gia dạy nghề cũng đã thực hiện việc
tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề ngay sau khi Luật được công bố,
thông qua các hình thức như nói chuyện chuyên đề, lồng ghép trong các
buổi học pháp luật.
Mặc dù Luật Dạy nghề đã được tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi nhưng thực tế cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề
vẫn còn những hạn chế nhất định. Đánh giá về vấn đề này, có 211/227
cán bộ quản lý; 53/58 giáo viên dạy nghề; 45/52 cán bộ doanh nghiệp cho
rằng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn rất hạn chế và hạn chế.
1.1.3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra việc thi hành Luật Dạy nghề
Theo báo cáo của 52 Bộ, ngành, địa phương và Tập đoàn, công tác
kiểm tra thực hiện Luật Dạy nghề cũng được các Bộ, ngành, địa phương
thực hiện định kỳ hàng năm, đảm bảo cho việc thực hiện dạy nghề tại Bộ,
ngành, địa phương được triển khai theo đúng quy định của Luật Dạy
nghề. Qua thanh tra, kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh, tư vấn, hướng dẫn
các đơn vị thực hiện đúng các quy định của pháp luật về dạy nghề.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thanh tra, kiểm tra việc
thi hành Luật Dạy nghề vẫn còn những hạn chế, bất cập. Khi được hỏi ý
kiến về công tác thanh tra, kiểm tra tại địa phương, CSDN, có 68/337
người cho rằng tốt; 247/337 người cho rằng trung bình; 22/337 người cho
rằng yếu.
1.1.4. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Dạy nghề
1.1.4.1. Tình hình ban hành các văn bản thi hành
Tính đến 30/10/2013, đã có 152 văn bản quy phạm pháp luật về dạy
nghề được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để hướng dẫn
triển khai thực hiện Luật Dạy nghề, trong đó có 11 văn bản do Chính phủ
ban hành, 138 văn bản do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban

hành và 3 văn bản liên tịch của các Bộ. Về nội dung văn bản: Có 70 văn
bản quy định và hướng dẫn về các lĩnh vực của hoạt động dạy nghề, và

7


77 văn bản quy định chương trình khung cho 206 nghề đào tạo; 05 văn
bản quy định môn học chung.
1.1.4.2. Đánh giá chung
Một số lượng khá lớn văn bản đã được ban hành (152 văn bản), kịp
thời hướng dẫn triển khai trên các lĩnh vực chủ yếu của hệ thống dạy
nghề 3 cấp trình độ theo quy định của Luật Dạy nghề. Tuy nhiên, bên
cạnh kết quả nêu trên, việc ban hành các văn bản hướng dẫn vẫn còn
những hạn chế, bất cập.
1.2. Thực trạng thi hành Luật Dạy nghề
1.2.1. Về mạng lưới và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề
a) Kết quả triển khai
Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề, tính đến 31/12/2012 cả nước
có 155 trường CĐN (trong đó có 34 trường ngoài công lập), 304 trường
TCN (trong đó có 99 trường ngoài công lập); 868 trung tâm dạy nghề
(trong đó có 327 trung tâm ngoài công lập) và hơn 1000 cơ sở khác (các
cơ sở giáo dục - đào tạo, doanh nghiệp,…) tham gia dạy nghề, tăng 1,5
lần so với năm 2006 (phụ lục 2). Nếu tính cả các cơ sở khác có dạy nghề
(bao gồm đại học, cao đẳng, trung tâm khác có dạy nghề) thì mạng lưới
CSDN cả nước có 1975 cơ sở, trong đó CSDN công lập chiếm 67,2%
b) Đánh giá quy định của Luật hiện hành
Luật Dạy nghề hiện hành chưa có quy định về quy hoạch mạng lưới
CSDN, trong khi đây là vấn đề quan trọng. Kết quả khảo sát ý kiến về
quy hoạch phát triển mạng lưới CSDN thời gian qua đối với 337 người
cho thấy: Có 74 người (chiếm 22%) cho rằng quy hoạch mạng lưới

CSDN tốt; 215 người (chiếm 63,8%) đánh giá khá; 37 người (chiếm
11%) đánh giá trung bình; và có 11 người (chiếm 3,2%) đánh giá việc
quy hoạch CSDN kém.
1.2.2. Về loại hình sở hữu cơ sở dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Như đã trình bày ở trên, trong tổng số 1327 CSDN có: 861 CSDN
công lập5 (chiếm 64,9%), trong số CSDN công lập có 40 trường nghề
5

Trong Đề tài này CSDN thuộc doanh nghiệp Nhà nước được tính vào CSDN công lập

8


thuộc doanh nghiệp nhà nước (chiếm 4,6% tổng số CSDN công lập); 466
CSDN tư thục (chiếm 35,1%).
b) Đánh giá quy định hiện hành
Theo quy định của Luật Dạy nghề hiện hành CSDN công lập phải
đảm bảo đủ 3 tiêu chí: (1) Do Nhà nước thành lập; (2) Do Nhà nước đầu
tư, xây dựng cơ sở vật chất; (3) Do Nhà nước đảm bảo kinh phí cho các
nhiệm vụ chi thường xuyên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định CSDN
là công lập hay tư thục hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đối với
các CSDN thuộc doanh nghiệp nhà nước.
Đánh giá về vấn đề này, hết các ý kiến (84,5%) cho rằng đây là bất
cập cần phải sửa đổi, bổ sung để CSDN thuộc doanh nghiệp nhà nước
phát huy thế mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa dạy nghề và doanh nghiệp.
1.2.3 Về quy mô, cơ cấu nghề đào tạo, trình độ đào tạo
a) Kết quả thực hiện
Quy mô tuyển sinh học nghề năm 2012 đạt hơn 1,49 triệu học sinh,
sinh viên, trong đó CĐN là 84.151 người; TCN là 129.189 người; SCN là

909.265 người và dạy nghề dưới 3 tháng là 369.974 người so với năm
2006 tăng khoảng 1,2 lần. Danh mục nghề đào tạo đã được xây dựng dựa
trên nhu cầu của thị trường lao động. Đến tháng 5/2012 đã có danh mục
nghề của 386 nghề đào tạo ở trình độ cao đẳng, 462 nghề đào tạo ở trình
độ trung cấp. Kết quả khảo sát, thống kê cho thấy, quy mô, cơ cấu nghề
đào tạo còn bất hợp lý. Các nghề đào tạo vẫn tập trung chủ yếu ở các
nghề phổ biến, các nghề đòi hỏi đầu tư thấp.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Theo quy định của Luật Dạy nghề hiện hành, dạy nghề có 3 trình độ
là SCN, TCN, CĐN, chưa đáp ứng yêu cầu nhân lực trình độ cao cho nền
kinh tế. Khảo sát về vấn đề này, có 79,3% ý kiến của cán bộ quản lý,
80,8% giáo viên và 86,2% cán bộ doanh nghiệp cho rằng quy định về
trình độ hiện nay là bất cập, tạo ra sự thiếu hụt lao động kỹ thuật ở trình
độ cao.
1.2.4. Về chương trình dạy nghề
a) Kết quả thực hiện

9


Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành
có liên quan tổ chức biên soạn, phê duyệt, ban hành được 195 bộ chương
trình khung trình độ CĐN, TCN liên thông giữa các trình độ đào tạo
nghề.
b) Đánh giá về quy định hiện hành
Luật Dạy nghề hiện hành quy định, các CSDN tự xây dựng chương
trình của mình trên cơ sở chương trình khung do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội ban hành. Theo góp ý của nhiều chuyên gia (chiếm
84,8%), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần phải tổ chức xây
dựng, ban hành các chương trình trọng điểm quốc gia, sử dụng các

chương trình khu vực và quốc tế mà không cần ban hành chương trình
khung cho các nghề này.
1.2.5. Về đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Trên cơ sở các quy định của Luật Dạy nghề và các văn bản hướng
dẫn về giáo viên dạy nghề, trong những năm qua, đội ngũ giáo viên dạy
nghề tăng khá nhanh về số lượng và chất lượng cũng dần được nâng cao
để đáp ứng yêu cầu dạy nghề 3 trình độ đào tạo.
Hiện nay cả nước có 39.260 giáo viên dạy nghề tại các trường CĐN,
TCN và trung tâm dạy nghề, (trong đó có: 14.277 giáo viên tại các trường
CĐN, 10.874 giáo viên tại các trường TCN và 14.109 giáo viên tại các
trung tâm dạy nghề) và có gần 16.000 giáo viên thuộc các cơ sở khác có
tham gia dạy nghề, tăng 1,7 lần so với năm 2006.
Chất lượng của đội ngũ giáo viên dần được bảo đảm (tại các trường
CĐN, tỷ lệ giáo viên có trình độ tiến sĩ/thạc sĩ là 21,1%; đại học chiếm
63,4%, cao đẳng là 5,5% và trung cấp là 2,7%. Tỷ lệ tương ứng tại các
trường TCN là 6,1%; 53,9%;10,4% và 8,1%; tỷ lệ giáo viên đã qua đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề của các trường CĐN (đạt
chuẩn nghiệp vụ sư phạm) chiếm 82,62%, của các trường TCN chiếm
65,95%, của các trung tâm dạy nghề là 51,71%; tại trường CĐN, tỷ lệ
giáo viên bậc 4 hoặc tương đương là 19,06%, bậc 5 hoặc tương đương là
10,68%, bậc 6 hoặc tương đương là 5,02%, bậc 7 hoặc tương đương là
2,03%, nghệ nhân chỉ có 0,04%. Tỷ lệ này ở trường TCN tương ứng là:
13,5%; 7,59%; 2,29%; 3,11% và 0,32%. Hầu hết giáo viên dạy nghề tận

10


tụy với nghề, có phẩm chất, đạo đức tốt, tích cực tham gia Hội giảng, Hội
thi các cấp và các hoạt động chuyên môn. Một số giáo viên được phong

tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và các giải thưởng cao
quý khác, hàng ngàn giáo viên được công nhận giáo viên dạy giỏi các
cấp.
b) Đánh giá về những quy định hiện hành
Mặc dù cũng đạt được nhiều kết quả khả quan như trên, nhưng quy
định về giáo viên dạy nghề trong Luật Dạy nghề hiện hành còn khá nhiều
bất cập. Luật hiện hành không quy định rõ giữa nhà giáo dạy môn chung
và nhà giáo dạy nghề trong CSDN; không quy định trình độ kỹ năng
nghề của giáo viên dạy nghề; thiếu những cơ chế để đánh giá, phân loại,
giáo viên hàng năm; thiếu chính sách để thu hút giáo viên dạy nghề; thiếu
những chính sách tôn vinh.v.v....
1.2.6. Về cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Công tác chuẩn hóa, hiện đại hóa trang thiết bị dạy nghề đã được
quan tâm bằng việc ban hành các quy định về danh mục thiết bị tối thiểu
cho các nghề đào tạo. Đến nay đã ban hành được 9 danh mục thiết bị tối
thiểu cho 9 nghề trình độ trung cấp và 9 nghề trình độ cao đẳng.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Tuy đã đạt được một số kết quả trên, song trong quy định của Luật
hiện hành không có quy định nào về cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, một
trong điều kiện quan trọng để đảm bảo chất lượng dạy nghề. Đánh giá sự
bất cập về cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề: 83,5% ý kiến của cán bộ
quản lý, giáo viên và doanh nghiệp cho rằng rất bất cập; 14,2% cho rằng
bất cập; chỉ có 2,3% cho rằng không bất cập.
1.2.7. Về kiểm định chất lượng dạy nghề
a) Kết quả thực hiện
Tính đến 31/12/2012 đã kiểm định được 143 CSDN, trong đó: 75
trường CĐN, 41 trường TCN, 27 trung tâm dạy nghề; đã tổ chức đào tạo
được 737 kiểm định viên chất lượng dạy nghề và 2.321 cán bộ tự kiểm
định chất lượng dạy nghề.

b) Đánh giá quy định hiện hành

11


Luật hiện hành chỉ quy định việc kiểm định chất lượng dạy nghề đối
với CSDN nhưng chưa quy định việc kiểm định từng chương trình đào
tạo; chưa có tổ chức kiểm định độc lập, bên cạnh của Nhà nước. Đánh giá
về quy định kiểm định chất lượng dạy nghề: 62,3% ý kiến của cán bộ
quản lý, giáo viên và doanh nghiệp cho rằng rất bất cập; 34,2% cho rằng
bất cập.
1.2.8. Về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
a) Kết quả thực hiện
Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 148 nghề và đã ban
hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 122 nghề; tổ chức biên soạn
đề thi đánh giá kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho
35 nghề, đã ban hành 19 nghề.v.v....
b) Đánh giá quy định hiện hành
Theo quy định của Luật Việc làm vừa được Quốc hội Khóa XIII, kỳ
họp thứ 6 thông qua, Chương này sẽ bị bãi bỏ khi Luật Việc làm có hiệu
lực thi hành.
1.2.9. Về thực hiện quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
a) Kết quả thực hiện
Theo thống kê, hiện nay cả nước có khoảng 355 CSDN thuộc các
doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế, bao gồm: hơn 100 trường TCN,
CĐN (trong đó có 47,57% trường ngoài công lập); còn lại khoảng 250
CSDN (trong đó có 67% ngoài công lập) và hàng trăm CSDN khác tham
gia dạy nghề ngắn hạn. Tuy nhiên, ngoài việc thành lập CSDN tại doanh
nghiệp (chỉ có các doanh nghiệp nhà nước), việc tham gia hoạt động dạy
nghề của doanh còn rất hạn chế do thiếu những cơ chế lợi ích và thiếu

những chế tài.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Điều 55, 56 của Luật Dạy nghề hiện hành có quy định về quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề. Tuy nhiên, đánh
giá về những quy định này nhiều ý kiến, nhất là ý kiến của doanh nghiệp
cho rằng không thể thực hiện được, vì quy định chung chung, thiếu cơ
chế lợi ích bảo đảm cho doanh nghiệp tham gia dạy nghề, đây là yếu tố
mấu chốt. Kết quả khảo sát ý kiến về quyền và nghĩa vụ của doanh

12


nghiệp trong hoạt động dạy nghề cho thấy: Có 219/227 cán bộ quản lý
(chiếm 96,48%); 53/58 giáo viên (chiếm 91,38%); 50/52 cán bộ doanh
nghiệp và chuyên gia (chiếm 96,15%) cho rằng bất cập và rất bất cập, cần
phải sửa, đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề
1.2.10. Về hợp tác, đầu tư với nước ngoài
a) Kết quả thực hiện
Từ năm 2007 đến nay, việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh
vực dạy nghề chủ yếu được thực hiện thông qua các Dự án ODA với
nước ngoài.
b) Đánh giá quy định hiện hành
Việc liên kết đào tạo, mở văn phòng đại diện, công nhận lẫn nhau về
văn bằng, chứng chỉ nghề không thể thực hiện được. Đánh giá về vấn đề
này, có 94,72% cán bộ quản lý (215/227 người); 91,39% giáo viên (53/58
người); 78,83% cán bộ doanh nghiệp (41/52 người) cho rằng rất bất cập.
1.2.11. Một số kết quả khác
Bên cạnh các kết quả nêu trên, sau 5 năm thi hành Luật Dạy nghề,
công tác dạy nghề còn đạt được một số kết quả như: Công tác xã hội hoá
dạy nghề đạt được kết quả bước đầu; dạy nghề đã góp phần bước đầu vào

phân luồng học sinh sau trung học cơ sở vào học nghề; dạy nghề cho lao
động nông thôn đã bước đầu được chú trọng; đã có một số cơ chế chính
sách tạo cơ hội học nghề cho người học nghề; tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về dạy nghề từ Trung ương đến địa phương đã được tăng
cường; nguồn lực đầu tư cho dạy nghề được đa dạng hóa.v.v..
1.3. Đánh giá chung
1.3.1. Những ưu điểm
Qua Tổng kết 5 năm thi hành, có thể khẳng định Luật Dạy nghề đã
thực sự đi vào thực tiễn, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ trong phát
triển nhân lực cho quốc gia. Các quy định của Luật Dạy nghề đã điều
chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dạy nghề. Cùng
với các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Dạy nghề đã tạo nên một hệ
thống pháp luật về dạy nghề tương đối đồng bộ, thống nhất, góp phần
thúc đẩy sự phát triển của dạy nghề.
1.3.2. Những hạn chế, yếu kém

13


Một số quy định của Luật Dạy nghề chưa tạo được cơ chế linh hoạt,
phù hợp với tính đa dạng, phong phú trong dạy nghề, một số quy định
của Luật tính khả thi chưa cao do gặp phải nhiều khó khăn trong thực tiễn
triển khai hoặc do bản thân quy định không sát với thực tế; một số quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đào tạo nghề đã và đang tồn tại trong
thực tiễn nhưng chưa được Luật điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng
chưa cụ thể; một số quy định của Luật chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống
nhất với hệ thống các văn bản luật khác có liên quan được ban hành trong
thời gian qua; chất lượng đào tạo nghề mặc dù đã ngày càng được nâng
cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động; cơ
cấu đào tạo theo nghề và trình độ đào tạo chưa hợp lý, chưa gắn bó hữu

cơ với nhu cầu nhân lực của từng ngành, từng địa phương; các điều kiện
đảm bảo chất lượng dạy nghề còn bất cập; chưa thiết lập được mối liên
kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với CSDN; chưa có chính sách đủ
mạnh để tạo động lực thu hút người dạy nghề và người học nghề.v.v....
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề là yêu
cầu cần thiết, khách quan để giải quyết những hạn chế, bất cập từ những
quy định của Luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ thống nhất cho
dạy nghề phát triển, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao như tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 8 (Khóa XI) đã đề ra.
Chương II.
KIẾN NGHỊ CÁC NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
VÀO LUẬT DẠY NGHỀ
2.1. Quan điểm sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề
2.1.1. Bối cảnh sửa đổi Luật Dạy nghề
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề diễn ra trong bối
cảnh sự phát triển của khoa học công nghệ, xu thế hội nhập, quá trình
quốc tế hoá sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và phân công lao
động diễn ra ngày càng sâu rộng. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương
“đổi mới căn bản, toàn diện” giáo dục, trong đó có đào tạo nghề, tạo điều
kiện cho dạy nghề phát triển.

14


Trong bối cảnh chung nêu trên, nhiều thách thức đang đặt ra đối với
phát triển dạy nghề như: Chất lượng của lao động nước ta còn thấp; thị
trường lao động trong nước và quốc tế đòi hỏi người lao động phải đạt
được chuẩn nghề nghiệp; cơ cấu của các bậc học chưa hợp lý.

2.1.2. Quan điểm sửa đổi
(1) Tổng kết, đánh giá thực trạng đào tạo nghề và kết quả thực hiện
Luật dạy nghề, nhất là tổng kết kinh nghiệm, mô hình sáng tạo từ hoạt
động thực tiễn của các CSDN
(2) Thực hiện thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển dạy nghề
trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết Trung ương 8
(Khóa XI);
(3) Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện dạy nghề theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; thực hiện
gắn kết doanh nghiệp với dạy nghề.
(4) Bảo đảm tăng cường và tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về dạy nghề, đồng thời đảm bảo tính chủ động, sáng tạo,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSDN.
(5) Giải quyết những hạn chế, bất cập, góp phần đổi mới và phát triển
dạy nghề.
(6) Đảm bảo sự thống nhất,đồng bộ với quy định của các bộ luật, các
luật hiện hành, phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết là thành viên.
(7) Hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
2.2. Đề xuất khung Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung
2.2.1. Khung Luật Dạy nghề hiện hành
Luật Dạy nghề được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi
hành ngày 01/6/2007. Luật Dạy nghề có 11 chương với 92 Điều.
2.2.2. Khung Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung
Đề tài đã xác định được 39 điều cần sửa đổi, 11 điều bổ sung vào Luật
Dạy nghề để Dự thảo Luật đảm bảo thể chế hóa những chủ trương đổi
mới giáo dục nói chung, dạy nghề nói riêng của Nghị quyết Hội nghị

15



Trung ương 8, giải quyết những hạn chế, bất cập từ những quy định của
Luật hiện hành, hướng tới hội nhập với các nước trong khu vực.
2.3. Một số nội dung cụ thể cần sửa đổi, bổ sung
2.3.1. Sửa đổi, bổ sung về cơ sở dạy nghề
2.3.1.1. Về quy hoạch mạng lưới
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Trong thời gian qua mạng lưới CSDN được mở rộng, số lượng CSDN
tăng. Tuy nhiên, việc phát triển mạng lưới CSDN chưa đảm bảo tính
khoa học, tính thực tiễn, dẫn đến mạng lưới CSDN phát triển thiếu tính
bền vững, nhiều CSDN được thành lập nhưng hoạt động không hiệu quả.
Do vậy, cần thiết phải có quy định về quy hoạch mạng lưới CSDN ngay
từ Luật Dạy nghề (Luật hiện hành chưa quy định).
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Quy định về: Nguyên tắc, nội dung, thẩm quyền quy hoạch mạng lưới
CSDN để đảm bảo phát triển mạng lưới CSDN có tính khoa học, theo kế
hoạch, đáp ứng sự phát triển của cả hệ thống dạy nghề.
2.3.1.2. Loại hình sở hữu của cơ sở dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Theo quy định của Luật Dạy nghề hiện hành thì có ba tiêu chí để xác
định CSDN công lập phải đảm bảo đủ 3 tiêu chí: (1) Do Nhà nước thành
lập; (2) Do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; (3) Do Nhà nước
đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc xác định CSDN là công lập hay tư thục hiện nay gặp rất nhiều
khó khăn do hiện nay nhiều CSDN của Nhà nước cũng chỉ đáp ứng 2 tiêu
chí.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất quy định CSDN công lập chỉ cần thỏa mãn 2 tiêu chí:
1) Do Nhà nước thành lập; 2) Do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật

chất là đủ (quy định tương tự Luật Giáo dục đại học).
2.3.1.3. Cơ sở tham gia dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung

16


Luật Dạy nghề cho phép trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và
đại học được tham gia dạy nghề. Tuy nhiên thực tế cho thấy, bản thân các
cơ sở giáo dục vẫn chưa đủ các điều kiện để đảm bảo chất lượng đào tạo
hệ chuyên nghiệp, đặc biệt là khối các trường đại học, nay lại tham gia
đào tạo nghề, điều này dẫn đến hệ quả: Nguồn lực của các trường này
vốn đã không đủ, nay lại bị chia sẻ sang hoạt động dạy nghề làm cho cả
chất lượng đào tạo chuyên nghiệp lẫn chất lượng đào tạo nghề đều không
đạt yêu cầu.
b) Đề xuất sửa đổi
Chỉ có cơ sở dạy nghề tham gia hoạt động dạy nghề. Bỏ các điều 15,
22 và 29 quy định về thẩm quyền dạy nghề của các CSDN và bổ sung
thêm 1 khoản tại Điều 50 quy định rõ nhiệm vụ dạy nghề của các CSDN
ở các trình độ.
2.3.1.4. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSDN, Luật Dạy nghề viện
dẫn theo quy định tại các Điều 58, 59 và 60 của Luật Giáo dục, do vậy
còn chung chung, chưa cụ thể với các CSDN.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Bổ sung Điều 50a quy định cụ thể hơn về quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của CSDN trong các lĩnh vực: tổ chức và nhân sự, tài chính và tài
sản, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng dạy
nghề để đảm bảo CSDN thực sự là một chủ thể độc lập, tự chủ.

2.3.1.5. Cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Theo Khoản 2 Điều 52 Luật Dạy nghề, các CSDN có vốn đầu tư nước
ngoài sau khi có giấy phép đầu tư vẫn không thể thực hiện các hoạt động
dạy nghề vì không có quyết định thành lập (không quy định).
b) Đề xuất sửa đổi
Dự thảo đề xuất Bổ sung quy định cụ thể về thẩm quyền cho phép
thành lập CSDN có vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở pháp điển hóa quy
định trong Nghị định 73/2012/NĐ-CP về hợp tác đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực giáo.

17


2.3.1.6. Về lớp dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Lớp dạy nghề là một thực thể đang tồn tại, có mặt khắp các phố, ngõ,
ngách, thôn, xóm, sóc, bản, làng ....từ thành phố đến nông thôn, từ vùng
núi đến vùng đồng bằng....nhưng Luật Dạy nghề không quy định.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung thêm mục 1a, trong chương IV quy định về lớp
dạy nghề, quy định tổ chức, hoạt động và chính sách để thúc đẩy lớp dạy
nghề phát triển.
2.3.2. Sửa đổi, bổ sung về trình độ dạy nghề
2.3.2.1. Trình độ cao đẳng nghề nâng cao
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Luật Dạy nghề mới chỉ quy định 3 cấp trình độ dạy nghề (SCN, TCN
và cao đẳng nghề), thiếu hẳn một cấp độ để người học có thể hoàn thiện
trình độ kỹ năng nghề cao, mà thực tiễn của sản xuất, dịch vụ đòi hỏi
(giáo dục đại học cũng chỉ đáp ứng được phần lý thuyết của nghề).

b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung thêm bậc cao đẳng nâng cao trong trình độ
CĐN để vừa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, vừa đảm bảo phù hợp với
quy định của Luật Giáo dục.
2.3.2.2. Tổ chức, quản lý dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Với quy định của Luật Dạy nghề, hoạt động dạy nghề được thực hiện
theo năm học (niên chế). Theo phương thức này, chất lượng đào tạo
thường thấp vì nội dung chương trình nặng nề, phương pháp dạy học áp
đặt, người học không có cơ hội để thể hiện năng lực bản thân, không có
điều kiện để đạt tới sự thành thục trong luyện tập.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức quản lý dạy nghề theo 2 phương
thức: Theo niên chế và theo mô đun.
2.3.2.3. Mục tiêu dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung

18


Luật Dạy nghề mục tiêu dạy nghề chung (quy định tại Điều 4) và mục
tiêu dạy nghề của các cấp trình độ (quy định tại các điều 10, 17 và 24)
đều thể hiện rất chung chung, chưa hướng vào chuẩn đầu ra, do vậy, dẫn
hướng cho việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình không đáp
ứng được yêu cầu từ thực tiễn.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất mục tiêu dạy nghề hướng vào chuẩn đầu ra (tiêu chuẩn
kỹ năng nghề); cụ thể, có thể lượng hóa được và bám sát yêu cầu từ thực
tiễn, tương ứng với từng trình độ đào tạo là trình độ kỹ năng tương ứng.
2.3.2.4. Chương trình dạy nghề

a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Bất cập trong quy định TTDN phải xây dựng chương trình, trong khi
không có khả năng; chương trình trình độ TCN, CĐN ở các nghề trọng
điểm phải theo chương trình khung.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Quy định để các TTDN được lựa chọn chương trình SCN; quy định
giao cho Bộ Lao động - Thương binh và xã hội ban hành chương trình
dạy nghề trình độ trung cấp và cao đẳng cho các nghề trọng điểm quốc
gia, khu vực và quốc tế.
2.3.2.5. Thời gian dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Bất cập trong quy định thời gian dạy nghề trình độ sơ cấp (từ 3 tháng
đến dưới 1 năm) không cụ thể số giờ thực học tối thiểu cho một khóa
học; thời gian học nghề là quá dài (3 đến 4 năm) cho đối tượng tốt nghiệp
trung học cơ sở ở trình độ trung cấp.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 11 quy định cụ thời gian của
trình độ SCN; rút ngắn thời gian đào tạo trình độ TCN đối với người tốt
nghiệp trung học cơ sở tại Điều 18 và quy định thời gian học theo
phương thức mô đun tại Điều 18 và Điều 25.
2.3.2.6. Giáo trình dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung

19


Việc cho phép các CSDN lựa chọn giáo trình từ giáo trình đã có làm
giáo trình cho cơ sở của mình đã được quy định trong khoản 2 Điều 35
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung

Đề tài đề xuất sửa đổi Điều 14, Điều 21 và Điều 28 theo hướng người
đứng đầu CSDN có thể tổ chức tự biên soạn hoặc có thể tổ chức lựa
chọn.
2.3.2.7. Cấp văn bằng, chứng chỉ nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Dạy nghề nếu được thực hiện theo phương thức mô đun sẽ không cần
phải thi tốt nghiệp cuối khóa. Người học học đến đâu, được công nhận
đến đấy. Khi tích lũy đủ số mô đun quy định trong chương trình thì người
học được xét cấp bằng tốt nghiệp.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi bổ sung các Điều 16, 23 và 30 theo hướng người học theo
phương thức tích lũy mô đun không cần phải thi tốt nghiệp cuối khóa.
2.3.3. Sửa đổi, bổ sung về giáo viên dạy nghề
2.3.3.1. Giáo viên trong các cơ sở dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Quy định hiện hành chưa phân biệt nhà giáo dạy môn chung và dạy
nghề; chưa gọi là giảng viên đối với nhà giáo dạy ở trường CĐN, chưa
quy định chuẩn kỹ năng nghề của nhà giáo.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung quy định về nhà giáo giảng dạy các môn học
chung; sửa đổi bổ sungnhà giáo dạy nghề phải đáp ứng điều kiện về
chuẩn kỹ năng nghề;
2.3.3.3. Về bồi dưỡng giáo viên dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Nhằm bảo đảm cho nhà giáo dạy nghề liên tục được cập nhật kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn
nghề, nhà giáo dạy nghề hàng năm phải được thực hành, thực tập nâng
cao trình độ nghề nghiệp tại các doanh nghiệp.

20



b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất quy định hàng năm nhà giáo phải có thời gian thực
hành, thực tập tại doanh nghiệp có ngành, nghề của nhà giáo đang giảng
dạy.
2.3.3.4. Chính sách đối với giáo viên dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Điều 62 của Luật Dạy nghề về chính sách đối với giáo viên dạy nghề
còn quy định chung chung và viện dẫn theo quy định của Luật Giáo dục.
Đây thực sự là những rào cản trong việc phát triển đội ngũ nhà giáo dạy
nghề hiện nay đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất quy định cụ thể nhà giáo dạy nghề ngoài các chính sách
chung được hưởng hiện nay như chính sách tiền lương, phụ cấp khu vực,
phụ cấp thâm niên còn được hưởng phụ cấp dạy nghề, chính sách tôn
vinh và các chính sách khác, không viện dẫn vào Luật Giáo dục
2.3.4. Sửa đổi, bổ sung quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong dạy
nghề và Quỹ hỗ trợ dạy nghề
2.3.4.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Hiện nay các quy định trong Luật Dạy nghề còn chung chung, lẫn
giữa quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp; thiếu chế tài gắn kết giữa
doanh nghiệp với dạy nghề, dẫn tới chưa gắn kết được; hiệu quả dạy
nghề không cao.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung quy định tại Điều 55 về quyền doanh nghiệp
được dạy nghề trình độ sơ cấp và dạy các chương trình dạy nghề thường
xuyên; một số loại chi phí quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 56 và
Điều 57 được trừ để tính thu nhập chịu thuế để đảm bảo quyền lợi của

doanh nghiệp khi tham gia dạy nghề, đồng thời quy định chế tài trong
trường hợp doanh nghiệp không tham gia hoạt động dạy nghề.
2.3.4.3. Quỹ phát triển dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung

21


Điều 86 Luật Dạy nghề quy định Quỹ hỗ trợ học nghề được thành lập
dùng để hỗ trợ cho người học nghề. Tuy nhiên thực tế người học nghề
hiện nay đang được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước
nên không cần phải có một Quỹ riêng từ ngân sách để hỗ trợ người học.
Chính vì vậy, trong thời gian qua Quỹ này không được triển khai thực
hiện trong thực tế.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất thay quy định về Quỹ hỗ trợ học nghề bằng Quỹ phát
triển dạy nghề với đối tượng đóng và hưởng chủ yếu là các doanh
nghiệp. Quỹ không nhằm mục đích lợi nhuận và do đại diện của các
doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động dạy nghề.
2.3.5. Sửa đổi, bổ sung về kiểm định chất lượng dạy nghề
a) Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Như đã trình bày tại Chương 1, hoạt động kiểm định chất lượng dạy
nghề thời gian qua chỉ thực hiện đối với các cơ sở dạy nghề, chưa thực
hiện đối với chương trình dạy nghề; chỉ thực hiện bởi tổ chức kiểm định
của nhà nước, chưa có các tổ chức kiểm định độc lập.
b) Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 74 và Điều 75 để bổ sung việc kiểm
định chương trình và tổ chức kiểm định độc lập.
2.3.6. Sửa đổi, bổ sung về hợp tác quốc tế
2.3.6.1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung

Hợp tác quốc tế về dạy nghề quy định tại Điều 87 Luật Dạy nghề
nhưng không quy định trực tiếp mà viện dẫn theo các Điều 108 và 109
của Luật Giáo dục dẫn tới bất cập trong thẩm quyền công nhận văn bằng,
chứng chỉ nghề (do Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện).
2.3.6.2. Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Đề tài đề xuất bổ sung một số nội dung hợp tác quốc tế về dạy nghề
trên cơ sở pháp điển hóa một số nội dung Nghị định 73/2012/NĐ-CP.
2.3.7. Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung khác
Bên cạnh các đề xuất chính nêu trên, Đề tài đã thực hiện đề xuất sửa đổi,
bổ sung các nội dung khác của Luật Dạy nghề (xem thêm Phụ lục 5)

22


2.4. Khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của các dề xuất
Để đảm bảo tính khách quan, khoa học của những nội dung đề xuất
sửa đổi, bổ sung trong Luật, Đề tài đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến trực
tiếp 337 cán bộ quản lý dạy nghề, giáo viên dạy nghề, cán bộ doanh
nghiệp và chuyên gia thông qua các Hội thảo, Hội nghị, Tọa đàm tổ chức
trong thời gian từ 15/12/2012 đến 30/10/2013 (09 hội thảo) tại các vùng,
miền, địa phương trong cả nước về tính cấp thiết, tính khả thi của các nội
dung đề xuất. Về cơ bản các ý kiến đều cho rằng các nội dung đề xuất là
cần thiết, vừa giải quyết những bất cập trong thực tiễn, vừa thực hiện chủ
trương đổi mới căn bản toàn diện dạy nghề; nội dung đề xuất có tính khả
thi cao.
2.5. Điều kiện và lộ trình sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề
2.5.1. Điều kiện thực hiện
- Điều kiện pháp lý
- Điều kiện nhân lực
- Điều kiện về tài chính

2.5.2. Lộ trình thực hiện
Thực hiện theo Nghị quyết số 20/2011/QH13 về chương trình xây
dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Nghị quyết số
45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 về điều chỉnh Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013, Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, và Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày
17/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì
soạn thảo Dự án luật, pháp lệnh thuộc chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh năm 2013.
KẾT LUẬN
Giáo dục đào tạo nói chung, dạy nghề nói riêng được coi là động lực
quan trọng nhất cho sự phát triển(6), một nhân tố quyết định để thực hiện
thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định tầm quan
trọng của giáo dục, đào tạo, dạy nghề, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành nghị quyết về "Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
6

Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW khóa XI

23


đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế", trong đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nói chung, dạy nghề nói riêng
(7). Theo đó, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề, hoàn thiện
hệ thống pháp luật về dạy nghề theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện
dạy nghề là một trong những giải pháp cơ bản, có tính cấp bách để thể
chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về giáo dục, dạy nghề trong

giai đoạn hiện nay.
Thực hiện Nghị quyết số 20/2011/QH13 về chương trình xây dựng
Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Nghị quyết số
45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 về điều chỉnh Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013, Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 và Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày
17/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì
soạn thảo Dự án luật, pháp lệnh thuộc chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh năm 2013, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tích cực
chuẩn bị cho việc xây dựng Dự án Luật.
Với bối cảnh như vậy, Đề tài "Thực trạng thi hành pháp luật về dạy
nghề và kiến nghị các nội dung cần sửa đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề"
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Đề tài góp phần quan trọng vào
việc định hướng, chuẩn bị các cơ sở khoa học cho việc thực hiện Dự án
Luật đã được Chính phủ giao. Qua quá trình nghiên cứu nghiêm túc,
công phu, Đề tài đã đạt được những mục tiêu nghiên cứu đề ra, cụ thể:
(1) Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về dạy nghề và thực hiện
pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam trong những năm qua. Bằng các luận
cứ khoa học, Đề tài đã đưa ra những nhận định, đánh giá đầy đủ, cụ thể
về thực trạng Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành; thực trạng
thực hiện Luật Dạy nghề, đánh giá về những kết quả đạt được, một số tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân.
(2) Trên cơ sở đó Đề tài đã đề xuất, kiến nghị những nội dung cần sửa
đổi, bổ sung vào Luật Dạy nghề góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
về dạy nghề cụ thể như:

7

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành TW Đảng (khóa XI), ngày 4 tháng 11 năm 2013


24


- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về CSDN với 06 nội dung cơ bản bao
gồm: Quy hoạch mạng lưới CSDN; về loại hình CSDN; về cơ sở tham
gia dạy nghề; về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSDN; về CSDN
có vốn đầu tư nước ngoài và về lớp dạy nghề.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về trình độ dạy nghề với 07 nội dung cơ
bản như: Trình độ CĐN nâng cao; tổ chức quản lý dạy nghề; mục tiêu
dạy nghề; chương trình dạy nghề; thời gian dạy nghề; giáo trình dạy nghề
và cấp văn bằng, chứng chỉ dạy nghề
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về giáo viên dạy nghề với 03 nội dung
như: Về các loại giáo viên trong CSDN; về sử dụng, tuyển dụng, bồi
dưỡng giáo viên dạy nghề và về chính sách đối với giáo viên dạy nghề.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong dạy nghề và Quỹ hỗ trợ dạy nghề
- Kiến nghị chính sách đối với CSDN tư thục; về hợp tác quốc tế và
một số kiến nghị khác.
Bên cạnh từng kiến nghị, đề xuất là những lý giải khoa học về sự cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung và được kiểm chứng, khảo nghiệm từ thực tiễn
thông qua việc lấy ý kiến góp ý của các đối tượng liên quan.
Với kết quả nghiên cứu như vậy, chắc chắn Đề tài sẽ góp phần quan
trọng vào việc chuẩn bị, phục vụ cho Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Dạy nghề sẽ trình Quốc hội vào cuối năm 2014./.

25


×